RONG KINH
- Thứ sáu - 01/07/2011 15:31
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
(Trích trong ‘Lý Luận 32 Bệnh Án’ của Lê Đức Thiếp, Việt Nam)
Nữ, 30 tuổi, kinh kỳ mỗi tháng kéo dài gần hết tháng, lúc đầu kinh màu đỏ, sau đó bầm đen, người mệt mỏi, cơ thể suy nhược, chóng mặt, hoa mắt, đầu đau nhiều, ăn ngủ kém, thỉnh thoảng bụng dưới đau. Da xanh mét, 2 mắt sâu trũng, 2 gò má cao, 2 bên má hóp vào, 2 vai gò lại, ngực lép xẹp, tiếng nói khàn yếu, thở mệt, 6 bộ mạch Trầm Vi, không có lực. Rong kinh kéo dài ngày mà mạch Trầm Vi vô lực, tức là huyết hàn, huyết bị lạnh mà nó chảy rỉ ra hoài tức là tử cung không có hỏa khí, Tỳ Vị không có nhiệt để giữ máu lại.
Chẩn đoán là huyết bị hàn.
Phép chữa: Máu mất đi, phải rót vào để bù đắp, kinh mạch hàn, nếu ôn ấm thì nó ngưng lại ngay, không cần phải dùng đến thuốc cầm máu. Nếu cầm máu, máu có ngưng lại nhưng sẽ thành máu ứđọng, ứ đọng đó rồi đi đâu? Máu ứ đọng lại thì yên trí là máu không ra nữa nhưng người vẫn không khỏe. Nay dùng thuốc ôn kinh thì người khỏe mà sau này kinh nguyệt sẽ đều.
Tỳ Vị hư hàn không giữ được huyết, Thận hư hàn, huyết không về ổ, do đó đưa đến chứng rong kinh, loạn huyết.
Cách điều trị: phải gây ôn ấm. Không cần dùng đến các loại thuốc vít lại như Bồ hoàng sao đen, Kinh giới sao đen… Nếu không căn cứ vào mạch mà nhận định cho tinh để trị như trên, lại nhận định vội vàng, sơ sài, rồi cho rằng bệnh này là huyết nhiệt và dùng lương huyết thì chẳng những không khỏi mà còn có thể nguy hiểm. Cho dùng:
Hương phụ 20g Hắc khương 12g
A giao (sao ) 12g Bạch truật 12g
Đương quy 8g Lá Ngải cứu 12g
Sắc uống 3 thang/ tuần. Uống xong, kinh tạm ngưng, bệnh tiến triển tốt. Cho uống tiếp 4 thang/ tuần, trong 5 tuần, bệnh khỏi hẳn.
Đương quy hòa huyết, sinh huyết và bổ huyết.
Bạch truật bổ Tỳ, giúp mạnh Tỳ, đòi ăn.
Hắc khương, ôn ấm, dẫn vào Thận, hợp với Xuyên quy, biến Xuyên quy thành chất ôn ấm dẫn vào tử cung. Hắc khương đi với Bạch truật, biến Truật thành chất ôn ấm dẫn vào Tỳ Vị.
A giao bồi dưỡng Tỳ, Phế khí cho đỡ mệt, và có chất keo để gắn vết thương nứt rạn ở tử cung cùng các tế bào khác. Ngải cứu ôn kinh, chỉ huyết, phá hàn khí ở Can, ấm Tỳ Vị, Hương phụ để bình Can, giải uất; Can chủ huyết nhưng can khí uất kết cũng làm cho huyết có bệnh. Bình giải can uất cũng có phần nào giải tỏa cái tư lự cho ngươi thiếu nữ trẻ mà vẫn gối chiếc chăn đơn. Loại thuốc này tuy để trị bệnh, nhưng khi bệnh đã hết thì người cũng khỏe.