Nội kinh, Nạn Kinh viết về châm cứu chữa bệnh
- Thứ ba - 10/05/2011 07:41
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ươngNội kinh, Mạn Kinh đã xác định châm cứu là một trong các phương pháp chữa bệnh. Khái quát như sau: chúc do (phù chú) chữa rối loạn tâm thần; uống thuốc để chữa bệnh từ bên trong, châm để chữa bệnh từ bên ngoài (Tố Vấn di tinh biến khí luận, trang 74).
Người thân thể bình thường, song tinh thần khổ não làm khí của kinh mạch không thông nên mạch có bệnh, cần dùng châm cứu để chữa.
Người phú quý nhàn hạ rong chơi nên cơ nhục có bệnh, cần dùng châm thạch để chữa.
Người làm việc vất vả, lo nghĩ nhiều, tinh thần u uất làm tì vị bị ảnh hưởng, cơ thể không được nuôi dưỡng tốt có đau họng, cần dùng thuốc để chữa… (Tố Vấn huyết khí hình chí luận, trang 147).
Cơ thể gồm có lục phủ, ngũ tạng, ngũ thể (mạch, da, cơ, cân, xương) và ngũ quan cửu khiếu. Cơ thể được nuôi dưỡng bằng huyết khí tuần hành trong kinh mạch, cơ thể hoạt động được nhờ nguyên khí chân khí, ở tạng phủ là khí của tạng phủ, ở kinh mạch là kinh khí, mạch khí, ở huyệt là thần khí).
Khi khí lên xuống bình thường (khí hòa) thì ngũ tạng yên, huyết mạch hòa lợi, tinh thần yên tĩnh (Linh Khu bình nhân tuyệt cốc, trang 273). Khí huyết hòa thì kinh mạch thông sướng, tuần hoàn không bị trở ngại, âm dương được duy trì tốt, gân xương được khỏe mạnh, các khớp được linh lợi (Linh Khu bản tạng, trang 341).
Cơ thể có thể bị bệnh, ý là tất cả mọi tổ chức ở trong cơ thể đều có thể bị bệnh. Theo ý: khi khí huyết không điều hòa thì sinh bách bệnh, vì vậy phải làm cho kinh toại thông sướng (Tố Vấn điều kinh luận, trang 322).
Cơ chế sinh bệnh là tà khí tác động và chính khí suy yếu theo ý: tà khí thịnh tắc thực, tinh khí đoạt tắc hư (Tố Vấn thông bình hư thực luận, trang 163).
Để chữa bệnh bằng châm, thì nguyên tắc chủ yếu là hư thì bổ cái hư của nó, thực thì tả cái thực của nó theo ý: phàm dụng châm giả hư tắc thực chi, mãn tắc tiết chi, uyển trần (ứ trệ lâu ngày) tắc trừ chi, tà thịnh tắc hư chi – Linh Khu cửu châm thập nhị nguyên, trang 3). Để thực hiện được việc bổ tả trạng thái hư thực của các tổ chức khác nhau bị bệnh, người ta dùng kim châm vào huyệt đại diện của chúng, và đưa dần mũi kim đến tổ chức có bệnh, trên cơ sở đó làm thủ thuật bổ tả. Mục đích của thủ thuật bổ tả là để điều khí, khi khí được điều hòa thì huyết sẽ hòa, khi huyết hòa thì kinh mạch thông sướng, âm dương được nuôi dưỡng tốt, gân xương được khỏe mạnh, các khớp được linh lợi (Linh Khu bản tạng, trang 341).
Khái quát như sau:
+ Ngũ tạng lục phủ kinh lạc chi thể khớp khi có bệnh đều có hư thực, cần xem bệnh ở đâu để điều hòa ở đó, bệnh ở mạch thì điều huyết (vì mạch là phủ của huyết), bệnh ở huyết thì điều lạc (vì lạc là nơi huyết lưu hành), bệnh ở khí thì điều vệ (vì vệ là chủ của khí), bệnh ở nhục thì điều phân nhục, bệnh ở cân thì điều cân, bệnh ở cốt thì điều cốt (Tố Vấn điều kinh luận, trang 330); ở người bị chứng tí đau chạy ở nhiều chỗ khác nhau thì châm vào chỗ đau sâu đến phân nhục (Tố Vấn mậu thích luận, trang 335).
+ Và khi châm vào từng tổ chức bị bệnh cần: châm chữa bệnh ở xương không được châm nông làm tổn thương cân…, không được châm sâu làm tổn thương tủy; châm chữa bệnh ở cân không được châm nông gây tổn thương cơ nhục…, không được châm sâu làm tổn thương xương; châm chữa bệnh ở cơ nhục không được châm nông gây tổn thương mạch…, không được châm sâu gây tổn thương cân; châm chữa bệnh ở mạch không được châm nông gây tổn thương da…, không được châm sâu gây tổn thương cân; châm chữa bệnh ở da không được châm sâu làm tổn thương cơ nhục; châm chữa bệnh ở tấu lý không được châm sâu làm tổn thương da (Tố Vấn Thích tề luận, trang 270, và Thích yếu luận, trang 269-270).
Có thể tóm lại về châm nông sâu như sau: do vị trí bị bệnh có ở nông, ở sâu, cho nên có châm nông châm sâu, và châm đến đúng nơi có bệnh là đúng nhất. Nếu châm sâu quá sẽ gây tổn thương ở bên trong (nội thương), nếu châm nông quá gây úng trệ ở ngoài, tà khí nhân lúc khí tắc nghẽn lại ở ngoài đó mà vào sâu trong lí. Nếu châm nông châm sâu không đúng không những không chữa được bệnh, ngược lại thành đại họa, nếu châm sâu quá vào đến ngũ tạng thì sinh đại bệnh (Tố Vấn thích yếu luận, trang 269).
- Ở mỗi cơ quan bị bệnh cần chọn huyệt đại diện cho từng cơ quan đó để chữa. Cụ thể là:
Chữa bệnh của ngũ tạng: chọn 12 huyệt nguyên của 12 đường kinh mạch (chủ yếu huyệt nguyên của đường kinh vào tạng đó – Linh Khu thập nhị nguyên, trang 11); chọn các huyệt mộ và bối du của tạng (Tố Vấn trường thích tiết luận, trang 282); chọn huyệt ngũ du (tỉnh huỳnh du kinh, hợp) của kinh mạch có liên quan (Nạn Kinh điều 68).
Chữa bệnh của lục phủ: chọn huyệt hợp của kinh có liên quan (Linh Khu tà khí tạng phủ bệnh hình, trang 49); chọn huyệt hội của phủ (trong bát huyệt hội – Nạn Kinh điều 45).
Chữa bệnh của mạch: chọn huyệt trên đường kinh có liên quan với vị trí bệnh; chọn huyệt hội của mạch (Nạn Kinh điều 45).
Chữa bệnh của các tổ chức tủy, xương, khí, huyết: chọn huyệt hội của tủy, của xương, của khí, của huyết trong bát hội huyệt (Nạn Kinh điều 45).
Chữa bệnh của cân: chọn huyệt hội của cân trong bát hội huyệt (Nạn Kinh điều 45); chọn điểm đau làm huyệt (Linh Khu kinh cân, trang 163).
- Về tiến trình châm huyệt cụ thể, cũng đã xác định:
Trước khi châm, phải trị thần trước (Tố Vấn Bảo mệnh toàn hình, trang 161), vì: làm cho thần của bệnh nhân yên thì khí dễ hành (Tố Vấn Châm giải, trang 280).
Khi châm cần phải đạt đắc khí, vì khí đến mới có tác dụng (Linh Khu Cửu châm thập nhị nguyên, trang 8), và cần nắm vững tác dụng điều khí để tiến hành thủ thuật bổ tả, và luôn nhớ điều quan trọng trong khi châm là không được quên dưỡng cái thần của bệnh nhân (Linh Khu Quan năng, trang 497).
- Về thủ thuật bổ tả:
Nguyên tắc chung như sau: với chứng hư dùng phép bổ làm chính khí vượng trở lại, với chứng thực dùng phép tả để tà khí sơ tiết ra ngoài, với chứng ứ tích lâu ngày phải tiết huyết ứ để loại trừ nó đi.
Tiến kim từ từ, rút kim ra nhanh thì chính khí sẽ vượng mà không tiết ra ngoài đấy là phép bổ.
Tiến kim nhanh và rút kim từ từ thì tà khí sẽ theo kim ra ngoài, từ thịnh chuyển thành hư, đấy là phép tả (Linh Khu cửu châm thập nhị nguyên, trang 3).
Và nhắc rằng: bệnh có hư có thực, chữa phải có bổ có tả, thày châm không được bỏ thủ thuật bổ tả này, nếu không rất có thể đáng bổ thì lại tả, đáng tả thì lại bổ. Nếu châm xong bệnh không đỡ mà lại nặng lên, đó là do đã bỏ phép bổ phép tả (Tố Vấn châm giải, trang 278). Lại căn dặn: khi châm mà kinh khí đến (đắc khí) thì phải làm thủ thuật bổ tả ngay, không nên để kinh khí thay đổi rồi mới làm thủ thuật (Tố Vấn châm giải, trang 279), và châm cũng có thể gây hại, như châm đúng chỗ bệnh rồi đáng rút kim lại không rút để tinh khí tiết ra, hoặc châm chưa đúng chỗ bệnh đã rút kim làm tà khí ngưng tụ lại thành ung (Linh Khu hàn nhiệt bệnh, trang 215).
- Không được châm cho những bệnh nhân sau giao hợp, đang say rượu, vừa giận dữ xong, mới mệt nhọc xong, vừa ăn no xong, đang đói qua đang khát quá, đang lo sợ quá, vừa đi đường xa đến (đi bộ hoặc đi xe). Không châm vì lúc đó bệnh nhân đang có mạch loạn, khí tán, dinh vệ tuần hoàn không bình thường, huyết khí tuần hoàn trong kinh lạc không thuận lợi. Nếu cứ châm thì bệnh tà ở dương (nông) sẽ đi sâu vào nội tạng (lí), bệnh ở nội tạng (lí) sẽ truyền ra biểu gây bệnh ở cả lí và biểu, âm dương càng bị rối loạn tạo thời cơ cho tà khí phát triển và làm chính khí càng hư suy (thần kinh chung thủy, trang 100).
- Không được châm sâu vào đúng tâm, đúng phế, đúng tì, đúng đởm, đúng can, đúng mạch xung dương, đúng mạch dưới lưỡi, đúng mạch khí xung, đúng đại mạch ở mặt trong đùi, đúng mạch thái âm phế ở tay, đúng mạch thiếu âm thận ở chân, đúng mạch ủy trung ở khoeo, đúng mạch ở mục hệ; không châm quá sâu vào huyệt cột sống, vào tủy, huyệt não hộ, vào não, quá sâu huyệt khuyết bồn (trúng phế), vú, đầu gối xương bánh chè (làm chảy dịch), các chỗ lõm (kẽ sườn) ở ngực, ở khuỷu tay (làm hỏng gân), trúng bàng quang ở bụng dưới. Vì châm vào những chỗ đó có thể gây chết, chảy máu lớn, hoặc tàn tật.
Châm cứu đã được dùng để chữa các loại chứng bệnh sau:
- Bệnh hàn nhiệt (ở da, ở cơ, ở tì vị, ở thận, ở tâm bằng các huyệt chữa nhiệt).
- Chữa ngũ loạn (tâm khí loạn, phế khí loạn, trường vị khí loạn, khí ở đầu loạn, khí ở chân tay loạn) bằng các huyệt ngũ du, huyệt nguyên.
- Chữa mạch trướng, da trướng bằng huyệt của vị (túc tam lí và huyệt tại chỗ).
- Chữa bệnh tà vào ngũ tạng (phế, can, tì vị, thận, tâm) bằng các huyệt du mộ và ngũ du.
- Chữa quyết đầu thống (khí của các đường kinh nghịch gây đau đầu), kinh nào có khí nghịch thì lấy huyệt ở kinh đó, nếu có hiện tượng huyết ứ ở kinh đa huyết thiểu khí, có thể chích nặn máu.
- Chữa quyết tâm thống (đau tâm do khí ở thận), ở vị, ở tề, ở can, ở phế nghịch lên tâm, hoặc bản thân tâm có ứ huyết) bằng các huyệt của các tạng có liên quan và huyệt của tâm.
- Châm chữa bệnh ngược (sốt rét), do ngược tà vào các kinh túc thái dương, túc thiếu dương, túc dương minh, túc thái âm, túc thiếu âm, túc quyết âm, vào phế, vào tâm, vào can, vào tì, vào thận, bằng các huyệt của các kinh có bệnh; cách châm lúc đang sốt, lúc đang rét, khi có mạch đại cấp,
mạch tiểu thực cấp, mạch hoàn đại hư, và châm cho bệnh nhân vào lúc nào trước hoặc sau khi có cơn là có hiệu quả nhất.
- Châm chữa bệnh thủy, tác động vào 57 huyệt nơi thủy khí của các kinh âm lưu trú lại trong quá trình vận hành, và cách châm cụ thể cho bệnh thủy mắc vào mùa xuân, mắc vào mùa hè, mắc vào mùa thu, mắc vào mùa đông.
- Châm chữa bệnh đau thắt lưng (do mạch túc thái dương, mạch túc thiếu dương, mạch túc dương minh, mạch túc thiếu âm, mạch túc quyết âm, do giải mạch của túc thái dương, do biệt lạc của túc thiếu dương, do ngoại lạc của túc thái dương) bằng các huyệt có liên quan với các mạch có bệnh.
- Châm chữa bệnh giản cuồng
Châm chữa giản (động kinh) ở các giai đoạn (chuẩn bị lên cơn, bắt đầu cơn bằng miệng kêu, thở khò khè, bắt đầu cơn bằng người co cứng, ngã, co giật, cách chăm sóc theo dõi cơn động kinh) bằng các huyệt cụ thể.
Châm chữa cuồng ở các giai đoạn (khi sắp có cơn, khi cơn mới phát, khi cuồng có ảo giác, khi cuồng có ăn nhiều, hay gặp quỷ thần, cười nói một mình) bằng các huyệt cụ thể.
- Châm chữa tạp bệnh (gồm bệnh ở đầu, ở hầu họng, ở răng, ở tai, ở mũi, ở gáy, ở tâm, ở can, ở bụng, ở thắt lưng, ở gối, bệnh nung ở chân tay, đau khớp) bằng các huyệt có liên quan đến tổ chức và đường kinh đến nơi có bệnh.
- Châm chữa các chứng lạ (ngáp, nấc, nức nở nghẹn ngào, rét run, ợ hơi, hắt hơi, chảy nước mắt, thở dài, chảy dãi, tai ù, tự cắn lưỡi, đầu chân tay rũ xuống, đầu nghẹo mắt hoa, nung quyết tâm phiền) bằng những huyệt trên những đường kinh có liên quan.
Nhận thức về châm cứu chữa bệnh:
Có thể nhận thấy Nội kinh, Nạn kinh đã đặt cơ sở về lý luận và về thực hành cho phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu. Cơ sở về lý luận là: Vai trò của hệ thống kinh lạc, của hệ thống huyệt (khí phủ) và khí, cơ sở về thực hành là cơ chế tác dụng của châm cứu, cách châm cụ thể để chữa bệnh của từng tổ chức trong cơ thể và châm cứu chữa bệnh chứng cụ thể, những điều cần chú ý khi chữa bệnh bằng châm.
Cũng có thể nhận thấy vai trò riêng của hệ của kinh lạc và của hệ huyệt khí trong chữa bệnh. Khi có bệnh có thể dùng thuốc, có thể dùng châm ngải, thuốc và châm ngải được coi là công cụ chữa bệnh. Dù dùng công cụ nào cũng đều phải có vai trò của kinh lạc. Nếu dùng công cụ thuốc, kinh lạc là nơi dẫn thuốc đến nơi bị bệnh (gọi là quy kinh). Nếu dùng công cụ châm ngải, thì phải dùng kim (ngải) châm (tác dụng) vào huyệt để điều khí, khí hoá thì huyết hoà, huyết hoà thì kinh mạch thông sướng, âm dương được duy trì, cơ thể được nuôi dưỡng, khớp được linh hoạt, ý là các chức năng trở lại bình thường và bệnh khỏi. Nói khác đi, nếu dùng thuốc thì ta đã cung cấp thêm cho cơ thể những chất cần để bổ hư cho cơ thể và tả tà khí trong cơ thể, nếu dùng châm ngải thì trên cơ sở châm để điều khí, làm cho huyết hoà (ý là bản thân huyết được tự điều hoà) và kinh mạch thông nhằm phát huy khả năng tự chữa bệnh của cơ thể để bổ hư và tả thực. Đó là chỗ khác nhau của hai phương pháp, một bên cung cấp cho cơ thể nguyên liệu cần thiết, một bên giúp cơ thể tự phục hồi để cùng đạt mục đích chữa bệnh.
Với công cụ là kim châm và ngải cứu – hai yếu tố vật lý tác động và cơ thể – châm cứu là một phương pháp điều trị vật lý và được giới y học hiện đại xếp vào phương pháp điều trị vật lý (lý liệu pháp): “Châm cứu chắc chắn đã có trước công nguyên tới trên 2000 năm…, còn đơn giản và mới dựa trên kinh nghiêm” (Bộ Y tế – Lý liệu pháp, NXB Y học 1979, trang 3).
Châm cứu và lý liệu hiệu đại giống nhau và khác nhau ở chỗ nào?
- Châm cứu giống lý loiêụ hiện dại ở chỗ dùng yếu tố cơ học (kim châm huyệt) yếu tố nhiệt tác động lên huyệt và cùng tác động từ ngoài vào. Lý liệu hiện đại cũng cùng yếu tố cơ học, yếu tố nhiệt, ngoài ra còn dùng các yếu tố vật lý khác như điện, siêu âm, ánh sáng, nước và nhiệt và tác động ở ngoài da.
- Châm cứu khác lý liệu hiện đại ở những điểm sau:
Tuy là yếu tố cơ học, song châm cứu chỉ dùng kim thủ công, còn lý liệu hiện đại có xu hướng dùng các loại máy móc; tuy là yếu tố nhiệt, song châm cứu dùng nhiệt của lửa đốt ngải, còn lý liệu hiện đại dùng paraffin, túi chườm, bùn khoáng nóng, ngoài ra còn hấp nóng bằng tia hồng ngoại (ánh sáng).
Tuy đều là chữa ngoài, dùng yếu tố vật lý tác động vào cơ thẻ qua da song châm cứu chỉ tác động lên vị trí gọi là huyệt, còn lý liệu hiện đại tác động lên da ở một vùng hoặc toàn thân. Như vậy có thể thấy liều tác dụng của châm cứu rất nhỏ vừa đủ để tác động lên chỗ bị bệnh, còn liều tác dụng của lý liệu phải lớn, không chỉ tác động lên chỗ bệnh mà còn tác dụng lên cả vùng lành không có bệnh. Xét về hiệu quả chữa bệnh thì châm cứu có hiệu quả hơn vì nó chủ yếu điều hoà sự mất cân bằng của cơ quan đang bị bệnh, ảnh hưởng ít hoặc không có ảnh hưởng tới bộ phận lành chung quanh; hiệu quả của lý liệu làm cho cả vùng lành lẫn vùng bệnh có phản ứng, vùng lành có thể bị rối loạn trong quá trình bị tác động.
Tuy đều là chữa ngoài, song khi châm phải đưa kim vào qua da đến đúng huyệt của nơi bị bệnh (có thể hiểu mũi kim đúng cơ quan cảm thụ nằm ở tổ chức bị bệnh) còn lý liệu hiện đại chỉ tác động ở ngoài da qua đó ảnh hưởng đến các loại cảm thụ cơ quan bị bệnh và tổ chức lành. Vấn đề đặt ra là tại sao với diện kích thích nhỏ, sâu, lượng kích thích nhỏ mà châm cứu lại có hiệu quả có khi rất nhanh?