NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG Y HỌC CỔ TRUYỀN TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU
- Thứ tư - 20/07/2011 15:59
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
TẠI 30 XÃ ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA VỀ Y TẾ XÃ CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có nền Y, Dược học cổ truyền từ lâu đời, gắn liền với sự trường tồn của dân tộc, nền y học đó có vai trò và tiềm năng to lớn trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân từ trước khi có y học hiện đại thâm nhập vào Việt Nam. Thừa Thiên Huế là đất kinh thành là nơi tập trung nhiều danh y, ngự y triều Nguyễn có nhiều phương thuốc hay, bài thuốc quý cần được kế thừa, bảo tồn và phát huy.
Từ những năm của thập kỷ 80, Bộ y tế đã xây đựng XII chương trình y tế, trong đó chương trình X về y học cổ truyền với nhiều chương trình, trong đó chương trình: "Xã hội hóa công tác Y học Cổ truyền, phổ biến cho nhân dân trồng và sử dụng cây thuốc dưới ba hình thức: Cây rau ăn làm thuốc, cây ăn quả làm thuốc, cây cảnh làm thuốc và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc”.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai sâu rộng chương trình này từ năm 1997, Sở y tế đã phối hợp cùng với Hội Đông Y, Bệnh viện Y học Cổ truyền tổ chức triển khai, học tập và vận động các hộ gia đình trồng và sử dụng các loại cây vừa làm rau ăn, vừa làm cây ăn quả, vừa làm cây cảnh để làm thuốc và sử dụng các phương pháp xoa bóp, bấm nắn để phòng và chữa một số chứng bệnh thông thường khi mới mắc. Gắn việc sử dụng thuốc Nam chăm sóc sức khỏe cộng đồng với phát triển kinh tế xã hội.
Để góp phần hoàn chỉnh mô hình xã hội hoá y học cổ truyền tại cộng đồng, đặc biệt để định hướng các bước đi thích hợp hơn trong tình hình mới, triển khai kế hoạch thực hiện Chính sách Quốc gia về Y Dược học cổ tuyền đếnnăm 2010 về y học cổ truyền của tỉnh nhà, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tình hình ứng dụng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại 30 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã của tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm các mục tiêu sau:
1. Đánh giá nhận thức của người dân đối với chương trình xã hội hóa y học cổ truyền tại cộng đồng.
2. Đánh giá vai trò của các tổ chức quần chúng, đoàn thể xã hội trong việc tham gia Chương trình xã hội hóa y học cổ truyền.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ðối tượng nghiên cứu:
- Chủ hộ từ 18 tuổi trở lên trên địa bàn.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu cắt ngang.
- Phương pháp điều tra : Phỏng vấn dựa vào phiếu điều tra.
- Xử lý số hiệu thống kê.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
Bảng 3.1. Phân bố số hộ được phỏng vấn
-Huyện Phú Vang có tỷ lệ dân phỏng vấn chiếm tỷ lệ 16.7%; ,
- Huyện A Lưới, Phong Điền đạt có tỷ lệ dân phỏng vấn chiếm tỷ lệ 6.7%;
Bảng 3.2. Cơ cấu của số hộ được phỏng vấn theo tuổi, giới tính, nghề nghiệp
Đối tượng được phỏng vấn là nông dân chiếm tỷ lệ 81,31%, cán bộ, công nhân chiếm tỷ lệ thấp 4,76%, nội trợ chiếm tỷ lệ 7,14%.
3.2. THÁI ĐỘ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN ĐỐI VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỮA BỆNH BẰNG YHCT
Bảng 3.3. Thái độ nhận thức của các hộ dân
Sự tin tưởng của người dân chiếm tỷ lệ cao 91.0 %.
Bảng 3.4. Nhận biết cây rau, cây cành, cây ăn quả làm thuốc có trong vườn
-Các hộ gia đình đều nhận biết được các loại cây làm thuốc: rau chiếm tỷ lệ 86%, cây ăn quả chiếm tỷ lệ 83%, cây cảnh chiếm tỷ lệ 66%.
3.2.3 Hành động của các hộ gia đình sau khi mới mắc bệnh.
Bảng 3.5 Cảm sốt.
-Đến trạm y Tế là 362 chiếm 43,1%. Để tự khỏi hoặc xoa bóp chiếm 6%.
Bảng 3.6. Khi bị ho.
Bảng 3.7 Táo bón, nhuận tràng, đầy bụng.
Bảng 3.8: Khi phụ nữ tắt tia sữa, rong huyết.

Tỷ lệ dùng cây lá trong vườn khi phụ nữ bị tắc tia sữa, rong huyết có 201 hộ chiếm 23,9%; sau đó đến trạm y tế xã là 539 hộ chiếm tỷ lệ 64,2%; để tự khỏi và tự xoa bóp chiếm 3,5%
Bảng 3.9. Khi bị rôm sẩy, mụn nhọt dị ứng, ngứa

Tỷ lệ dùng cây lá trong vườn khi bị rôm sẩy, mụn nhọt, dị ứng, ngứa có 386 hộ chiếm 46%; sau đó đến Trạm y tế xã là 353 hộ chiếm tỷ lệ 42%; để tự khỏi và tự xoa bóp chiếm 3,5%.
Bảng 3.10. Khi bị đau lưng, đau vai gáy
Tỷ lệ dùng cây lá trong vườn khi bị đau lưng, đau vai gáy có 229 hộ chiếm 27,3%; sau đó đến Trạm y tế xã là 359 hộ chiếm tỷ lệ 42,7%; để tự khỏi và tự xoa bóp chiếm 34%.
3.2.4. Thói quen tuyên truyền theo phương thức mách bảo dân gian
Bảng 3.11. Tuyên truyền theo hình thức mách bảo.
Có 509 hộ gia đình có thói quen trò chuyện (mách bảo) cho những người xung quanh về các cây thuốc mà mình biết, chiếm tỷ lệ 60,6%. Không có thói quen đó có 331 hộ chiếm tỷ lệ 39,4%.
Bảng 3.12. Thói quen mách bảo liên quan đến trình độ học vấn.
Những người có trình độ học vấn PTTH, THCS, Tiểu học có thói quen nói chuyện với người khác về cây thuốc nhiều hơn những người khác
Bảng 3.13. Thói quen mách bảo liên quan đến độ tuổi
Các nhóm tuổi từ 41 trở lên có thói quen tuyên truyền mách bảo cho những người khác sử dụng các loại cây thuốc YHCT hơn ở nhóm tuổi trẻ hơn (<40 tuổi).
3.2.5. Tìm hiểu hành động của hộ gia đình trong việc chỉ dẫn sử dụng cây thuốc và các phương pháp xoa bóp chữa bệnh
Bảng 3.14. Số lượt người của từng hộ tham gia hướng dẫn cộng đồng
. Số hộ chỉ dẫn cho £5 người là 523 hộ chiếm tỷ lệ 62,3%
. Số hộ chỉ dẫn cho > 5-10 người có 145 hộ chiếm tỷ lệ 17,3%
. Số hộ chỉ dẫn cho > 10 người trở lên có 172 hộ chiếm tỷ lệ 20,5%
3.2.6. Nhu cầu của các hộ gia đình về phương thức tuyên truyền
Bảng 3.15. Yêu cầu hình thức tuyên truyền trong cộng đồng
Có 505 hộ chiếm tỷ lệ 60,1% thích hình thức nói chuyện trên lớp.
Có 206 hộ chiếm tỷ lệ 24,5% thích tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng
Có 87 hộ yêu cầu phát sách chuyên môn chiếm tỷ lệ 10,4%
3.3. VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ VÀ CÁC ĐOÀN THỂ ĐỐI VỚI CHƯƠNG TRÌNH XÃ HỘI HOÁ YHCT
3.3.1. Đánh giá của các hộ gia đình về vai trò của các tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc triển khai có hiệu quả chương trình.
Bảng 3.16. Nhận định của các hộ gia đình về vai trò của các tổ chức, chính quyền, đoàn thể
Sự đánh giá của các hộ gia đình cho cán bộ ngành y tế có vai trò quan trọng có 586 hộ chiếm tỷ lệ 69,8%; số hộ cho các tổ chức phối hợp có 204 hộ chiếm 24,3%; chỉ có 30 hộ chiếm tỷ lệ 3,6% cho chính quyền có vai trò quan trọng. Rất ít các hộ đề cao vai trò của các tổ chức đoàn thể tỷ lệ chỉ từ 0,1-1%
3.3.2. Đánh giá vai trò của các tổ chức chính quyền và đoàn thể đối với chương trình xã hội hoá YHCT tại địa phương
Bảng 3.17. Vai trò của chính quyền
Khi nhận định về vai trò chỉ đạo của chính quyền địa phương đối với sự thành công của chương trình XHHYHCT, có 92,1% cán bộ công nhận (trong đó 88% cán bộ chính quyền, 94,9% cán bộ đoàn thể công nhận);
Bảng 3.18. Về vai trò của cán bộ y tế
Khi nhận định về vai trò của cán bộ y tế đối với sự thành công chương trình xã hội hoá y học cổ truyền, có hơn 81,5% cán bộ công nhận.
Bảng 3.19. Vai trò của tổ chức và đoàn thể
Chỉ có 67,5% số cán bộ cho có vai trò của các tổ chức Hội và quần chúng trong công tác này.
Có 32,5% số cán bộ không công nhận vai trò của các tổ chức quần chúng và các Hội, không có sự khác biệt giữa cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể với p>00,05
3.3.2.4. Nhận định của cán bộ xã về nguyên nhân thành công
Bảng 3.20. Nhận định của cán bộ xã về nguyên nhân thành công do các tổ chức y tế, chính quyền và của các Hội, tổ chức quần chúng
Nguyên nhân thành công theo nhận định của cán bộ xã: chính quyền 92,1% ; y tế 81,5%; tổ chức xã hội 67,5%
Bảng 3.21. Nhận định của cán bộ về vai trò của các hộ gia đình đối với sự thành công của chương trình XHH YHCT
Bảng 3.22. So sánh nhận định của cán bộ về nguyên nhân thành công của chương trình XHH YHCT do sự can thiệp của các tổ chức (YT,CQ) hay do nhận thức của các hộ gia đình
Từ bảng 3.21, 3.22 cho thấy cán bộ của các xã có xu hướng công nhận vai trò của các tổ chức (y tế, chính quyền) đối với sự thành công của chương trình XHH YHCT hơn là vai trò của chính cộng đồng (các tổ chức xã hội và hộ gia đình với các giá trị p<0,05 có ý nghĩa thống kê qua các bảng trên)
Điều đó nói lên cán bộ các xã chưa đặt nặng vai trò của chính cộng đồng (các hộ gia đình và các tổ chức xã hội) trong việc XHH YHCT, mà vẫn cho rằng đó là công việc của chính quyền và Y tế.
3.3.3. Nhận định về chương trình XHH YHCT trong điều kiện hiện nay của địa phương.
3.3.3.1. Nhận định của cán bộ về sự thành công của chương trình XHH YHCT trong điều kiện hiện nay ở địa phương
Bảng 3.23. So sánh nhận định sự thành công của chương trình trong điều kiện hiện nay ở địa phương giữa cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể
Trong 228 cán bộ có nhận định: Có 83,8% cán bộ cho rằng với điều kiện hiện nay ở địa phương có thể thực hiện thành công chương trình XHH YHCT.
3.3.3.2. Nhận định về lợi ích xã hội của chương trình XHH YHCT trong điều kiện hiện nay ở địa phương.
Bảng 3.24. So sánh nhận định lợi ích xã hội của chương trình giữa cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể
Có 922,1% số cán bộ cho rằng chương trình có lợi ích xã hội trong điều kiện hiện nay.
3.3.3.3. Nhận định về lợi ích kinh tế của chương trình XH YHCT trong điều kiện hiện nay ở địa phương
Bảng 3.25. So sánh nhận định lợi ích kinh tế của chương trình
85,1% số cán bộ công nhận lợi ích về kinh tế của chương trình trong điều kiện hiện nay của địa phương.
3.3.4. Nhận định của cán bộ xã về hình thức tuyên truyền thích hợp cho chương trình XHH YHCT
Bảng 2.36. Những hình thức tuyên truyền thích hợp cho chương trình
Phần lớn cán bộ các xã đều đề nghị hình thức phối hợp chiếm 84,2%
4. BÀN LUẬN
4.1. THÁI ĐỘ VÀ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN ĐỐI VỚI VIỆC ỨNG DỤNG YHCT ĐỂ CHỮA BỆNH TẠI CỘNG ĐỒNG
Qua kết quả điều tra 840 hộ gia đình, có 88,8% số hộ tin tưởng vào việc ứng dụng YHCT chữa bệnh tại cộng đồng. So với Yên Bái số hộ tin tưởng 90%. Hải Phòng số hộ tin tưởng 95,6% thì ở Thừa Thiên Huế có thấp hơn.
Trong 3 loại cây: cây rau ăn, cây ăn quả, cây cảnh, sự nhận biết các loại cây rau làm thuốc, số hộ nhận biết được từ 3 loại cây rau trở lên làm thuốc chiếm 53,9%, dưới 2 cây chiếm 32,1%, không nhận biết được chiếm 14%, thấp hơn theo điều tra của sở y tế Hà Nội (80%). Thực tế hiện nay, rau ăn luôn có mặt trong bữa ăn hàng ngày của người lao động từ thành thị đến nông thôn. Số hộ không biết tác dụng làm thuốc của cây cảnh chiếm 286/840 hộ (tỷ lệ 34%) tương đối cao, điều này cho thấy người dân tuy đã có ý thức chơi cây cảnh nhưng hiểu biết tác dụng làm thuốc của cây cảnh vẫn còn hạn chế. Qua đó, bên cạnh hiểu biết giá trị của cây cảnh trong thời buổi kinh tế hiện nay, chúng ta phải giới thiệu tác dụng làm thuốc của nó cho nhân dân nhiều hơn nữa. Người dân đã nhận thức được giá trị của cây ăn quả cũng như tác dụng của nó trong y học và dinh dưỡng. Chỉ có 143/840 hộ không hiểu tác dụng của cây ăn quả được dùng trong chữa bệnh.
Qua phiếu thăm dò của 840 hộ gia đình chúng tôi thấy chương trình xã hội hoá y học cổ truyền đã tác động đến hành động của người dân khi bị các chứng bệnh thông thường mới mắc tại gia đình, tuỳ theo bệnh mà người dân có sự lựa chọn thích hợp như cảm sốt được sử dụng YHCT cao nhất (58,2%), tiếp đến táo bón, nhuận tràng (48,2%), sau đó đến chứng rôm sảy, mụn nhọt (46%); nhưng với chứng ho, sự lựa chọn nhiều nhất là đến trạm y tế xã (52,3%), hay phụ nữ bị rong kinh, rong huyết hoặc viêm tuyến vú, tắc tia sữa, đến trạm y tế xã là sự lựa chọn của phần lớn hộ gia đình (chiếm 64,2%) rồi mới đến các phương pháp YHCT (23,9%). So sánh với một nghiên cứ của Trần Thuý và cộng sự tại 50 xã, phường của tỉnh Thái Bình với 932 hộ dân, chúng tôi nhận thấy một số loại bệnh thường gặp của Thừa Thiên Huế tỷ lệ dùng YHCT để chữa có cao hơn như chứng ho; viêm tuyến vú tắc tia sữa, mụn nhọt, táo bón. Riêng chứng cảm sốt, đau lưng và đau vai gáy số liệu của chúng tôi có thấp hơn.
Mặt khác chúng tôi thấy, vai trò của trạm y tế xã luôn luôn là sự lựa chọn của người dân mỗi khi ốm đau. Khi bị cảm đến trạm y tế là 43,1%; Ho chiếm 52,3%; đầy bụng, táo bón, nhận tràng là 40,5%; đau lưng, đau vai gáy 42,7%. Điều này cho ta thấy sự cần thiết phải cũng cố mạng lưới y tế xã, phường.
Hình thức tuyên truyền phù hợp với người dân, chúng tôi thấy 60,1% người yêu cầu được tập huấn trao đổi thông tin tại lớp, phát sách chuyên môn 10,4%, yêu cầu được tuyên truyền qua hệ thống phương tiện thông tin đại chúng là 24,5.
4.2. VAI TRÒ CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN VÀ ĐOÀN THỂ
Một trong những yêu cầu của chương trình ứng dụng y học cổ truyền tại cộng đồng là phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng tham gia, vận động người dân thực hiện việc trồng và sử dụng các cây thuốc vườn nhà khi bị bệnh. Trong suy nghĩ của không ít người, liên quan đến sức khoẻ và bệnh tật là nhiệm vụ của ngành y tế. Người dân cho rằng đối với chương trình xã hội hóa YHCT người thực hiện hữu hiệu nhất vẫn là cán bộ ngành y tế (chiếm 69,8%), còn các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội Đông y, Hội Châm cứu, Hội cựu chiến binh chỉ từ 0,1-1%. Vai trò của chính quyền địa phương 3,6%. Sự phối hợp giữa các tổ chức với nhau chiếm 24,3%. Qua đó chúng tôi thấy sự nhận định trên vẫn tập trung vào cán bộ y tế, chưa thấy tầm quan trọng của các tổ chức quần chúng xã hội, sự quan trọng của hoạt động lồng ghép giữa các tổ chức, hoạt động của từng hội.
Nhận định của cán bộ xã về vai trò của gia đình, chúng tôi thấy 72,8% cho là có vai trò của gia đình trong hoạt động của chương trình, 27,2% số cán bộ xã không thừa nhận vai trò của hộ gia đình trong việc thực hiện chương trình. Qua các bảng đánh giá, chúng tôi nhận thấy chưa coi trọng vai trò của chính cộng đồng (bao gồm các hộ gia đình và các tổ chức xã hội) trong việc thực hiện xã hội hóa YHCT mà vẫn cho rằng đó là công việc của chính quyền và của ngành y tế mà phải có sự tham gia của các tổ chức xã hội, sự tự giác của chính gia đình, lúc đó ý nghĩa của việc xã hội hoá YHCT tại cơ sở mới thực sự thành công.
Trong 265 người, có 228 nhận xét, trong đó 83,8% cho rằng sẽ thành công, tuy nhiên nhận định này có sự khác nhau giữa cán bộ chính quyền và đoàn thể của các xã; số cán bộ chính quyền của các xã vẫn tin tưởng vào sự thành công của chương trình (84%) hơn cán bộ đoàn thể (83,6%).
Qua nghiên cứu, có 92,1% cán bộ đánh giá chương trình xã hội hoá YHCT mang lại lợi ích xã hội và 85,1% cán bộ cho chương trình mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương như tăng thu nhập kinh tế, tạo cảnh quan môi trường ở nông thôn, qua đó phải chỉ đạo các tổ chức xã hội triển khai các hình thức vận động theo tổ chức của mình, tăng cường các nội dụng lồng ghép giữa các hội nhằm phát huy thế mạnh của mỗi tổ chức khi thực hiện trong thời gian tới.
Hầu hết đều nhận thấy không có hình thức nào nổi trội hơn, ưu điểm hơn như hình thức phát tài liệu tới tận hộ gia đình hay phát tờ rơi, phát thanh trên hệ thống thông tin đại chúng tại địa phương hay tuyên truyền qua các kỳ sinh hoạt của các tổ chức quần chúng. 84,2% số cán bộ cho rằng phải kết hợp các hình thức với nhau sẽ mang lại hiệu quả cao hơn là tập trung vào mọt hình thức nào đó đơn thuần.
5. KẾT LUẬN
1. Thái độ nhận thức và tình hình ứng dụng YHCT của người dân.
- Thái độ của người dân tin vào việc dùng thuốc vườn, xoa bóp, ấn huyệt của địa phương.
- Tình hình ứng dụng các hộ gia đình khi mới mắc bệnh thông thường
+ Sốt: Dùng cây thuốc trong vườn là 58,2%; Đến trạm y tế xã 43,1%; Để tự khỏi và tự xoa bóp là 6%
+ Khi bị ho: Tự chữa bằng cây thuốc trong vườn là 39,2%;
+ Táo bón, nhuận tràng, đầy bụng: Tự chữa 48,2%; Đến trạm y tế xã 40,5%;
+ Phụ nữ tắc tia sữa, ra huyết tự chữa bằng cây thuốc trong vườn là 23,9%
- Rôm sảy, mụn nhọt, dị ứng, ngứa tự chữa bằng cây lá trong vườn là 46%.
- Đau lưng, đau vai gáy là 27,3%
- Tuyên truyền theo thói mách bảo nhau ứng dụng cây thuốc: Có ứng dụng: 60,6%; Không ứng dụng: 39,4%
- Người dân tham gia hướng dẫn cộng đồng: Số hộ chỉ dẫn cho £5 người chiếm 62,3%; Số hộ đã chỉ dẫn 35-10 người chiếm 17,3%
2. Vai trò của chính quyền và các đoàn thể trong việc tham gia chương trình xã hội hoá y học cổ truyền.
- Vai trò của cán bộ chính quyền và đoàn thể đối với chương trình xã hội hoá y học cổ truyền: Vai trò chỉ đạo của chính quyền là 92,1%, vai trò của cán bộ y tế được cán bộ thừa nhận là 81,5%; vai trò của các tổ chức xã hội được cán bộ thừa nhận là 67,5%
- Nhận định của cán bộ xã về nguyên nhân thành công: Tham gia của chính quyền chiếm 92,1%; Tham gia của cán bộ y tế là 81,5%; Tham gia của các tổ chức xã hội là 67,5%.
- Có sự chỉ đạo của các cấp trong việc triển khai xã hội hoá y học cổ truyền
- Sự cần thiết của chương trình xã hội hoá y học cổ truyền chiếm 97,4%.