TRƯNG HÀ

TRƯNG HÀ

 

Đại Cương

 

Phụ nữ vùng bụng dưới có khối u hoặc đầy trướng hoặc đau, gọi là Trưng Hà. Trưng và Hà có những điểm không giống nhau.

            Trưng có nghĩa là chinh chiến, cứng không vỡ, bền chắc, khó di chuyển, khối cứng có nơi nhất định, bệnh thuộc về phần huyết.

            Hà là giả tạo, mượn vật khác mà hình thành, có đặc tính di động, lúc tụ, lúc tan, ấn nhẹ vào thấy chuyển động, đau không có chỗ nhất định, bệnh thuộc về phần khí.

Sách ‘Phụ Khoa Trung Y Học Giảng Nghĩa’  lại cho rằng: Bụng dưới cứng, có khối u, không di xhuyênr, gọi là ‘Trưng’. Lúc tan, lúc tụ, đau không nhất định một chỗ nào gọi là ‘Hà’.

Trên lâm sàng thường thấy lúc đầu do khí tụ, lâu ngày huyết ứ lại gây nên chứng trưng, vì vậy, người xưa xếp chung trưng hà vào làm một.

Theo YHHĐ, Trưng hà tương đương với các chứng: U bướu ở bộ phận sinh dục,Xoang chậu viêm, Tử cung nội mạc dị vị (Lạc nội mạc tử cung).

Nên kết hợp với các phương pháp kiểm tra, sinh thiết để có thể chẩn đoán những trường hợp ác tính gây biến chứng không tốt.

 

Nguyên Nhân

 

Đa số do tạng phủ không điều hoà, khí cơ bị trở trệ huyết ứ ở bên trong, huyệt tụ gây nên chứng hà, huyết kết gây nên chứng trưng. Thường thấy do khí trệ, huyết ứ, đờm thấp và nhiệt độc gây nên.

Sách ‘Y Học Tứ Hải’ viết: “Chứng huyết trưng sinh ra do người phụ nữ đang hành kinh hoặc sau khi sinh hoặc do phong lãnh gây tổn thương hoặc do ăn uống gây nên, khiến cho huyết bị ngưng trệ không tan, lâu ngày thành hòn cục sinh ra đau”.

Sách ‘Phụ Nhân Lương Phương’ viết: “Chứng sán hà, do ăn uống không điều độ, nóng lạnh thất thường, khí huyết bị lao thương, tạng phủ bị hư yếu, phong hàn xâm nhập vào bụng hợp với huyết kết lại gây nên bệnh”.

+ Khí Trệ: Do thất tình bị tổn thương, Can khí uất kết, khí huyết vận hành bị trở ngại, ứ lại ở mạch Xung, bào cung kết tụ lại ở bụng dưới gây nên chứng trưng hà do khí trệ.

+ Huyết Ứ: Lúc hành kinh, sau khi sinh đẻ, bào mạch đang bị hư rỗng, huyết dư chưa ra hết, giao hợp không điều độ hoặc cảm phải tà khí bên ngoài làm cho khí huyết bị ngưng trệ, hoặc do tức giận làm ảnh hưởng đến Can, khí bị nghịch, huyết ứ lai. Hoặc do suy nghĩ làm cho Tỳ bị tổn thương, khí bị hư mà huyết bị ứ, làm cho huyết bị ứ trệ lại, huyết ứ ở bên trong tụ lại thành ra chứng trưng.

+ Đờm Thấp: Cơ thể tạng Tỳ vốn bị hư yếu hoặc ăn uống không điều độ làm choTỳ Vị bị tổn thương, chức năng tiêu hoá giảm sút, thấp trọc tụ lại bên trong, tụ lại hoá thành đờm, đờm thấp lưu chú ở mạch Xung, mạch Nhâm, gây nên trở trệ ở bào lạc, đờm và huyết tương bác nhau, tụ lại thành chứng trưng.

Nhiệt Độc: Lúc hành kinh, sau khi sinh, bào lạc đang hư yếu, trống rỗng, huyết dưchưa ra hết, bộ phận sinh dục bên ngoài chưa bình thường hoặc giao hợp thái quá hoặc nhiễm thấp nhiệt, tà độc vào phần lý, hoá thành nhiệt, nhiệt độc và huyết giao tranh nhau, ứ trệ lại ở mạch Xung, kết lại ở bào mạch gây nên chứng trưng hà.

 

Chẩn Đoán

 

+ Bệnh sử:  Đang hành kinh hoặc sau khi sinh bị cảm ngoại tà; Tình chí thường không được thoải mái; Kinh nguyệt thường không đều; Bị chứng huyết trắng.

+ Bệnh chứng: bụng dưới có khối u hoặc đầy trướng hoặc đau.

+ Kiểm tra: Khám phụ khoa thấy cổ tử cung viêm, tử cung viêm, buồng trứng có khối u, niêm mạc tử cung lệch lạc...

 

Nguyên Tắc Điều Trị

 

Điều trị chứng Trưng Hà chủ yếu dùng phương pháp ‘phá huyết tiêu tích’ và ‘ôn trung hành khí’.

Có hình có chất thì dùng thuốc phá huyết, tiêu tích. Nếu không hình không chất, khí gây nên đau, lúc tụ lại lúc tan đi thì nên hành khí, hòa trung làm chính. Nếu khí huyết đã hư mà trưng hà chưa trừ được thì nên bổ khí huyết trước, khí huyết đầy đủ thì chứng tích phải tiêu. Sách ‘Vệ Sinh Bảo Giám’ viết: Dưỡng chính khí thì tích phải tiêu, trước hết nên lo điều dưỡng để cho phần vinh, vệ đầy đủ, nếu không tiêu được thì mới dùng phép hạ”.

Tóm lại, muốn trị bệnh trung hà, phải xét kỹ thể chất người bệnh khỏe mạnh hoặc yếu, bệnh ở phần cạn hoặc sâu, thời gian lâu hoặc mau. Nếu cơ thể khỏe mạnh, mới bị bệnh thì dùng phép công, nếu thể chất đau yếu lâu ngày, vừa nên công vừa bổ hoặc thiên về bổ, còn khi dùng phép để công bệnh thì nên làm cho nó hao mòn một cách từ từ.

 

Triệu Chứng Lâm Sàng

 

+ Thể Khí Trệ: Bụng dưới có khối u, không cứng, khối u di động theo khí lênxuống, lúc có lúc không, lúc ở trên lúc ở dưới, có lúc đau, đau không có chỗ nhất định, bụng dưới đầy, ngực không thoải mái, tinh thần uất ức, kinh nguyệt không đều, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Huyền.

Điều trị: Hành khí, yiêu trệ. Dùng bài Hương Lăng Hoàn (Tế Sinh Phương):  Chỉ xác (sao với miến)  40g,  Đinh hương 20g,  Hồi hương (sao) 40g, Mộc hương     20g, Nga truật (thái nhỏ) 40g, Thanh bì 40g, Tam lăng (ngâm rượu 1 đêm) 40g,    Xuyên luyện tử nhục             40g. Lấy 30 hột Ba đậu, bỏ vỏ, sao chung với Nga truật, khi Ba đậu sắc vàng, bỏ Ba đậu đi. Tất cả tán bột, làm hoàn. Ngày uống 12 - 16g với nước Gừng pha muối loãng hoặc với rượu.   

Hoặc tán bột. Nấu bột mì làm hồ, trộn thuốc bột làm viên. Dùng Chu sa bọc ngoài. Ngày uống 8-12g, với nước Gừng pha ít muối hoặc uống với rượu. 

( Đinh hương, Mộc hương, Tiểu hồi hương để ôn kinh, lý khí; Thanh bì để sơ Can, giảiuất, tiêu tích, hành trệ; Xuyên luyện tử, Chỉ xác để trừ uất kết ở hạ tiêu, hành khí, chỉ thống; Tam lăng, Nga truật để hành khí, phá huyết, tiêu trưng, tán kết; Chu sa để hộ tâm, an thần).  

 

+ Thể Huyết Ứ: Bụng dưới có khối u, cứng, cố định một chỗ, không di dời, ấn vào thấy đau, da không tươi nhuận, miệng khô, không muốn uống nước, kinh nguyệt đến trễ hoặc ra rỉ rả không dứt, sắc mặt u ám, lưỡi tím đậm, rêu lưỡi béo mà khô, mạch Trầm, Sáp, có lực.

Điều trị: Hoạt huyết, phá ứ, tán kết, tiêu trưng.

. Thể nhẹ: Dùng bài Quế Chi Phục Linh Hoàn (Kim Quỹ Yếu Lược): Đào nhân, Đơn bì, Phục linh, Quế chi, Thược dược. Lượng bằng nhau. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 8 - 12g.

(  Quế chi để ôn thông huyết mạch; Thược dược hành huyết trệ, khai uất kết; Phục linh thấm thấp để làm cho huyết dễ lưu thông, hợp với Quế chi để vào phần âm, thông dương; Đơn bì, Đào nhân để phá ứ, tán kết, tiêu trưng).  

. Thể nặng: Dùng bài Đào Nhân Tiễn (Bản Sự Phương): Đào nhân, Đại hoàng đều 40g, Mang trùng (sao đen) 20g, Phác tiêu (nghiền riêng) 40g. Tán nhuyễn. Lấy Dấm, 2,5 tô (1 lít), cho vào siêu đất, sắc nhỏ lửa còn 1,5 tô, cho vào bột Mang trùng, Đại hoàng và Đào  nhân, quấy đều cho đến khi có thể làm thuốc được thì cho bột Phác tiêu vào trộn đều, làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng. Khi dùng, nhịn ăn bữa tối hôm trước, đến sáng canh năm, uống 5 viên với rượu ấm. Đến trưa sẽ đi tiêu ra chất như nước đậu huyết hoặc như gan con gà. Nếu chưa đi tiêu thì uống một lần nữa. Nếu ra huyết tươi thì không uống nữa. Sau đó uống thuốc để điều bổ khí huyết lại).

            Nếu lâu ngày huyết tích lai kèm sắc mặt xanh trắng, hơi vàng, gầy ốm, chóng mặt, hồi hộp, ù tai, hoa mắt, rêu lưỡi có vết nứt, mạch Tế Sắc. Nên dùng bài Tăng Vị Tứ Vật Thang (Tế Âm Cương Mục): Đương quy, Xuyên khung Thược dược, Thục địa, Tam lăng, Nga truật, Nhục quế, Can tất (sao cho hết khói). Lượng bằng nhau. Tán bột. Mỗi lần uống 12g với nước).

            Nếu do hàn đọng lại gây nên ứ huyết (sắc mặt xanh xám, sợ lạnh, bụng lạnh đau, thích chườm ấm, lưỡi hơi xanh, rêu mỏng trắng, mạch Trì Sắc), giống như dạng Thạch hà, nên dùng bài Kiến Nghiện Đơn (Vệ Sinh Bảo Giám): Phụ tử 12g, Quỷ tiễn vũ, Tử thạch anh (nghiền riêng, phi) đều 9g, Trạch tả, Nhục quế, Huyền hồ, Mộc hương đều 6g, Huyết kiệt 4,5g (nghiền riêng), Thủy điệt (sao đến khi hết khói), Binh lang đều 7,5g, Đào nhân 30 hột (bỏ vỏ, đầu nhọn, sao, nghiền riêng), Tam lăng, Đại hoàng đều 15g. Tán bột, dùng rượu làm hồ làm viên to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên với nước pha Dấm hoặc Rượu, uống trước bữa ăn).

 

+ Thể Đờm Thấp: Bụng dưới có khối u, ấn vào không cứng hoặc có khi đau, huyết trắng (khí hư) ra nhiều, mầu trắng đục, dính, vùng ngực bụng đầy tức khó chịu, uống vào thì muốn ói, kinh nguyệt ra không đều hoặc bị bế kinh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng bệu, mạch Huyền Hoạt.

Điều trị: Trừ thấp, hóa đờm, tiêu trệ. Dùng bài: Tán Tụ Thang (Tam Nhân Cực – Bệnh Chứng Phương Luận): Bán hạ 30g, Cam thảo  40g,  Chỉ xác 40g, Đương  quy  30g, Hạnh nhân      40g, Hậu phác 40g,  Ngô thù 40g, Phụ tử  40g, Phục linh 40g, Quế tâm  80g, Tân lang  30g, Trần bì  80g, Xuyên khung 40g. Sắc uống.

(Hạnh nhân, Trần bì, Binh lang để làm cho khí trệ ở thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu được lưu thông để làm tan đờm; Bán hạ, Phục linh trừ thấp, hóa đờm, giáng nghịch, chống ói; Quế tâm, Đương quy để ôn kinh, hoạt huyết, tiêu trưng; Cam thảo điều hòa các vị thuốc).

 

            + Thể Thực Tích: Trưng hà tích tụ lâu ngày, mặt xanh nhạt hoặc vàng úa, da khô, cơ thể gầy ốm, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, hồi hộp, ít ngủ, sợ lạnh, không muốn ăn uống, lưỡi nhạt, mạch Hư.

Điều trị: Ôn trung, tán hàn, tiêu trưng, tán kết. Dùng bài Đương Quy Kiến TrungThang (Thiên Kim Phương): Đương quy 12g, Quế chi 9g, Thược dược 18g, Sinh khương 9g, Đại táo 2 trái, Cam thảo 6g. Sắc uống.

 

 

Bệnh Án Trưng Hà

(Trích trong ‘Nữ Khoa Chuẩn Thằng)

 

Một phụ nữ tính hay uất giận, siêng việc nữ công, trong bụng dưới kết một khối, khi đau, khi đầy tứùc, kinh nguyệt không đều, uống nhiều thuốc làm tổn thương can, sinh ra nóng bên trong và nóng lạnh, ngực không được thoải mái, ăn uống không biết ngon, thân thể ngày một gầy ốm, hàm răng sâu mòn, đó là vì tỳ thổ không sinh phế kim, phế kim không sinh thận thủy, thận thủy không sinh can mộc, can mộc phải tư nhuận hóa nguyên. Dùng Bổ Trung Ích Khí Thang, Lục VịHoàn; Đến trọng xuân thì khỏi.

 

Bệnh Án Trưng Hà

(Trích trong ‘Nữ Khoa Y Án Tuyển Túy’)

 

Một người đàn bà trong bụng nổi khối u, bất thần xông lên, hoặc đau nghe tiếng kêu, ứa nước chua, tức ngực, kinh nguyệt không đều, tiểu không thông, mặt xanh vàng, bệnh đã hơn hai năm. Đó là can khí và tỳ khí bị trệ. Cho uống Lục Quân Tử Thang  thêm Xuyên khung, Đương quy, Sài hồ, Mộc hương, Ngô thù du (sao), Xuyên liên. Uống 2 thang. Sau đó cho uống Quy Tỳ Thang và Lô Hội Hoàn một tháng để hạ, can tỳ hòa thì bệnh khỏi. Lại cho uống  Bổ Trung Ích Khí Thang thêm Phục linh, Đơn bì. Trung khí mạnh thì kinh cũng điều hòa.