DƯỢC THẢO LUẬN TRỊ TẬP I – QUYỂN I (A)
- Thứ năm - 17/11/2011 10:02
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
DẪN NHẬP
SỨC KHOẺ
Sức khoẻ là gì? Trong y khoa, sức khoẻ là một thuật ngữ rất khó định nghĩa ngắn gọn và đầy đủ. Nghiên cứu về sức khoẻ, hai nền y học Đông-Tây lại có nhiều quan điểm dị biệttừ lý luận đến ứng dụng do sở trường và kinh nghiệm riêng của từng học thuyết. Y học cổ truyền (traditional medicine) hay Đông y (Oriental medicine) thiên về khoa học tự nhiên, phần lớn mang tính triết học (philosophy) vượt ngoài ngũ quan của con người, trong đó học thuyết “Âm dương” là biểu tượng của Đông y. Ngược lại, y học hiện đại (Western science), còn gọi là Tây y (modern medicine), thiên về khoa học thực nghiệm, lấy xét nghiệm phân tích làm kim chỉ nam cho mọi chẩn đoán và kết luận. Lâm sàng học của y học hiện đại khi phát biểu “không thấy” đồng nghĩa với “không có”.
Khoa học (science) vốn là một phương pháp trí tuệ (intellectual method) vì chữ science có nguồn gốc từ động từ scire của Latin nghĩa là “biết” (to know) nên không thể kết luận mà thiếu bằng chứng cụ thể. Điều đáng tiếc là trí tuệ (intellect) không bao giờ biết và trưng được bằng chứng cụ thể về cội nguồn của những điều màu nhiệm hay thần bí (mysteries) thuộc phạm trù tư tưởng. Bởi lẽ tư tưởng không có hình tướng nhưng lại có năng lực (ability) vật chất thật phi thường, khi tư tưởng được tập trung hay hội tụ cao độ, phát động liên tục theo một hướng hoặc mục đích đã chọn, có khả sinh ra từ trường cực đại truyền đi trên một không gian rộng lớn và thu về một khối lượng sóng phản hồi, tác động vào những khu vực nằm sâu trong trường thông tin của con người gọi là “sóng thông tin tư tưởng”. Tư tưởng có khả năng “đọc”, “nối mạng”, “giải mã” các sóng thông tin tư tưởng khác.
Với sức mạnh của tư tưởng, các nhà thôi miên học có khả năng giúp cho người mắc bệnh tâm thần (mental diseases) hoặc mất ngủ kinh niên đi vào giấc ngủ ngắn hạn qua hiệu ứng tinh thần-cơ thể bằng thuật thôi miên. Tuy không ai hiểu chúng giao tiếp như thế nào với kỹ thuật khoa sinh-tâm lý, nhưng đều thừa nhận chúng là sản phẩm của năng lực não bộ (brain activity) thuộc khoa thần kinh học sáng tạo loại thuốc an thần bằng tác động chuyển hoá tư tưởng. Họ không sử dụng bất kỳ một loại thuốc hay phương tiện khoa học nào ngoài sức tập trung tư tưởng “bắt lấy” từ trường của bệnh nhân, mã hoá thông tin, giải mã, rồi “dẫn” chúng về trạng thái quân bình. Cách chữa nầy thuộc về khoa trị lành tâm linh (psychic healing), hoàn toàn không thấy bằng mắt trần mà lại đạt được kết quả.
Theo qui luật đói xứng thông tin di truyền của tư tưởng, một người có khả năng “hút” lấy từ tường thông tin hoặc “đẩy” nó tới một người khác tuỳ điều kiện đồng pha hay khác pha, tần số, bước sóng, năng lượng, mật mã và mục đích của người gởi thông điệp. Từ hằng nghìn năm nay, đông y học đưa ra nhận định: “Bệnh tật phát sinh phần lớn do rối loạn tư tưởng và tâm lý rồi mới chuyển sang sinh lý”. Khi mã hoá được nguyên nhân gây ra bệnh tật, người điều khiển chương trình dễ dàng giúp nâng cao hoặc hạ thấp tầng số dao động để cải thiện tình trạng sức khoẻ cho bệnh nhân. Do vậy, càng vận dụng phương tiện khoa học hay toán học để khám phá thực tướng của triết học, bí ẩn vũ trụ, sẽ mãi mãi không “thấy” được chân lý.
Quan điểm “Y học Đông-Tây không bao giờ hiểu nhau” ngày càng mất dần sự ủng hộ. Y học hiện đại đã tỏ ra đồng cảm với y học cổ truyền ngày một nhiều hơn, bằng chứng là một số tinh hoa của Đông y được các nhà nghiên cứu Tây y thừa nhận, cho ứng dụng vào lâm sàng, mở trường huấn luyện chuyên viên và phổ biến rộng rãi tới công chúng. Triễn vọng về lâu dài, hai nên y học Đông-Tây sẽ có cơ san bằng mọi mâu thuẫn để cùng chia sẽ kinh nghiệm cả về học thuyết lẫn điều trị. Đó không còn là chuyện hoang tưởng. Đôi bên cùng nhận thức tinh thần và thể chất không thể tách rời cũng như chứng nghiệm rằng chân lý là điều có thực, không cần đối chứng bằng mắt, bởi vì chân lý “thấy” kiểm toán được qua trí lực (mental power), sự trầm tư (meditation) và kinh nghiệm (experience).
Trở lại thực tế hiện nay, tuỳ thuộc vào kiến thức, mỗi trường phái có quan điểm và lý luận về sức khoẻ không giống nhau:
QUAN ĐIỂM Y HỌC HIỆN ĐẠI
- Theo sách Medical Dictionary của tác giả William R. Hensyl Hoa Kỳ định nghĩa sức khoẻ: “Health, the state of an organism when it functions optimally without evidence ò disease or abnormality”. Tạm dịch: “Sức khoẻ là trạng thái của cơ quan khi nó hoạt động một cách hoàn hảo, không có bằng chứng nào về bệnh tật hay bất bình thường”.
- Sách Encyclopedia of Medicine của bác sĩ Charles B. Clayman có một định nghĩa khác: “Health is the absence of physical and mental disease”. Tam dịch: “Sức khoẻ là sự khiếm diện về thânn bệnh và tâm bệnh”.
Nói chung, “Health” được giải thích khá giống nhau về ý trong hầu hết các sách y khoa hiện đại. Riêng Andrew Weil, một bác sĩ danh tiếng của Hoa Kỳ vừa am tường cả dược thảo học, lại giải thích theo lối phủ định: “Health is the abcense of an absence of ease”. Tạm dịch: “Sức khoẻ là sự khiếm diện điều làm mất đi sự an lành”. Bác sĩ Weil không dùng lối xác định để lý giải “sức khoẻ”. Ông cho rằng sức khoẻ là một thuật ngữ triết học, giống như từ thuốc men (medicine), tôn giáo (religion), ma thuật (magic)…rất khó lột tả hết “thực tướng” của nó. Cố soi sáng mặt nầy thì mặt khác bị che lấp. Trong quyển “Health and Healing” Bác sĩ Weil phân tích:
- Sức khoẻ là sự khoẻ mạnh (wholeness).
- Súc khoẻ là sự toàn hảo (perfection).
Nghĩa chính của sức khoẻ là khoẻ mạnh (wholeness). Chữ wholeness bắt nguồn từ 3 từ đơn của người Anglo-Saxon Anh Quốc, gồm “whole- toàn vẹn”, “hale – tráng kiện” và “holy – trong sạch” hợp thành. Đặc tính căn bản của sức khoẻ là toàn hảo (perfection), bao gồm rất nhiều thành tố như: sự hợp nhất (inter-gration), tính hài hoà (harmony) và cân bằng (balance). Thiếu sự toàn hảo, sức khoẻ sẽ bị đe doạ.
Song song với lãnh vực triết học về sức khoẻ, còn có một lãnh vực triết học quan yếu khác cũng cần đặt tới mức hoàn hảo, đó là đức tin (faith) hay tôn giáo (religion). Tất cả tôn giáo đều hướng tới chân lý cuối cùng là toàn hảo, hoàn mỹ, thần thánh (holiness). Sức khoẻ cần đến yếu tố đức tin hay tôn giáo bổ trợ và ngược lại. Bởi vì đại biểu của tôn giáo là Giấo Sĩ (Priest). Cái ác hay sự xấu xa nẩy mầm bén rễ từ nơi sâu kín nhất, bí ẩn nhất của con người, nhưng vẫn là một mặt của sự thiêng liêng hằng sống. Phật giáo nói rằng cái xấu và cái tốt vốn có họ hàng liên hệ với nhau và cả hai cũng đạt tới mức toàn hảo trong mỗi mô hình của sự sống. Y học hiện đại dùng dấu hiệu “Cây trượng của thần Hermes với đôi cánh bay và con rắn quấn quanh thân trượng” cho thấy việc trị bệnh không chỉ cung cấp thuốc men mà còn cần đến sự hộ độ từ sức mạnh tâm linh của vị thần đỡ đầu giới thầy thuốc. Hai con rắn tượng trưng cho ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, tương tự như Âm và Dương của Đông y. Con rắn quấn quanh cây trượng theo hình số 8 là con số biểu thị của sự nhịp nhàng năng động và là ký hiệu của thần Hermes, sứ giả của Thượng Đế, một đặc trưng về tôn giáo. “Tôn giáo là thuốc (medicine) của linh hồn”. Bởi vậy, cho con người dùng thuốc mà quên phần “thuốc” linh hồn thì dẫu dứt bệnh ( absence of disease) nó vẫn tồn tại. Phương pháp trị liệu nầy tất nhiên chưa hoàn hảo. Khi sự hoàn hảo và cân bằng định vị vững chãi trên cán cân thời gian thì độ truyền thống của sức khoẻ chính là sự trường thọ.
Thế nào gọi là cân bằng ( balance)?. Cân bằng là sự phản ánh cách khác của sự hoàn hảo, có nghĩa là sức khoẻ (health). Chữ “ balance” có nguồn gốc tiếng Latin là Bilanx, từ chung là libra bilanx, biểu thị bằng một cây cân ( scale-libra), hai đầu có 2 (bi-) đĩa phẳng (flat plates-lanx). Chữ libra là dấu hiệu của Hoàng đạo (Zodiac) trong khoa chiêm tinh học ( Astrological), liên hệ đến vật thể vô tri giác. Dấu hiệu của Libra được điều khiển bởi thần Venus, nữ thần về sắc đẹp và sự hoà hợp. Trong không gian, hành tinh Venus là vật thể sáng nhất cận kề bên mặt trăng. Anhs sáng của Venus ấm, êm dịu, đáng yêu và an lành tạo kích thích giới phụ nữ làm đẹp, yêu đương và dịu dàng. Ngược lại, hành tinh Saturn có ánh sáng yếu ớt, lạnh. Hình ảnh của thần Saturn là tử thần, mang dấu hiệu bộ xương người và chiếc lưỡi hái trên tay. Bóng dáng của Saturn là thời gian. Đây là biểu thị của tuổi già, hốc hác như bộ xương, cô độc, nhiều điều xấu, chống đối sự phát triển, giới hạn sự tồn tại và cắt đứt sự sống bằng chiếc lưỡi hái. Như vậy, cân bằng là một điều đầy bí ẩn nhưng có thực, cực điểm của cân bằng không giới hạn nhưng hoàn toàn đạt được.
Chung qui, sức khoẻ là sự khoẻ mạnh ( wholeness), mà sự khoẻ mạnh lại nằm trong ý thức thâm sâu nhất và biểu thị bằng sự nhiệm màu về cân bằng. Thuật ngữ đơn giản “Sức khoẻ là sự khiếm diện yếu tố gây bệnh tật”, chính là biểu tượng cân bằng về động lực học và tính hài hoà của tất cả yếu tố và sức mạnh tạo dựng cũng như bảo hộ con người. Tuy vậy, điều kiện cần và đủ về sức khoẻ như khoẻ mạnh, toàn hảo và cân bằng chỉ là tiêu chuẩn lý thuyết, nhu cầu của vọng tưởng. Thực tế, sức khoẻ chẳng những không thể đạt tới ngưỡng tối ưu mà đôi khi bệnh tật trở thành qui luật. Bác sĩ Andrew Weil đưa ra 10 dẫn chứng đầy tính thuyết phục.
1. Sức khoẻ không thể đạt tới mức toàn hảo:
- Sức khoẻ, theo định nghĩa là tất cả cơ quan và năng lực sinh ra cũng như bảo vệ con người luôn luôn ở vị thế năng động, hài hoà, cân bằng. Không có một ý nào “tạm thời”. Nhưng cân bằng sức khoẻ là hành động có tính tạm thời, không bao giờ đứng yên một chỗ. Phải có tình trạng suy thoái hay bệnh tật thì cơ thể mới tìm cách sửa chữa và lập lại thế cân bằng, đó chính là nền tảng của sức khoẻ. Bởi lẽ, thay đổi là bản chất của đời sống và cơ thể bị lệ thuộc vào nhiều yếu tố rất phức tạp không thể biết trước.
- Giai đoạn hỏng hóc thế cân bằng ( equilibrium) là giai đoạn tương tranh giữa bệnh tật với sức khoẻ toàn hảo, giống như một người mới bước vào phòng lạnh, nhiệt độ tụt xuống đột ngột nhưng ngay sau đó tự động tăng lên. Cho nên nói sức khoẻ hài hoà, năng động, cân bằng là nói đến sự luân phiên xen kẽ giữa mạnh rồi yếu, bệnh rồi khoẻ.
2. Bệnh tật là qui luật:
- Đau ốm là sự cần thiết để bổ sung cho sức khoẻ. Nhiều người thường nghĩ rằng bệnh tật như là một tai hoạ, một nỗi bất hạnh mà thượng đế bắt mình phải gánh chịu. Không hẳn đúng. Đau ốm là cách thay đổi tiến trình kế tiếp của sức khoẻ và tiến trình này không thể xuất hiện nếu thiếu nhân tố đó, giống như ban ngày sẽ dài vô tận nếu không có ban đêm hiện ra. Hoán đổi vị thế cho nhau là một nhu cầu thiết yếu, tự nhiên.
- Bệnh tật gồm nhiều thể loại, trong đó có giận dữ và phạm tội. Khi vướng phải nó là rơi vào giai đoạn bệnh tật, chẳng những không thề đạt tới giấc mơ sức khoẻ toàn hảo mà còn làm nhiễu loạn tiến trình xậy dựng một sự cân bằng mới. Bởi vì giận dữ và phạm tội là hai năng lực có thật, được hệ thần kinh và kích thích tố (hormone) chuyển đổi thành những tác động vật chất cụ thể. Tuy rắc rối cho sức khoẻ nhưng công việc của cơ thể là điều chỉnh và điều chỉnh liên tục cho dù mất nhiều thời gian để hoàn tất nhiệm vụ.
3. Cơ thể có năng lực chữa lành bẩm sinh:
- Việc chữa lành bệnh xuất hiện bên trong, không phải bên ngoài cơ thể. Nó cố gắng phục hồi sự cân bằng mỗi khi sự cân bằng bị mất một cách hết sức tự nhiên. Không ai có thể ngăn chặn được việc cân bằng tự động khi nó diễn ra cho dù là cản trở bên trong hay bên ngoài. Sinh ra, con người ai cũng có sức mạnh để tự chữa lành bệnh tật, vì chữa lành là một năng lực bẩm sinh (innate capacity), ngay như loài vật hay cây cỏ cũng vậy.
- Hãy quan sát một người bị dao cắt phạm ngón tay, da thịt bị rách, máu ứa ra ngoài. Chỉ cần giữ vết thương sạch sẽ, tránh bị nhiễm trùng, vài ngày sau vết thương tự lành không cần chuyên viên y tế chăm sóc, bôi thuốc hay uống thuốc. Còn nhiều chứng bệnh khác, dùng thuốc men như là một vật xúc tác đôi khi không hợp hoặc không đúng với bệnh lý, vậy mà bệnh vẫn lành. Đây là bằng chứng về năng lực chữa lành bẩm sinh của con người, bất cứ lúc nào khi cơ thể đòi hỏi.
4. Tác nhân gây bệnh không phải là nguyên nhân của bệnh:
- Y học thực dụng (materialistic medicine) thường không chú tâm đến sức khoẻ vốn thuộc phạm trù triết học và nhầm lẫn một cách nguy hiểm về sự liên hệ giữa nguyên nhân và tác nhân truyền bệnh. Vi trung (viruses) là tác nhân truyền bệnh. Chúng trực tiếp sinh sản mần bệnh, tạo ra những triệu chứng thật đích xác ảnh hưởng đến chúng ta. Ví dụ, siêu vi trùng gây bệnh dịch cúm hay flu (influenza virus), đốt cháy lớp màng ống khí quản gây kích thích và phản ứng bằng cách ho. Điều cần lưu ý là không phải ai cũng bị sốt rét bởi muỗi mang mầm bệnh truyền sang. Ký sinh trùng sốt rét tỏ ra bất lực ở một số người nhờ hệ thống miễn nhiễm hoạt động hữu hiệu và nhiều lý do khác mà chúng ta không được biết. Siêu vi trùng gây cảm cúng hay flu cũng thế, nhiều người không hề hấn gì. Cho nên, nhân tố gây ra bệnhtật không phải là lý do làm chúng đau ốm. Chúng chỉ là vật trung gian của bệnhtật, phải chờ cơ hội thuận lợi mới bộc phát. Thế nào gọi là chờ cơ hội? Cơ hội bám sát theo mức dao động tự nhiên (natural fluctuations) liên quan đến chu kỳ sức khoẻ khi mà sự quân bình ( equilibrium) bị phá hỏng thì tác nhân gây bệnh liền nổi dậy ngay.
- Tác nhân gây bệnh hiện diện chung quanh ta rất nhiều, chẳng những vi trùng, vi khuẩn, ký sinh trùng, mà còn vô số chất kích thích độc hại khác như là hoá chất sinh ung thư (carcinogenic chemicals), chất gây dị ứng ( allergens), sâu bọ (insects), cây cỏ chứa độc tố (toxic plants). Một người với sức khoẻ quân bình và vững chãi, dễ dàng tương tác với nguyên nhân gây bệnh mà chẳng bao giờ bị bệnh. Rõ ràng bệnh tật ở bên trong, khởi động từ bên trong chứ không phải bên ngoài cơ thể và cũng chưa hẳn hoàn toàn do vật chất, bởi vì quân bình sức khoẻ là một tính chất tự nhiên ai cũng có.
5. Tất cả bệnh tật do tâm thần – cơ thể:
- Tinh thần – cơ thể (psychosomatic, mind-body) gồm hai thành phần: Thành phần vật chất (physical component) và thành phần tinh thần (mental component). Điệu nầy cho thấy những triệu chứng mà cơ thể tiếp nhận không hoàn toàn thuộc về cơ thể. Nó thuộc tinh thần và những dữ kiện nầy được truyền đạt lại cho cơ thể bằng triệu chứng.
- Xin đừng quên rằng tinh thần và cơ thể là 2 lãnh vực của con người, một cái không phải vật chất và một cái thuộc vật chất, nhưng sẽ không cái nào tồn tại nếu tách ra từng phần. Chúng phải thâm nhập và nương tựa vào nhau.
6. Biểu lộ vi tế của bệnh tật thường tới trước:
- Không có cái gì hiện hữu do tự phát hay tự lực. Tia chớp trên bầu trời loé sáng không phải do ánh chớp phát sinh và xảy ra đúng vào lúc mắt ta nhìn thấy. Anhs sáng ấy đã thành hình trước đó rất lâu khi nhịp độ dòng điện bắt đầu giao tiếp và kết thúc tại đỉnh cao nhất của sự va chạm. Một điển hình khác như ngọn núi chẳng hạn, chúng ta thấy chúng đứng tĩnh lặng, bất động triền miên. Kỳ thực, tron quả núi đều được thiên nhiên thúc đẩy ngày đêm không gián đoạn, lớn lên từ con số không.
- Từ vật chất có thể suy luận tới bệnh tật. Bệnh tật cũng vậy, dấu hiệu và triệu chứng đích xác không phải bệnh, mà là biểu thị của một hay nhiều nguyên nhân tạo hình từ rất sớm. Ấm thanh tiếng chuông chùa hay nhà thờ vang lên rõ ràng có sự khởi động trước qua cái gõ bằng dùi hay kéo chuông cho hai vật bằng kim loại đập vào nhau. Ấm thanh không tự sinh cũng không tự chủ. Bệnh nào cũng có căn nguyên, chỉ có chúng ta chứa phát hiện sớm mà thôi.
7. Mỗi cơ thể đều khác nhau:
- Nhìn chung, loài người có những điểm giống nhau hơn là khác nhau, chẳng hạn như bản chất tinh thần và sự vô thức. Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp song sinh (identical twins), mỗi cá nhân có nhiều khác biệt quan trọng về phương diện vật chất. Khởi thuỷ, khoa nhân dạng và giải phẫu học chứng minh điểm khác nhau giữa người nầy với người kia ở gương mặt (faces) và dấu lăn tay (fingerprints) sau tiến sâu và bên trong cơ thể, như cấu tạo dạ dày, mỗi người rất khác nhau. Chính sự khác nhau nầy là biểu thị về một chứng bệnh đặc biệt dễ mắc phải của từng người. Đường ống dẫn nước tiểu (ureter) hay đường phân nhánh động mạch vành (coronary arteries) của mỗi người đều khác nhau, cũng nói lên nguy cơ gia tăng bệnh viêm thận hoặc cải thiện tình trạng bị nhồi máu cơ tim (heart attack) cho từng cá nhân.
- Mỗi cơ thể có cấu trúc khác nhau về chức năng và thuộc loại hoá sinh kỳ bí nhất. Với đặc tính di truyền khác nhau, một người có thể ăn uống và tiêu hoá dễ dàng một số chất trong khi người khác thì không thể ăn hay tiêu hoá nổi. Rõ ràng là thịt cho người nầy nhưng lại là chất độc cho người khác. Như 2 người cùng ăn một lượng nắm dại có chứa độc tố, kết quả một người bị chết do trúng độc còn người kia thì vẫn thản nhiên vô sự. Điều nầy làm nổi bậc khả năng dung nạp thuốc, thực phẩm và sự nguy hại trong mỗi đặc tính hoá sinh của con người. Nhiều nghiên cứu dẫn chứng hút thuốc lá có hại cho hệ thống hô hấp, đó là luận điểm chính xác không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng không phải ai nghiện nặng hút thuốc lá cũng bị ung thư phổi (lung cancer) hay bị bệnh về đường hô hấp. Tất nhiên, sử dụng thuốc đúng, ăn uống những loại thực phẩm đầy dinh dưỡng bao giừo cũng là phương cách bảo vệ sức khoẻ tốt nhất, an toàn nhất.
8. Mỗi cơ thể có một điểm yếu:
- Hệ thống vật chất, tức cơ thể con người, vốn có một hoặc nhiều điểm yếu và htường khí chúng ta biết khá rõ, bởi vì chúng hay biểu lộ bằng cường độ nhạy cảm để lưu ý sự hư hỏng về sức khoẻ sắp xảy ra. Ví dụ, khi thể lực bị suy yếu, cổ họng bắt đầu cảm thấy đau rát và nổi lên những hột li ti nhám sần. Nếu biết chẩn đoán sớm, trị liệu kíp thời, bệnh sẽ bị đẩy lùi rất nhanh, đỡ tốn kém tiền bạc và hao mòn sức khoẻ.
- Những ai có dạ dày nhạy cảm, đau khớp xương hay yếu bàng quang, nó cũng sẽ cho chúng ta một số thông tin thật hữu ích mỗi khi chúng ta tiến gần đến thời kỳ bệnh khởi động. Hãy nắm lấy qui luật của những dấu hiệu nầy để cải thiện chỗ yếu kém hầu cân bằng thể lực trước khi bệnh bộc phát hay biến thành nghiêm trọng.
9. Máu là nhân tố chủ yếu có năng lực chữa lành:
- Máu là một trong những phương tiện chuyên chở đầy đủ vật liệu y tế thích hợp đến trị lành hết mọi thương tổn bên ngoài lẫn bên trong cơ thể. Những vết thương không nặng lắm, nếu được giữ sạch và băng lại để tránh nhiễm trùng, chắc chắn vết thương sẽ tự lành sau vài hôm mà không cần đến sự can thiệp của khoa cấp cứu. Bởi vì đã cung cấp những chất trị lành cho da một cách tự nhiên.
- Máu thuộc hệ thống vệ sinh thiên nhiên, biểu thị bằng 2 từ đặc biệt:
“Natural Hygiene”, một thuật ngữ y học cổ truyền được nói đến từ thời tiền Hy Lạp (Greece). Natural, ngụ ý chỉ một phương pháp hay tiến trình (process) không bị trở ngại bởi thế lực giả tạo. Hygiene, đích thực là tình trạng sạch sẽ (cleanliness). Nguyên lý căn bản của Natural Hygiene là thân thể tự tẩy sạch (self-cleansing), tự chữa lành (self-healing) và tự bảo quản (self-maintaining). Nó làm việc hoàn toàn tự động. Tất cả sức mạnh trị lành mà thiên nhiên ban cho nằm sẵn bên trong cơ thể từ lúc chào đời, luôn luôn chính xác và không bao giờ bị nghẽn tắc trừ phi chủ nhân, tức chúng ta phá hỏng qui luật đời sống. Bác sĩ Herbert M. Shelton (1928-1981) Hoa Kỳ nói: “Qui luật tự nhiên, chân lý của vũ trụ, cơ thể là một cổ máy sinh vật học (biology) hoàn hảo. Hiệu chỉnh mọi sai lầm liên quan đến đời sống và sức khoẻ, bảo vệ tất cả phẩm hạnh (virtue) và sự tinh khôi (purity) cho chủ nhân là trọng trách của Natural Hegiene”.
10. Biết thở là chìa khoá của sức khoẻ tốt:
- Biết thở có nghĩa là thở đúng cách, đứng phương pháp (proper breathing). Hơi thở quả là điều kỳ diệu, một chất năng đầy bí ẩn trong đời sống. Các triết gia đã đặt hơi thở ngang hàng với linh hồn, bởi vì “sự sống khởi thuỷ bằng cái hít vào đầu tiên khi mới chào đời và kết thúc bằng cái thở ra sau cùng”. Nhiều vị minh sư về thiền quán (meditation) dạy rằng: “Cái sống và cái chết chỉ cách nhau một sát-na, một hơi thở”.
- Thở đúng cách là hít thật sâu, nở rộng 2 buồng phổi; sau đó từ từ thở ra, thời gian bằng với thời gian hít vào. Nhịp thở chậm và lặng lẽ. Thở sai phương pháp là nguyên nhân chung tạo ra bệnh tật, bởi lẽ sức sống (vitality)bị giảm sút thì tính nhạy cảm (susceptibility), những đại biểu (agents) của bệnh tật, sẽ tăng lên. Học thở đúng phương pháp là một đòi hỏi có ý thức, không tốn tiền, đơn giản, an toàn, hữu ích, là cách chăm sóc sức khoẻ cho trí tuệ và xác thân tốt nhất.
QUAN ĐIỂM ĐÔNG Y HỌC
Đông y học quan điểm con người là một sản phẩm vi diệu qua kết hợp giữa trái đất và vũ trụ. Nói đến sức khoẻ là nói đến sinh lực. Sinh lực còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác như: Sức lực, khí lực, nội lực, chân khí hay chính khí. Sinh lực là nền tảng của sự sống và phát triển của mọi sinh vật. Đông y học lấy kinh điển sách Hoàng Đế Nội Kinh làm kim chỉ nam, biện chứng cho mọi tư tưởng và nguyên tắc chẩn đoán cũng như điều trị; trong đó khí lực được đánh giá cao, giữ vai trò then chốt cho sự sinh tồn.
Quán xét hết thảy mọi sự vật nói chung, sức khoẻ nói riêng, sách Hoàng Đế Nội Kinh đưa ra 3 luận lý mang tính triết học:
1. Tất cả sinh vật đều biến đổi không ngừng ,từ tĩnh sang động hoặc từ động sang tĩnh và trải qua tiến trình tuần tự không thể đảo ngược: Sinh trưởng, phát triển, suy thoái và huỷ diệt.
2. Tất cả sinh vật đều chuyển hoá theo dạng thức liên kết, vừa tương hợp vừa mâu thuẩn. Từ đó phát sinh ra hiện tượng tụ tán, còn mất, sanh hoá không ngừng.
3. Tất cả sinh vật đều có liên hệ với nhau, không thể tách rời. Bất kỳ sự phân ly nào cũng đưa tới trạng thái chết, tương tự như cát đá hay kim loại.
Từ luận lý của sách Hoàng Đế Nội Kinh, Đông y học cho rằng sức khoẻ tốt hay xấu tuỳ thuộc vào 4 yếu tố căn bản: Âm dương, ngũ hành, Thiên nhân hợp nhất và tiến trình tâm sinh lý.
- Âm dương đối lập: đối lập là nói tính mâu thuẫn, tương phản hai mặt của sự vật. Ví dụ: nước và lửa, sáng và tối. Không có sự vật nào tồn tại mà không có âm dương hoặc chỉ thuần âm hay thuần dương. Sức khoẻ con người cũng không ngoại lệ, nếu âm dương quân bình và ở trạng thái động thì được khoẻ mạnh, trường thọ.
- Âm dương hỗ trợ: Hỗ tương là sự nương tựa nhau. Tuy đối lập nhưng âm dương phải nương tựa vào nhau mới tồn tại và biến hoá được. Không có âm thì không sinh, không có dương thì không trưởng (phát triển). Âm dương tách rời nhau thì tinh khí (con người) sẽ tuyệt.
- Âm dương tiêu trưởng: “Tiêu” là mất đi, “Trưởng” là phát triển. Tiêu trưởng nói lên mọi sự vật chuyển hoá không ngừng, hễ hiện tượng nầy tiến tới cực đại thì tiêu đi để cho hiện tượng khác khởi sinh. Bởi vậy mới có câu: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”.
- Âm dương bình hành: Âm dương tuy đối lập nhau nhưng không ngừng bổ sung cho nhau đề lập thế cân bằng. Sức khoẻ tốt tất là âm dương quân bình, sức khoẻ kém hay bệnh tật là do âm dương mất quân bình. Muốn phục hồi hay duy trì sức khoẻ, không có bất kỳ phương pháp nào ngoài sự quân bình âm dương.
2. Nhân tố ngũ hành:
Ngũ hành cũng là học thuyết luận về sự vận động, chuyển hoá của 5 loại vật chất trong thiên nhiên. Ngũ hành gồm có: Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hoả (lửa, nhiệt), Thổ (đất). Con người là một tiểu vũ trụ, do thuyết “Tam tài” gồm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất nên ngũ hành ngoài thiên nhiên tương ứng với ngũ tạng gồm: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận. Đông y học dùng ngũ hành để quan sát, so sánh, quy nạp và phản ánh mối tương quan về hoạt động sinh lý hay bệnh lý của tạng phủ trong cơ thể. Mỗi tạng tương ứng với một hành:
- Tạng Tâm tương ứng với hành Hoả.
- Tạng Can tương ứng với hành Mộc.
- Tạng Tỳ tương ứng với hành Thổ.
- Tạng Phế tương ứng với hành Kim.
- Tạng Thận tương ứng với hành Thuỷ.
Ngũ hành hoạt động theo hai qui lụât: vận hành theo chiều thuận (tương sinh) và theo chiều nghịch (tương khắc). Tương sinh là hành nầy hay tạng nầy tác động, thúc đẩy, bổ sung và nâng cao chức năng cho hành kia hay tạng kia. Ngược lại, tương khắc là hành nầy hoặc tạng nầy ức chế, ngăn chặn, làm giảm chức năng của hành kia hay tạng kia với mục đích duy trì sự quân bình.
Trong cơ thể, Ngũ hành với Ngũ tạng tương sinh gồm có:
- Phế Kim sinh Thận Thuỷ.
- Thận Tuỷ Sinh Can Mộc.
- Can Mộc sinh Tâm Hoả.
- Tâm Hoả sinh Tỳ Thổ.
- Tỳ Thổ sinh Phế Kim
Cứ thế mà luân chuyển không ngừng.
Mặt khác, Ngũ hành và Ngũ tạng tương khắc gồm có:
- Phế Kim khắc Can Mộc.
- Can Mộc khắc Tỳ Thổ.
- Tỳ Thổ khắc Thận Thuỷ.
- Thận Thuỷ khắc Tâm Hoả.
- Tâm Hoả khắc Phế Kim.
Tương khắc cũng là trạng thái động, mục đích điều tiết sự thái quá hay bất cập trong cơ thể nhầm đưa trở lại vị trí cân bằng. Một khi ngũ hành vận động bình thường thì sức khoẻ tốt, nghịch thường sẽ phát bệnh.
3. Nhân tố Thiên-Nhân hợp nhất:
Là học thuyết lý giải và chỉ đạo phương pháp bảo tồn sinh mệnh, giữ gìn sức khoẻ, phòng bệnh cũng như trị bệnh khi con người đứng trước mọi hoàn cảnh hay do đe doạ bởi thiên nhiên. Trong y học, con người luôn chủ động tìm ra thuật dưỡng sinh nhằm nâng cao sức khoẻ, giúp cho cuộc sống thích ứng với thiên nhiên hoặc chế phục thiên nhiên nếu có thể được. Thuật dưỡng sinh gồm 2 phần chính:
- Phòng bệnh: Cải thiện môi trường sống hoặc chủ động lánh xa nơi độc hại. Năng rèn luyện thân thể lẫn ý chí, chống dục vọng thái quá. Ăn mặc đầy đủ và hợp lý, giữ vệ sinh cá nhân hằng ngày.
- Trị bệnh: Nâng cao chính khí bằng nhiều phương pháp như ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, tấm vật lý trị liệu, khí công, thư giãn, dược thảo, châm cứu, xoa bóp.
4. Tiến trình Tâm-Sinh lý:
Theo qui luật tự nhiên, mọi sinh vật tuần tự trải qua 4 giai đoạn:
- Sinh (sinh ra, khởi đầu một chu kỳ mới).
- Trưởng (phát triển, thực hiện hoặc hoàn thiện hoài bảo).
- Thu (già cỗi, hoàn tất chu kỳ hiện hữu).
- Tàng (huỷ diệt, chết, chuyển đổi sang một chu kỳ khác).
Đối với con người, tiến trình nầy được mô tả theo thời gian như sau:
- Lên 10 tuổi, các cơ quan trong cơ thể đã vững vàng, khí lực tập trung một cách đầy đặn ở phần dưới thân thể. Do vậy, chúng ta thấy trẻ con luôn luôn thích chạy nhảy.
- Đến tuổi 20-30, khí lực và máu huyết phát triển thực sung mãn, cảm thấy cuộc đời năng động, tươi sáng. Có 5 cơ quan nội tạng hoạt động đều hoà, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ.
- Đến tuổi 40-50, cơ nhục bắt đầu suy thoái, da thịt bắt đầu nhăn nheo, tóc bắt đầu bạc, răng bắt đầu rụng. Khí lực tuy còn bền vững nhưng con ngời bắt đầu rhích ngồi hơn hoạt động vì gan mật giảm điều tiết, tinh quang đôi mắt yếu dần.
- Đến tuổi 60-70, năng lực của tim giảm, tỳ vị giảm, gân thịt khô cằn, con người có khuynh hướng thích ngủ hơn làm việc, thích yên tĩnh hơn náo động.
- Đến tuổi 80-90, năng lực của phổi giảm, thận giảm, đầu óc ngày càng mù mờ, nói năng lẫn lộn, đi lại khó khăn.
- Đến tuổi 100, năng lực phủ tạng biến mất, không còn lại gì ngoài xác thân còm cõi. Giai đoạn hoại và không chực chờ trước mặt.
Bài toán sức khoẻ con người được vẽ thành một đường cong hình parabola (như hình trái núi), khởi đi từ tuổi 10-15 (chân núi), tuyệt đỉnh ở trong khoảng 25-35 tuổi (đỉnh núi), rồi bắt đầu lao xuống từ tuổi 40 (triền núi) và kết thúc ở 80-90 hoặc 100 tuổi (vực thẳm). Đó là một bài toán mẫu, theo qui trình thuận và bình thường. Tuy nhiên, qui luật tự nhiên không thể phân phát đồng đều sức khoẻ và tuổi thọ cho mọi người. Muốn có trong tay bài toán mẫu phải học và thực hành công thức. Đề cập đến việc bảo tồn sinh lực và sinh mệnh, sách Hoàng Đế Nội Kinh-Chương nhiếp sanh-viết:
- “Thượng cổ chi nhân, ẩm thực hữu tiết, khởi cư hữu thường, bất vọng tác lao, cố năng hình dữ thần câu, nhi tận chung kỳ thiên niên, độ bách tuế nhi khứ”. Tạm dịch: “Nhười đời thượng cổ, ăn uống điều độ, thức ngủ đúng giờ, không suy tính quá sức khiến lao tâm khổ trí, cho nên thể chất cũng như tinh thần được toàn hảo, sống đến 100 tuổi mới chết”.
Phải biết rằng chân khí nhờ Âm dương mà phát lực, nhờ ngũ hành mà chuyển hoá, nhờ thiên nhân hợp nhất để bảo vệ và thuận theo thời lệnh (tâm sinh lý) để bảo thọ. Thế nhưng Âm Dương, ngũ hành không hình tướng, chỉ có khí được nhận ra bằng lực và huyết nhận ra bằng sắc. Cho nên muốn quân bình sinh lực, trước hết phải bồi bổ khí huyết. Một khi vệ khí sung mãn, vinh huyết tốt tươi chứng tỏ Tinh-khí-Thần đầy đủ. Đây thực là căn nhà của sinh lực. Nhưng Tinh-Khí-Thần là gì? Đến từ đâu?
-Tinh:
Là thành phần vật chất cấu tạo ra cơ thể và nuôi dưỡng cơ thể. Tinh gồm 3 nguyên tố chính: Tinh, Huyết và Tân dịch.
a. Tinh: Đây là nguồn gốc, mầm sống đầu tiên sáng tạo ra con người. Sách Linh Khu nói: “Cái đến với sự sống gọi là tinh”. Tinh của người nam hợp với người nữ tạo nên thân hình. Sau khi chào đời, con người lớn lên nhờ 2 nguồn tinh lực: tinh lực “Tiên thiên” do bẩm thụ từ trong bào thai và tinh lực “Hậu thiên” do đồ ăn thức uống dinh dưỡng hằng ngày. Cũng nhờ tinh mà hình thành được lục phủ ngũ tạng, sau đó qui vào thận để hoá thành tinh sinh dục hầu tiếp nối con đường sinh sản; cho nên sách Tố Vân nói: “Thận chủ thuỷ, nhận lấy tinh của ngũ tạng lục phủ mà tồn trữ. Ngũ tạng thịnh thì tinh tràn đầy ra”. Tinh còn gọi là chân âm hay nguyên âm, có công năng bảo hộ cơ thể chống lại bệnh tật, nên sách Tố Vân lại nói: “Gĩư tinh đầy đủ thì mùa xuân không bị bệnh ôn (tức thời khí, dịch bệnh)”. Tinh đủ cũng là nhân tố giúp sinh sản và phát dục đúng mức. Tinh kém, con người thường bị đau yếu bệnh tật triền miên do sức đề kháng nội thân giảm sút.
b. Huyết: Là loại dịch thể sắc đỏ, sinh ra từ thực phẩm dinh dưỡng được trung tiêu tỳ vị chuyển hoá và thấm vào mạch mà thành. Sách Linh Khu nói: “Trung tiêu bẩm thụ khí, lấy chất dịch từ ăn uống biến hoá ra màu đỏ gọi là huyết”. Huyết được khí dẫn đi chu lưu khắp lục phủ ngũ tạng để duy trì sự sống. Điều quan trọng của huyết dịch là phẩm chất trong sạch, công năng vận hành phải lưu lợi. Nếu huyết đình trệ, bị nhiễm độc thì cơ thể sẽ lâm nguy, bệnh tật sẽ bộc phát.
c. Tân dịch: Tân dịch tuy chung một tên nhưng khác nhiệm vụ. “Tân” là một thứ dịch trong mà lỏng do đồ ăn thức uống hoá sinh, được khí tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu) vận hành khắp châu thân, chịu trách nhiệm củng cố phần biểu (bên ngoài), ôn dưỡng cho cơ nhục (gân, thịt), làm tươi nhuận bì phu (da, lông). Sản phẩm của Tân gồm có mồ hôi và nước tiểu. Còn “Dịch”, tuy cùng nguồn gốc với “Tân”, nhưng ở thể đục và đậm dặc, chịu trách nhiệm lưu hành phần lý (bên trong), bồi đắp cho ngũ tạng, não, xương. Sản phẩm của “Dịch” gồm có nước mắt, nước bọt, nước mũi, chất nhờn trong khí quản, nước dịch trong não tuỷ, chất nhờn trong khớp xương. Nếu thiếu tân dịch, lục phủ ngũ tạng nhanh chóng bị hư hoại và sẽ chết.
- Khí:
Khí là tiền đề quan trọng nhất của học thuyết Đông y. Khí mang sự sống tới cho mọi sinh vật trên trái đất dưới hình thái năng lực, sức mạnh. Khí cũng còn có nghĩa là hơi thở (breath) và không khí (air) mà phật giáo gọi là “Sát na” (prana). Khí vô hình, không mùi, không vị; tuy nhiên có thể truyền qua và xâm nhập vào toàn bộ tế bào sinh vật. Khí có thể chuyển động và biến háo như hấp thụ khí lực từ đồ ăn và nước uống dưới dạng tiêu hoá rồi truyền khi khắp cơ thể, nạp khí bằng hơi thở và tải chúng vào phổi. Khi hai phương thức nạp khí nầy hội tụ trong máu, chúng biến hoá thành nhân lực (human-qi), nội lực hay nguyên khí (true energy, vital energy). Sức khoẻ tuỳ thuộc vào phẩm chất, số lượng và sự cân bằng về khí để quyết định tình trạng mạnh yếu và tuổi thọ một đời người. Chìa khoá để duy trì sức khoẻ phải được cân bằng một cách tự nhiên, hài hoà, nhờ nguyên khí tiềm phục bên trong cơ thể điều tiết sao cho thích ứng với cơ thể và môi trường bên ngoài. Chất lượng, số lượng và cân bằng về khí lực có thể thay đổi tuỳ theo mùa, thời tiết, khí hậu hoặc vị trí. Tuy vậy, thực phẩm và đồ uống hằng ngày, cách thở, sử dụng nạp khí của các cơ quan tạng phủ cũng góp phần không nhỏ trong việc cân bằng nguyên khí. Khí chia thành nhiều thể:
- Nguyên khí, bao gồm khí nguyên âm và khí nguyên dương, bẩm thụ khí tiên thiên từ lúc sinh ra, chứa ở thận. Nguyên khí mạnh thì thân thể khoẻ mạnh.
- Tôn khí, bao gồm khí hít thở từ ngoài vào phổi và khí hoá sinh do đồ ăn thức uống tạo thành, thuộc loại khí hậu thiên, tụ ở khí hải (giữa ngực).
- Chân khí, bao gồm khí tiên thiên và khí hậu thiên hợp lại. Trong quá trình sinh lý, tuy hai thứ khí nầy khác nguồn nhưng không tách rời nhau mà liên kết với nhau để duy trì sức khoẻ. Nâng cao sinh lực. Sách Linh Khu nói: “Chân khí được bẩm thụ từ tự nhiên (khí trời, khí hoá do đồ ăn) kết hợp với cốt khí (nguyên khí) mà làm cho cơ thể khoẻ mạnh”.
- Vinh khí là tinh khí hay âm khí, sinh ra từ thực phẩm ăn uống hằng ngày, đi bên trong mạch. Công dụng chủ yếu của vinh khí là hoá sinh huyết dịch để cung cấp cho toàn thân, khởi đi từ trung tiêu tỳ vị, vào phế mạch biến huyết ra sắc đỏ, chảy vào trong thì nuôi dưỡng lục phủ ngũ tạng, tản ra ngoài thì tươi nhuận cho da lông.
- Vệ khí, có cùng nguồn gốc với vinh khí nhưng thuộc loại dương khí, sức vận chuyển nhanh và mạnh, đi ở ngoài mạch. Công năng của vệ khí là điều hoà nhiệt lượng toàn thân, ôn dưỡng cho cơ nhục, lo việc đóng mở lỗ chân lông, bảo vệ phần biểu (ngoại bì) chống đỡ ngoại tà xâm nhập. Vinh khí và vệ khí cùng liên hợp với nhau để tạo nên mạng lưới sinh lực, vừa nuôi thân vừa bảo hộ. Nếu vinh vệ bất hoà, bệnh liền phát khởi.
- Thần:
Thần là sắc tướng của sinh lực, biểu thị sức sống bên trong lẫn bên ngoài dưới nhiều hình thức: Tinh thần, ý thức, tri thức, vận động. Thần do khí tiên thiên và hậu thiên hợp nhất mà thành, tuy trừu tượng nhưng có nguồn gốc từ vật chất. Sách Linh Khu nói: “Cái đến với sự sống gọi là tinh, hai thứ tinh tác động lẫn nhau gọi là thần” hoặc là: “Thần là tinh khí của đồ ăn uống” đều cùng một ý. Thần hiện ra trên mạch, trên mắt, trên da thịt, trong hoạt động. Hai khí tiên thiên, hậu thiên sung mãn thì thần sắc tinh anh, tươi sáng, làm việc nhanh nhẹn, mạnh mẽ. Hai khí tiền thiên, hậu thiên suy kiệt thì thần sắc tối tăm, khô héo, hoạt động chậm chạp, yếu đuối. Cho nên thần kinh còn thì sức khoẻ còn, sinh mẹnh còn, thần mất thì thân xác mất, dẫu tồn tại cũng chẳng khác nào như cây khô ngoài đồng.
Tóm lại, tinh-khí-thần là giềng mối của sự sống. Sinh mệnh người ta bắt nguồn từ tinh, duy trì được sinh mệnh là nhờ khí, chủ của sinh mệnh là thần. Biết được sự thịnh suy của “tam bảo” (tức tinh-khí-thần) là biết hết sức khoẻ một đời người.
Trở lại vấn đề sanh tử, thử nêu lên câu hỏi: “Ứớc vọng con người hiện diện trên hành trình nầy là gì?”. Con người sinh ra, sự thèm khát đầu tiên là sức khoẻ (health) và hạnh phúc (happiness). Theo các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt trên địa cầu nầy từ nhiều triệu năm nhưng lịch sử về chăm sóc sức khoẻ thực sự chỉ mới xuất hiện trên dưới 3000 năm. Điều đó cho thấy người thượng cổ đã biết chăm lo sức khoẻ, tuy thiếu kiến thức khoa học, nhưng cũng biết thuận theo luật sinh tồn như ăn sống rau quả, nướng chín thú vật, sống gần thiên nhiên, hấp thu không khí trong lành, phơi mình dưới ánh nắng mặt trời, đêm ngủ trong hang động và sưởi ấm bằng lửa. Ngày nay, nhờ phát triển trí tụê, con người phân tích và lập luận về sức khoẻ minh bạch hơn. Sức khoẻ phần lớn tuỳ thuộc vào yếu tố thể chất, còn gọi là vật chất. Cơ thể con người được cấu tạo bằng nhiều loại vật chất tinh vi và hoạt động trong môi trường sinh thái đa diện gồm 6 thành phần căn bản mà các nhà y học xem như 6 vị bác sĩ ưu tú nhất liên kết nhau nhằm bảo hộ sự sống cũng như duy trì năng lực:
- Nước uống (Drinking water)
- Khí trời (Fresh air)
- Ánh nắng (Sunshine)
- Dinh dưỡng (Healthful diets)
- Thể dục (Exercise)
- Nghỉ ngơi (Rest.Sleep).
PHÂN TÍCH CỦA Y HỌC HIỆN ĐẠI
1. Nước uống (Drinking water)
Nước là thành phần dinh dưỡng quan trọng, chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ thể con người, đâu đâu cũng có sự hiện diện của nước. Tổng số nước trong cơ thể ước lượng tới 45 quarts (1 quart = 1.135 lít * 45 = 51.075 lit) ở người lớn, chiếm 70% trọng lượng toàn cơ thể. Càng béo phì tỷ lệ nước càng ít hơn người gầy ốm. Nước luân lưu trong tất cả các mô (tissues), tế bào (cells), cơ quan (organs), cơ bắp (muscles), xương (bones), thậm chí 10-12 tỷ tế bào não (brain cells) của chúng ta cũng chứa gần 81% nước. Bảng phân tích dưới đây cho thấy đâu đâu trong cơ thể cũng toàn là nước:
- Dịch vị dạ dày (gastric juice) =95.5%
- Nước bọt, nước dãi (saliva) =95.5%
- Bạch huyết (lymph) =94%
- Máu (blood) =90.7%
- Huyết tương (plasma) =90%
- Mật (bile) =86%
- Não (brain) =80.5%
- Phổi (lungs) =80%
- Lá lách (spleen) =75.5%
- Mô cơ (muscle tissues) =75%
- Gan (liver) =71.5%
- Hồng huyết cầu (red blood) =68.7%
- Sụn (cartilage) =55%
- Xương (bones) =13%
- Răng (teeth) =10%
Con người có thể sống sót sau vài tuần lễ nhịn đói nhưng sẽ chết trong vài hôm nếu mất hơn 20% lượng nước hoặc không có nước. Mỗi ngày cơ thể vừa dung nạp vừa thải bỏ một khối lượng nước được cân bằng như sau:
Dung nạp: Thải ra:
- Từ nguồn chất lỏng =1,500 cc - Đường da = 550 cc
- Từ thực phẩm khô =750 cc - Đường phổi = 400 cc
- Do cơ thể sản xuất = 400 cc - Tiểu tiện = 1,550 cc
- Đại tiện = 150 cc
Tổng cộng: 2, 650 cc Tổng cộng: 2,650 cc
2. Khí trời (Fresh air)
Là chất cực kỳ quan yếu giúp bảo tồn sinh mạng. Khí trời gồm một số khí đơn giản tổng hợp lại, trong đó chủ yếu là oxygen và nitrogen. Cơ thể tuỳ thuộc vào oxygen hơn bất kỳ nguyên tố nào khác nhưng với điều kiện là phải được pha loãng với nitrogen theo điều kiện tự nhiên. Cơ thể con người không thể sống lâu được với loại oxygen nguyên chất hoặc không khí khô ráo. Hơi nước trong thiên nhiên cũng là điều rất cần thiết, giúp cho phổi hấp thu oxygen dễ dàng hơn.
Máu đỏ (red blood) nhờ có chứa oxygen, sau một vòng vận chuyển tới khắp các mô (tissues) và tế bào (cells), sẽ trở về phổi. Lúc nầy, máu có màu tím đen vì thiếu oxygen lại mang thêm một lượng lớn carbon dioxide và những chất bẩn (impurities) khác. Tại phổi nhờ có khoảng 300 triệu chiếc túi không khí nhỏ xíu hoạt động, máu được thanh lọc, cung cấp thêm lượng oxygen cần thiết biến ra màu đỏ tươi rồi chuyển về tim để bơm tới các mô theo chu trình mới. Cơ thể con người có khoảng 25-30 nghìn tỷ (trillion) tế bào hồng cầu và tuổi thọ mỗi tế bào chỉ kéo dài được khoảng 120 ngày. Cứ mỗi giây lại có khoảng 2,500.000 tế bào hồng cầu mới được sản xuất ra để thay thế khối lượng hồng cầu bị lão hoá. Hàng triệu mô tế bào rất cần oxygen để sống khoẻ và hoạt động bình thường.
Nhưng muốn oxygen được cung cấp đầy đủ, chúng ta phải tập thở sâu theo 4 thao tác sau đây:
- Đứng thẳng, hai chân dang ra một khoảng cáhc bằng chiều rộng thân mình, đặt hai cánh tay xuôi theo hông, úp các ngón tay vào đùi. Mắt có thể hé mở hoặc nhấm lại, tư tưởng tập trung vào hơi thở.
- Từ từ nâng hai cánh tay nâng lên đồng thời hít không khí chầm chậm qua đường mũi, dẫn luồng không khí thật sâu trong đáy phổi cho đến khi nào cảm thấy vùng bụng dưới và hông thật căng cứng. Lúc này, hai cánh tay đã nâng cao lên quá đầu.
- Gĩư chặt khí trời trong phổi từ 8-10 giây rồi từ từ thở ra bằng đường miệng với đôi môi hé mở, đồng thời chầm chậm hạ cánh tay xuống theo nhịp thở ra.
- Khi cảm thấy hơi thở ra đã cạn, dùng hai cánh tay ép thật mạnh vào hông một chút để cho số thán khí còn sót lại được tống hết ra ngoài và bắt đầu hít không khí vào mũi theo nhịp thở thứ hai…
- Việc hít thở sâu cần thực hiện thường xuyên như một thói quen tốt, mỗi ngày thực hành ít nhất 3 lần, mỗi lần hít vào thở ra đúng cách từ 4-5 lượt. Đối với các ca sĩ chuyên nghiệp, thuyết trình viên, luật sư hay giáo viên dạy học, bài tập nầy rất hữu ích nhờ dung nạp nhiều dưỡng khí trong phổi.
3. Ánh nắng (Sunshine)
Ánh nắng mặt trời vô cùng cần thiết cho đời sống mọi sinh vật trên bề mặt trái đất, trong đó có con người. Sẽ là điều sai lầm nghiêm trọng khi có quan niệm cho rằng nên tránh ánh nắng vì nó rất nguy hiểm, dễ gây bệnh ung thư da (skin cancer) chẳng hạn. Thử tưởng tượng xem, hành tinh địa cầu này sẽ ra sao nếu không có mặt trời? . Trước hết sẽ không còn thấy bất cứ vật gì. Toàn cảnh trái đất bao la trở nên đen tối, lạnh lẽo, đá cũng phủ đầy băng tuyết, việc sinh sản và phát triển bị đình chỉ vĩnh viễn. Cuối cùng, hàng loạt vấn đề khủng khhiếp xảy ra: sự sống chấm dứt, không con người, không muôn thú, không cây cỏ. Không hoàn toàn. Do vậy, đối với loài người ánh nắng là bạn chứ không phải kẻ thù.
Tia sáng mặt trời đóng vai trò chính trong việc kiến tạo mọi sự sống, nhờ cung cấp hơi nóng (warmth) và ánh sáng (light). Đối với cây cỏ, ánh nắng mặt trời giúp phát triển cành lá xanh tười, hoa quả sai quằn, càng gần đường xích đạo (equator) sự phát triển chiều cao càng nổi bật. Trái lại, ở những miền hàn đới (frigid zones), do thiếu ánh nắng mặt trời, cây cối mọc thấp hơn, lá có màu trắng nhạt hoặc không có màu. Đối với con người, cư dân sống ở vùng bắc vĩ độ (northern latitudes) thường khổ tâm bởi hiện tượng gọi là “cơn trầm uất mùa đông tồi tệ”. Họ rất buồn, bơ phờ, không thể hoàn thành công việc dễ dàng, thường khóc một cách vô cớ. Ở Hoa Kỳ, những nhà nghiên cứu thuộc Viện sức khoẻ tâm thần đã điều trị bệnh nầy bằng phương pháp dùng ánh sáng huỳnh quang (flourescent light) với quang phổ (spectrum) rộng, tạo ánh nắng giả để kích thích hưng phấn thần kinh. Còn với loài vật, khi sống trong điều kiện không có ánh sáng, chúng thường bị mù thậm chí không có cả mắt. Gà lớn lên trong vùng có ánh nắng quanh năm sẽ đẻ trứng với vỏ cứng và dầy hơn gà sống ở vùng thiếu ánh mặt trời.
Kiến thức con người cho biết, bệnh còi xương (rickets) là hậu quả của vấn đề thiếu vitamin D, thường xảy ra ở trẻ em nhỏ tuổi. Đây là tai hoạ hết sức buồn lòng vì lý do calcium tập trung trong xương quá thấp, khiến cho bộ xương bị vặn vẹo và đau cơ bắp. Nguyên nhân không phải cơ thể thiếu calcium mà chính vì thiếu vitamin D. Chúng đóng vai xúc tác, giúp chuyển hoá calcium thành xương. Nhưng nguồn vitamin D ở đâu ra? Trong ánh nắng mặt trời! Có một chất lỏng nằm dưới da gọi là ergosterol, khi tác hợp với tia tử ngoại hay tia cực tím (ultraviolet) từ ánh nắng mặt trời, chúng sẽ chuyển đổi thành vitamin D và hấp thu vào máu.
4. Dinh dưỡng (Healthful diets):
Cần chọn lọc thực phẩm đầy đủ chất bổ dưỡng. Sự dinh dưỡng tốt là nền tảng của sức khoẻ tốt. Thực phẩm mang lại sức khoẻ tốt cho con người gồm 7 thành phần chính sau đây: Nước (drinking water), chất đường bột (carbohvdratcs), chất đạm (proteins), chất béo (fats), các loại sinh tố (vitamins), chất khoáng (minerals) và các chất bổ vi lượng (micro-nutrients) khác.
a- Nước (drinking water):
Cơ thể con người, 2/3 trọng lượng là nước. Nước là một hợp chất bổ dưỡng có liên quan mật thiết đến mỗi chức năng và nhiệm vụ của cơ thể. Nước giúp vận chuyển chất dinh dưỡng và chùi rửa những sản phẩm bên trong lẫn bên ngoài tế bào. Nước cần thiết cho việc tiêu hoá, hấp thụ, truyền tải và tống xuất chất cặn bã cũng như hoà tan các chất sinh tố trong nước, duy trì nhiệt lượng cơ thể. Nhưng uống nước nào mới đầy đủ chất bổ dưỡng? Thật không đơn giản!
* Nước máy:
Còn gọi là nước vòi (tap water), là nước chảy ra từ vòi nước (faucets) trong các hộ gia đình. Nó là sản phẩm được thu hồi từ các nguồn nước thiên nhiên nằm trên mặt đất như ao, hồ, suối, sông và tập trung vào bể chứa để lắng lọc hoặc từ mạch nước ngầm đã được lọc qua nhiều tầng đất đá như giếng đào, giếng phun. Nói chung, loại nước nầy có phẩm chất tốt.
* Nước nặng, nước nhẹ:
Nước nặng (hard water) chứa các thành phần minerals gồm calcium và magnesium tập trung rất cao. Sự hiện diện những chất khoáng nầy ngăn cản việc tẩy rửa bằng xà phong (soap), gây ra hậu quả là trên tóc, da, quần áo, chén bát hay bất cứ vật dụng nào tiếp xúc với nước đều bị bám dính một lớp cặn mỏng. Nước loại nầy còn ảnh hưởng tới vị giác, không ngon miệng. Nhiều cuộc nghiên cứu khoa học nhận định chất calcium tìm thấy trong nước nặng không tốt cho tim, mạch máu, xương. Về nước nhẹ (soft water) là loại nước tự nhiên hoặc nước nặng đã được lọc bỏ chất calcium và magnesium. Một loại vấn đề hết sức phiền toái về nước nhẹ là chúng làm phân huỷ lớp chống sét tráng trong đường ống nước, tạo nguy hiểm khi đường ống làm bằng chất chì (lead). Mối đe doạ khác nữa là đường ống nước làm bằng nhựa (plastic) và galvanize vốn chứa calcium, một chất kim loại nặng (heavy metal) rất độc. Tuy hiện nay hiếm thấy dùng trong các công trình xây dựng gia cư nhưng ai bảo đảm rằng số ống nước lắp đặt vào thời kỳ trước đã được thay thế tất cả?
- Sự an toàn của nước máy:
Nhiều người cho rằng nguồn nước chảy ra từ vòi nước nhà bếp là thanh sạch, uống được, an toàn sức khoẻ. Điều đáng buồn là không hoàn toàn an lành như vậy. Trong nước máy thường chứa những chất đáng ghét như: radon, fluoride, arsenic, iron, lead, copper và nhiều chất kim loại nặng. Nó còn chứa những chất gây ô nhiễm như: fertilizers, asbestos, cyanides, herbicides, pesticides và nhiều loại chất công nghiệp (industrial chemicals) tuôn tràn vào hồ ao, sông suối, hoặc thấm qua mặt đất hoà tan vào mạch nước ngầm mà không có cách gì lọc sạch trước khi cung cấp cho dân chúng dùng. Ngoài ra, nước máy lại có nhiều chất do chúng ta cố ý thêm vào như: chlorine, carbon, lime, phosphates, soda ash và aluminum sulfate nhằm mục đích khử vi khuẩn (bacteria), vi trùng (viruses), ký sinh trùng (parasites), điều chỉnh độ kiềm (pH) và lọc sạch chất vẩn đục. Điều quan ngại lớn nhất về phẩm chất nước uống hiện nay là chất clo (chlorine), thuốc trừ sâu (pesticides) và chất diệt ký sinh trùng (parasites). Theo bác sĩ James F. Balch, Hoa Kỳ chất chlorine hiện nay thêm vào nước máy nhằm khử trùng luôn ở mức độ hết sức cao, sẽ là tác nhân gây ung thư (carcinogens) do vài phụ phẩm từ chlorine gây nên. Thuốc trừ sâu thì góp phần vào nguy cơ tạo ra bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư vú (breast cancer). Về ký sinh trùng, như loài cryptosporidium, chất chlorine pha trong nước máy chỉ có thể giết được vi khuẩn (bacteria) chứ không giết được chúng cho nên nước mất tính an toàn.
Chất Fluoride:
Trong nước máy người ta cố ý gia thêm chất fluor nhằm bảo vệ răng ít bị sâu bệnh. Nhưng mấy năm qua, cho đến bây giờ, đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận dữ dội về chuyện có nên thêm chất fluoride vào nước uống hay không. Năm 1961, Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra báo cáo fluoride như là chất độc giết người. Nó chỉ tác dụng giúp cho xương và răng bền vững nhờ hình thức calcium fluoride có trong điều kiện tự nhiên. Ngược lại, mức độ chất độc trong fluorine nhân tạo hoà tan vào nước uống sẽ làm hại đến hệ thống miễn nhiễm(immune system) con người. Thế nhưng, việc sử dụng chất fluorine trong nước uống vẫn tiếp tục duy trì tại hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ cho dù nhiều chứng bệnh hay rối loạn sức khoẻ do chất nầy gây ra gồm: Hội chứng Down, răng có chấm lốm đốm, ung thư… đã được cảnh báo. Nếu muốn loại trù chất fluoride trong nước máy, chúng ta có thể dùng ohương pháp chưng cất hoặc mua hệ thống lọc đặc biệt bày bán ngoài thị trường (alumina filtration system).
Phân tích nước:
Không phải nước uống nơi nào cũng tốt hoặc có chất độc như nhau. Theo cơ quan bảo vệ môi sinh Hoa Kỳ (The U.S. Environmental Protection Agency – EPA) định nghĩa: “Nước tinh khiết là nước an toàn về vi khuẩn học” (Pure water as bacteriologically safe water). Như vậy, phẩm chất của nước máy phải có độ kiềm (pH) từ 6.5 đến 8.5. Nếu nghi ngờ nước máy nơi mình có vấn đề, hãy liên lạc với cơ quan bảo vệ sức khoẻ địa phương để nhờ kiểm tran chất lượng nước, miễn phí, nhưng chỉ về phương diện tìm kiếm mức độ vi khuẩn mà thôi. Muốn biết hàm lượng độc tố, hoá chất, phải nhờ đến phòng kiểm nghiệm của các trường đại học. Ở Hoa Kỳ, gởi mẫu nước tới cơ quan The Water Quality Association, 4151 Naperville Road, Lisle, IL 6053 – điện thoại: 1-708-505-0160.
Cải thiện nước máy:
Nước máy có thể cải thiện bằng nhiều cách:
+ Nấu sôi trong 3-5 phút là diệt được hết vi khuẩn và ký sinh trùng.
+ Trữ nước trong một cái bình không đậy nắp chừng 3-4 tiếng đồng hồ là khử được mùi và vị của chất chlorine hoặc khuấy đều tay ít lâu cho oxygen trộn nhiều vào nước cũng có hiệu quả.
Dùng bộ lọc nước đặc biệt với 3 hệ thống: loại hút, dùng vật liệu than (carbon) để hút lấy chất bẩn, loại siêu lọc (microfiltration) cho nước chảy qua những lỗ cực nhỏ trong bộ lọc để giữ lại chất bẩn và loại trung gian đặc biệt theo dạng ion-hoá để thải trừ chất kim loại nặng. Tuy nhiên, không có bộ lọc nào “bắt” hết chất gây ô nhiễm và ký sinh trùng.
- Nước đóng chai (bottled water):
Vì sợ nước máy không an toàn, ngày nay nhiều người quay ra dùng nước đóng chai. Nước đóng chai thường phân loại theo nguồn cung cấp: nước suối (spring), nước khoáng (spa), nước giống phun (gevser), nước máy (tap). Theo qui định chung các loại nước nầy phải có tiêu chuẩn ít nhất là 500 phần triệu chất rắn (solids) hoà tan và phải kinh qua giai đoạn khử chất khoáng (deionized, demineralized) bao gồm việc loại trù nitrates, minerals calcium, magnesium, các kim loại nặng gồm cadmium, barium, chì (lead), radium, hoặc qua chưng cất (steam-distilled). Nhưng hầu hết các tiểu bang đều không có luật riêng về nhãn hiệu, nên nước đóng chai thật khó lường về phẩm chất chứa đựng bên trong.
- Nước khoáng (mineral water):
Nước khoáng là loại nước thiên nhiên. Nước suối Vĩnh Hảo của Việt Nam là loại nước khoáng thiên nhiên. Ở Châu Âu và Canada cũng có nhiều suối nước khoáng phun lên từ mạch nước ngầm, không cần phải bơm. Nước khoáng phải vô chai trực tiếp ngay khi hứng được mới tốt. Thành phần khoáng chất trong nước khoáng phần lớn là carbonate thiên nhiên. Nếu thiếu chất nầy, tốt hơn hết là chúng ta đừng uống nước khoáng, vừa tốn tiền hơn nước máy vừa có hại cho sức khoẻ.
- Nước suối thiên nhiên (Natural spring water):
Trên một chai nước uống có đề chữ “natural”, điều ấy không có nghĩa gì cả. Hàng chữ “Natural spring water” ghi bên ngoài hàng triệu chai nước bán ra thị trường cũng đâu có nghĩa rằng nó là nước suối thiên nhiên. Xin đừng nhầm lẫn. Nước suối thiên nhiên là nguồn nước phát sinh từ lòng đất hay từ những luồng lạch trên núi cao tuôn chảy xuống thấp theo điều kiện tự nhiên có trộn thêm mùi vị thơm ngon hoặc carbonate thiên nhiên.
- Nước sủi bọt (sparkling water):
Loại nầy có gia thêm carbonate. Nó là loại đồ uống có ích cho sức khoẻ nhưng nếu trên nhản hiệu ghi thêm chất ngọt, như đường fructose chẳng hạn, thì thà đừng uống còn hơn. Vã lại, chất carbonate ghi trên nhản hiệu chai nước “Natural sparkling water” phải đúng là nguồn carbonate thiên nhiên. Nếu hàng chữ ghi “Carbonated natural water”, phải hiểu rằng chai nước thiếu carbonate thiên nhiên và nhà sản xuất thay vào đó một nguồn carbonate khác có phẩm chất tương đương. Tất nhiên, loại nước nầy không thích hợp cho người bị rối loạn đường ruột hay viêm loét dạ dày (ulcers) vì nó thích kích hệ thống tiêu hoá.
Nước cất (steam-distilled water):
Nước cất có liên quan đến việc đun sôi. Hơi nước bốc lên ngưng tụ lại, là loại nước tốt nhất nhờ khử được tất cả vi khuẩn, vi trung, hoá chất, khoáng chất và các thứ gây ô nhiễm chứa trong nước. Muốn thêm hương vị cho nước cất, có thể hoà tan 1-2 muỗng canh nước giấm táo tươi (raw apple cider vinegar) cho 4 lit (tương đương 1 gallon) nước cất. Nước giấm táo tươi có công dụng tuyệt diệu, giúp cho bộ máy tiêu hoá làm việc tốt hơn. Nước chanh tươi cũng thế, giúp chùi rửa cơ thể rất đắc lực. Còn muốn gia thêm chất khoáng vào nước cất, cứ mỗi 20 lít (5 gallons) nước cất pha với 2 muỗng canh chất khoáng đậm đặc. Chất nầy, ở Hoa Kỳ có bán tại các cửa hàng “health food store”.
b. Chất đường bột (Carbohydrates):
Nhiệm vụ của Carbohydrates là cung cấp năng lượng cho cơ thể, được phân thành 2 nhóm: Carbohydrates đơn giản và Carbohydrates phức tạp.
- Carbohydrates đơn giản, còn gọi là đường đơn (simple sugars), bao gồm đường trái cây (fructose-fruit sugar), đường mía (sucrose-table sugar) và đường sữa (lactose-milk sugar) cùng vài loại đường khác. Trái cây là một trong những nguồn Carbohydrates đơn giản dồi dào nhất.
- Còn Carbohydrates phức tạp (complex carbohydrates) cũng là đường nhưng các phân tử (molecules) cấu tạo thành chuỗi dài hơn, phức hợp hơn. Carbohydrates phức tạp gồm có chất xơ (fiber) và tinh bột (starches) tìm thấy trong thực phẩm như rau xanh (vegetables), ngũ cốc (whole grains), đậu Hà Lan (peas) và đậu tròn (beans).
Carbohydrates là nguồn chủ yếu của đường huyết (blood glucose), nguyên liệu chính cho tất cả tế bào trong cơ thể, cho năng lực của não và tế bào hồng cầu. Ngoại trừ chất xơ không thể tiêu hoá, cả hai loại đường đơn và đường phức tạp đều được chuyển hoá thành dạng glucose trước khi sinh ra năng lượng cung cấp trực tiếp cho cơ thể hoặc tồn trữ trong gan để sử dụng về sau.
Khi chúng ta chọn thực phẩm giàu carbohydrates để nuôi thân, xin nhớ chọn lọc thứ chưa chế biến như các loại trái cây, rau xanh, đậu ngũ cốc. Nên từ chối các loại thực phẩm đã được tinh chế, đóng hộp như nước giải khát (soft drinks), món tráng miệng (desserts), kẹo (candy) và đường. Nếu dùng quá giới hạn, đặc biệt là quá thời gian cho phép, khối lượng lớn thực phẩm tinh chế từ đường đơn có thể dẫn tới một số rối loạn gồm bệnh tiểu đường (diabetes) và chứng giảm đường huyết (hypoglycemia). Mặt khác, thực phẩm chứa nhiều đường đơn tinh chế cũng chứa lượng chất béo cao, sẽ làm suy giảm sức khoẻ vì dung nạp quá nhiều nhiệt lượng.
Về chất xơ (fiber), một thể vô cùng quan trọng của carbohydrates, góp phần vào việc giúp nhu động ruột hoặc động sieng năng hơn và trợ tiêu hoá tốt hơn. Khi ăn uống thiếu hoặc không có chất xơ, ruột già làm việc rất mệt nhọc, thúc đẩy rất chậm. Ở những xứ mà người dân chuyên dùng thực phẩm không chế biến, thời gian thực phẩm trôi xuống đường ruột khá ngắn, chỉ mất từ 4-6 tiếng đồng hồ. Mặc dù hầu hết chất xơ không tiêu hoá được nhưng nó mang lại nhiều hữu ích cho sức khoẻ. Thứ nhất, chất xơ giữ nước, làm cho phân trở nên mềm, xốp, giúp giảm chứng táo bón (constipation) và bệnh trĩ (hemorrhoids). Chế độ ăn uống nhiều chất xơ cũng giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ruột già (colon cancer), hạ thấp mức cholesterol trong máu, cải thiện bệnh tim mạch.
c. Chất đạm (Proteins):
Rất phức tạp, gồm chất đường bột và chất béo tổng hợp, với 3 thành phần căn bản: carbon, hydrogen và oxygen. Chất đạm được phân thành 2 loại chính: loại hình cầu và loại sợi.
Chất đạm hình cầu hoà tan được, gồm tất cả enzymes –nguyên là chất thúc đẩy phản ứng hoá sinh trong cơ thể, kích thước hormone tăng tiết sữa (prolactin) và một số chất đạm khác trong máu gồm hemoglobin và kháng thể (antibodies).
- Chất đạm có sợi không hoà tan được, thành lập theo cấu trúc căn bản của nhiều loại mô sợi gồm tóc, da, cơ bắp, gân và sụn.
Trong chất đạm có cả thảy 22 loại amino acids, trong đó cơ thể sản xuất ra 4 loại, còn 8 loại kia thu được qua ăn uống. Chất đạm đóng vai trò kích thích tăng trưởng và sửa chữa mô hư hỏng, rất cần để cung cấp năng lượng cho cơ thể. Nguồn chất đạm dồi dào nhất nằm trong thịt, cá, gà, vịt, trứng, bơ, sữa. Kế đến, chất đạm còn nằm trong gạo lức, bắp, hạt, lúa mì, đậu, rau xanh. Nên lưu ý, đạm có nguồn gốc động vật chứa chất béo (fat) quá cao, không thật sự hữu ích cho cơ thể chế ra hormones, chất kháng sinh, enzymes, còn giúp duy trì sự cân bằng acid-alkali.
Trong lúc đó các loại đậu, nhất là đậu nành và gạo lức rất giàu chất đạm nhưng mỗi thứ lại thiếu một hoặc nhiều amino acids cần thiết. Nếu biết trộn chúng với các loại đạm khác thì sẽ được một nguồn chất đạm phẩm chất cao.
Nếu cơ thể thiếu chất đạm sẽ xuất hiện các dấu hiệu như tiêu chảy, nôn ói, biếng ăn, phù thũng (edema), gan nhiễm mỡ, vết thương lâu lành, hay buồn chán, viêm da với nhiều thể khác nhau.
d. Chất béo (fat & oil):
Gồm một số chất dinh dưỡng, giữ vai trò cung cấp năng lượng cho cơ thể. Trung bình 1 gram chất béo cung cấp 9 calories trong khi 1 gram đường bột (carbohydrate) sản xuất chỉ có 4-5 calories.
Chất béo là hợp chất acids hữu cơ được cấu tạo chủ yếu gồm carbon, hydrogen và một ít oxygen. Theo ngôn ngữ hoá học, chất béo gồm phần lớn fatty acids kết hợp với một chất rượu có dầu gọi là glycerol, chia thành 2 nhóm chính: mỡ bão hoà (saturated) và mỡ không bão hoà (unsaturated) tuỳ thuộc vào tỷ lệ nguyên tử hydrogen (hydrogen atoms) hiện diện. Nếu axit-béo (fatty acids) có số lượng hydrogen tối đa thì gọi là mỡ bão hoà. Nếu một vài vị trí trong nguyên tử carbon thiếu vắng hydrogen thì gọi là mỡ không bão hoà và khi có quá nhiều vị trí bỏ trống thì gọi là nhiều mỡ không bão hoà (poly-unsaturated). Mỡ động vật tìm thấy trong thịt và bơ sữa, thuộc loại mỡ bão hoà rất cao trong khi dầu thực vật thuộc mỡ không bão hoà với nhiều đặc tính khác nhau.
Làm thế nào để đạt được một chế độ dinh dưỡng tối ưu, đúng khoa học? Theo sự hướng dẫn của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (United States Department of Agriculture – USDA) và cơ quan chăm sóc sức khoẻ và con người (Department of Health and Human Service) giải thích, thực chất một chế độ dinh dưỡng tối ưu được tóm lược trong 3 chữ: Đa dạng (variety), tiết độ (moderation) và cân bằng (balance). Muốn thực hiện công thức nầy cần chia thực phẩm làm 6 nhóm căn bản, mỗi ngày dùng 1 nhóm theo biểu đồ hình tháp. Điều cần lưu ý, thực phẩm nào thiết kê ở đáy tháp là thành phần nên ăn nhiều nhất, giữa lúc các loại thực phẩm ở đỉnh tháp nên hạn chế tối đa. Tóm tắt, nhóm thực phẩm càng ở trên cao càng ăn và uống ít đi.
5. Tập thể dục (Exercise):
Tại những nước công nghiệp, điểm hình là Hoa Kỳ, người dân ngày càng đặt nặng vấn đề tập thể dục hơn các nước chậm phát triển vì 2 lý do chính:
- Đa số làm việc bằng trí óc, từ đó phát sinh một chứng bệnh mới có tên là “bệnh ngồi một chỗ”. Đây là một trong những nguyên nhân sinh ra chứng béo phì hay mập phì (obesity, overweight).
- Chế độ ăn uống thường thặng dư chất đạm, chất béo, dễ dẫn tới các bệnh về tim mạch, cao huyết áp, tiểu đường, cao cholesterol, ung thư…
Tập thể dục đúng cách và thường xuyên là một nhu cầu thiết yếu, một phương thuốc thần kỳ giúp bảo dưỡng sức khoẻ, làm chậm sự lão hoá, gia tăng tuổi thọ mà không cần dùng tới bất kỳ một loại dược phẩm nào. Tuy nhiên, rất khó thống kê và giải thích đầy đủ từng dụng cụ tập thể dục và mỗi loại dụng cụ có cấu trúc và phương pháp thực hành khác nhau, mỗi thứ có một số ưu điểm, khuyết điểm khác nhau. Trong phạm vi bài nầy, chỉ giới thiệu một vài phương pháp tập thể dục đơn giản nhưng có hiệu quả cao nhằm thoả mãn cả hai nhu cầu trị bệnh và ngăn ngừa bệnh tật.
Các nhà khoa học quan niệm rằng muốn cho cơ thể đạt đến mức tối ưu về sức khoẻ cần phải vận động.
- Vận động khớp xương: Trước hết, tập thể dục giúp ngăn ngừa và làm giảm triệu chứng bệnh viêm khớp (arthritis), cải thiện sự phối hợp và trạng thái cân bằng tâm sinh lý. Nên nhớ rằng bệnh viêm khớp là kẻ thù số 1 của khớp xương, trực tiếp phá hoại tuổi đời.
- Vận động cơ bắp: Tập thể dục còn làm gia tăng sức mạnh và sự dẻo dai bền bĩ cho bắp thịt, góp phần giúp xương cứng chắc, giảm nguy cơ mắc bệnh viêm xương khớp (osteoarthritis).
- Vận động tim mạch: năng tập thể dục là một trong những phương pháp tự nhiên và an toàn nhất đưa tới kết quả vừa hạ huyết áp vừa thúc đẩy lượng máu cung ứng cho các cơ quan ở xa được đầy đủ hơn, giúp ngăn ngừa cả hai nguy cơ chết người gồm bệnh tim mạch và chứng đột quỵ (stroke). Hãy ghi nhớ, thời gian mới bắt đầu tập thể dục, nhịp tim thường đập nhanh từ 72-76 lần/phút. Một tháng sau giảm còn 54 lần/phút. Nhịp tim đập càng chậm, sức khoẻ càng vẫn, tuổi thọ càng cao. Bài thuốc quý không mất tiền mua.
Đi đôi với thói quen ăn uống đúng cách, tập thể dục còn giúp giảm trọng lượng, tránh bệnh béo phì (obesity). Tại các nước công nghiệp, bệnh nầy đã gieo rắc nhiều bệnh tật và giết rất nhiều người. Khi tập thể dục thường xuyên, tốc độ chuyển hoá trong cơ thể sẽ gia tăng với kết quả sẽ đốt nhiều nhiệt lượng hơn lúc ngồi không. Điểm hữu ích nữa là giúp hạ thấp mức mỡ xấu (low-density lipoproteins, bad cholesterol-LDL) đồng thời nâng cao mức mỡ tốt (high-density lipoproteins, good cholesterol-HDL). Bộ môn thể dục aerobic đặc biệt có khả năng chống lại các bệnh về tim mạch, giúp cải thiện hệ thống hô hấp, hệ thống tiêu hoá, cơ bụng, cơ lưng, nhất là đau vùng thắt lưng (lower back pain). Tập thể dục vừa lợi ích cho cơ thể vừa lợi ích cho tinh thần, giúp giảm căng thẳng thần kinh (stress), trạng thái thất vọng chán đời (anxiety) và bao gồm cả triệu chứng sợ hãi hoặc khóc cười vô cớ.
Theo tạp chí “Journal of the American Medical Association” Hoa Kỳ nhận xét, nếu biết ứng dụng phương pháp tập thể dục thích hợp, nhẹ nhàng vừa sức như đi bộ hay cởi xe đạp hoặc bơi lội chẳng hạn, có thể đạt được nhu cầu trong vòng 10 tuần lễ một cách dễ dàng. Tất nhiên, bạn hãy tiếp tục tập luyện những bộ môn thể dục thể thao mà bạn yêu thích, không cần thay đổi nếu xét thấy vẫn còn hữu dụng.
Chọn cách luyện tập nào đây? Không nhất thiết phải tìm một dụng cụ rồi mới sản xuất được sức khoẻ. Nhưng đã coi như nhu cầu thì hãy chịu khó nhìn vào các cửa hàng bán dụng cụ thể dục thể thao gần nơi bạn ở, tìm và chọn một loại dụng cụ nào đó mà bạn ưng ý nhất rồi tập thử ít nhất 20 phút và mỗi tuần 3 lần. Nếu cảm giác thích thú vẫn còn song song với một vài chỉ đấu về tình trạng sức khoẻ có chiều hướng gia tăng so với thời gian trước khi tập thì còn ngần ngại gì mà không quyết định theo đuổi dứt khoát. Bí quyết không ở chỗ chọn lựa bộ môn nào, dụng cụ nào, mà chính là tính kiên định (consistency).
Nếu bạn chọn đi bộ, một môn đơn giản nhất, với ước định ban đầu đi 1-2-3-4-5 miles mỗi ngày nhưng tiến hành được vài hôm rồi ngưng nghỉ cả tháng thì chẳng có một kết quả gì. Bình thường, đi bộ mỗi lần từ 20-30 phút và ít nhất 3 lần/tuần, nếu tăng lên được 5-6 lần/tuần thì chắc chắn tốt hơn nhiều. Nhỡ không mang theo đồng hồ thì làm thế nào để biết đi bộ đủ giờ? Bạn có thể đếm bước đi, tổng cộng khoảng 2500-3000 bước là đạt yêu cầu qui định. Thời gian tập thể dục hay đi bộ tốt nhất trong ngày là vào buổi sáng sớm ngay khi thời tiết còn mát dịu, không khí còn trong lành, khói bụi ô nhiễm còn chưa dấy lên trên bầu trời.
Cũng đừng quên một số bộ môn xem ra không có vẻ gì là thể dục thể thao, như y võ dưỡng sinh (tai chi), khí công (qi gong), yoga đều góp phần rất lớn cho cơ thể. Nếu biết tập luyện đúng cách thì đích thực là những phương pháp thể dục siêu đẳng, được nghiệm chứng từ hằng nghìn năm qua.
6. Nghỉ ngơi (Rest, Sleep).
Nghỉ ngơi bao gồm cả hai trạng thái tĩnh: nghỉ (rest) và ngủ (sleep). Người Việt Nam có câu: “Ăn được ngủ được là tiên”, còn người Mỹ nói: “The greatest remedy for being tired is sleeping” (món thuốc tuyệt diệu nhất để trị mệt mỏi là ngủ) cho thấy vấn đề ngủ, nghỉ quan trọng đến dường nào. Nhưng nghỉ, ngủ cũng phải học, phải tập và ứng dụng đúng phương pháp mới đạt được nhiều lợi ích.
Trong một đời người, chúng ta tiêu pha hết 1/3 cuộc sống để đầu tư vào giấc ngủ. Ví dụ tuổi thọ 90 năm, thời gian ngủ chiếm đến 30 năm. Tuy nhiên, đây là cuộc đầu tư cần thiết, rất có lợi. Giấc ngủ ngon là loại thuốc “cải lão hoàn đồng” quý báu nhất giúp cho các cơ, thần kinh và não được phục hồi, tươi trẻ trở lại. Nếu thiếu ngủ hay mất ngủ, sức khoẻ và sinh mạng sẽ bị đe doạ. Nhờ giấc ngủ ngon, cơ thể có cơ hội phục hoạt các mô, tế bào suy yếu, làm cho chúng tươi tỉnh và trẻ khoẻ trở lại.
Các nhà y học từng khuyên chúng ta chăm non sức khoẻ như chăm non trẻ sơ sinh. Do cấu tạo phức tạp và dễ hỏng hóc, sự buông thả hay lạm dụng sức khoẻ đồng nghĩa với sự tự huỷ diệt, tự sát.
Trên đây là một số thông tin y học căn bản nhằm giúp con người bảo vệ cuộc sống, kiện toàn thể lực và trí lực, làm chậm tiến trình lão hoá cơ thể theo quy luật tự nhiên gồm 4 bước gọi là tiến trình sinh vật học: Sinh, Trưởng, Thu, Tàng. Bí quyết mở cánh cửa trường thọ không có chìa khoá nào khác ngoài chìa khoá học tập và rèn luyện thân tâm một cách khoa học nhằm nâng cao sức khoẻ. Sống mà thiếu sức khoẻ thì không có hạnh phúc và cũng không chắc bảo hộ được khoảng chiều dài sinh mệnh trăm năm mà thượng đế ban cho.
Y học cổ truyền và Y học hiện đại đều có những phương dược sở trường, cống hiến vô ngã, vô điều kiện. Học thuyết tuy có chỗ dị biệt nhưng không dị đồng, bởi vì mục tiêu và y thuật hoàn toàn hướng tới mục tiêu: phục vụ sức khoẻ, vì sức khoẻ. Nếu căn nhà y học ví như ngôi kim tự tháp hùng vĩ thì y thuật Đông-Tây là cấu trúc của các khối đá xây quanh 4 mặt tháp, càng lên cao càng thu hẹp khoảng cách và cuối cùng đồng qui tại đỉnh tháp. Y lý Đông Phương gọi điểm đồng qui nầy là “Y Đạo”.
CƠ THỂ HỌC
(Human Body)
Cơ thể học là môn khoa học nghiên cứu về cấu trúc và chức năng từng cơ quan của sinh vật, trong đó có cơ thể con người. Nhờ hiểu biết cơ thể học, Bác sĩ và các chuyên viên y học hiện đại chẩn đoán và điều trị bệnh rất chính xác, kịp thời. Riêng Đông y học, tuy có “Tứ chẩn” (Vọng, Văn, Vấn, Thiết) và học thuyết “Tạng tượng” (Lục phủ, Ngũ tạng) là hai phương pháp chẩn bệnh cổ truyền độc đáo nhưng khó truyền đạt vì thiếu phần chứng minh cụ thể. Các thầy thuốc y học cổ truyền, nếu như được trang bị thêm kiến thức về cơ thể học, chắc chắn khả năng nghề nghiệp sẽ tiến bộ gấp bội.
Cơ thể con người được cấu tạo bởi hằng tỷ tỷ tế bào (cells) hợp thành gọi là mô (tissues). Mô gồm có 4 nhóm chính:
Biểu mô (Epithelial tisssue, epithelium):
Gĩư vai trò che phủ như tạo ra da, làm lớp đệm nhhư tạo chất nhầy, bảo vệ chống lại tác nhân độc hại gồm vi khuẩn, hoá chất; thu hút như hấp thụ thực phẩm qua dạ dày, ruột non; gan lọc như lọc nứoc tiểu ở thận, tiết dịch như xuất mồ hôi, tiết xuất chất nhờn.
Mô liên kết (Connective tissue):
Gĩư nhiệm vụ cung cấp máu, kiến tạo gân, sụn, mạch máu, xương, kết hợp với các mô và cơ quan khác.
Mô thần kinh (Nervous tissue):
Gĩư vai trò tiếp nhận tin tức, phân tích dữ kiện và điều khiển sinh lực hoạt động. Mô thần kinh trải rộng khắp cơ thể, thu thập thông tin từ môi trường bên ngoài lẫn trạng thái xảy ra bên trong cơ thể, phân tích rồi truyền đạt mệnh lệnh bằng những luồng phản xạ thích ứng tới vị trí báo tín.
Mô thần kinh gômg có hai loại tế bào căn bản. Tế bào thần kinh (neurons) và tế bào thần kinh đệm (glial cells, supporting cells).
Mô cơ (Muscle tissue):
Được cấu tạo bằng những tế bào hình sợi, có tính dẫn truyền và co giãn tự động để thích ứng với từng vị trí, cơ quan. Mô có 3 loại căn bản:
Cơ xương (Skeletal muscle),hình sọc, kiểm soát những động tác thiếu tự chủ, phản ứng nhanh.
Cơ trơn (Smooth muscle), gồm có hệ thống bắp thịt của tất cả cơ quan nội tạng, kích động phản ứng chậm và kiểm soát hành động vô thức.
Cơ tim (Cardiac muscle), có hình sọc như cơ xương nhưng không phản ứng nhanh như cơ xương và vẫn tiếp tục co giãn nếu thiếu sự kích thích của thần kinh hệ. Đặc biệt, cơ tim chỉ hiện diện tại tim mà thôi.
HỆ THỐNG CƠ THỂ (The Body Systems)
Tuỳ theo chức năng và nhiệm vụ, toàn bộ cấu trúc cơ thể con người được phân thành 11 hệ thống chính:
1. Hệ thống che phủ - da (Skin system)
2. Hệ thống xương, khớp (Skeletal system).
3. Hệ thống cơ bắp (Muscular system)
4. Hệ thống tuần hoàn (Cardiovascular system)
5. Hệ thống thần kinh (Nervous system)
6. Hệ thống nội tiết (Endocrine system)
7. Hệ thống bài tiết (Urinary system)
8. Hệ thống hô hấp (Respiratory system)
9. Hệ thống sinh dục (Reproductive system)
10.Hệ thống tiêu hoá (Digestive system)
11.Hệ thống miễn nhiễm (Lymphatic system Immunity)
Mỗi hệ thống tuy cấu trúc, chức năng chuyên biệt nhưng chúng phối hợp hoạt động hết sức nhịp nhàng, ăn khớp với nhau như những cơ phận trong chiếc đồng hồ vĩ đại. Tập sách nầy sẽ lần lượt phân tích từng hệ thống một, kèm theo nhiều chứng bệnh thường gặp cùng phương pháp điều trị bằng Đông dược.
Bài đọc thêm
CON NGƯỜI VÀ THAM VỌNG
TRƯỜNG SINH BẤT HOẠI
Hiện nay trên thị trường thuốc men, ngoài viên Viagra được mệnh danh là “thần tình yêu” dành cho nam giới có “vấn đề” về tính dục, trong chỗ riêng tư người ta nhỏ to bàn tán về những thứ thuốc “cải lão hoàn đồng” đang được quảng bá rầm rộ trên mạng lưới internet toàn cầu. Ngoài ra, theo bước chân các đoàn du lịch tới Trung Quốc, nhiều du khách được giới thiệu một thứ sản phẩm chứa đầy ma lực là thuốc “trường sinh bất hoại” với giá cắt cổ nhưng không rõ hư thực ra sao. Câu hỏi đặt ra:
Có loại thực phẩm hoặc linh dược nào có năng lực giúp con người sống trường thọ, tức là giúp sống “trẻ mãi không già”, “trường sinh bất lão” hay không?
Đây là câu hỏi đáng đồng tiền bát gạo cần phải trả lời thẳng thắn, đúng mức. Trước khi nói đến “thuốc tiên” và thuật “trường sing bất lão hay bất hoại”, xin kể ra đây 3 điển tích để cùng suy ngẫm:
Chuyện thứ nhất:
Đọc bộ truyện “Tây Du Diễn Nghĩa”, không ai không nhớ đến những hành vi quỉ quái, coi trời bằng vung của Tề Thiên Đại Thánh, tức con khỉ chúa ở động Thuỷ Liêm. Trong lúc cao hứng náo loạn thiên cung, Tề Thiên bị Thái Thượng Lão Quân bắt nhốt vào lò Bát quái vốn là lò luyện linh đơn tức nồi chế thuốc trường sinh. Vô tình tìm thấy mấy mươi hoàn linh đơn đựng trong cái lọ càn khôn, Tề Thiên khoái trá trút vào mồm nuốt hết không chừa một viên nào. Nhờ uống được thuốc “trường sinh bất tử, kim thân bất hoại”, cho dù bị Thái Thượng Lão Quân dùng lửa Tam muội thiêu xác Tề Thiên nhưng con khỉ chúa vẫn sống phây phây và còn dùng cường lực siêu nhiên “đão hải di sơn” lật nhào lò Bát Quái chỏng gọng. Lửa trong lò tràn ra trút xuống trần gian và biến thành các ngọn hoả diệm sơn ngày đêm sôi sùng sục, phun xuất thạch tuôn chảy đỏ lòm mà hiện nay chúng ta đang thấy đấy.
Xét về mặt lịch sử “Tây Du Ký” là một bộ sách thuộc loại ký sự, có thật, tường thuật chuyện Pháp sư Trần Huyền Trang sống vào thời Nhà Đường bên Tàu, du hành sang Ấn Độ học Phật đạo và thỉnh được 3 bộ kinh (Tam Tạng Kinh) đưa về Trung Hoa. Riêng chuyện Tề Thiên Đại Thánh nuốt linh đơn và được “trường sinh bất hoại” chỉ là chuyện hư cấu, giả tưởng mang tính triết học, không có thật.
Kết luận: một chuyện giả tưởng thì làm gì có thứ linh đơn thiệt hay thuốc “trường sinh bất hoại” thiệt bao giờ.
Chuyện thứ hai:
Đọc truyện Tàu, không ai không biết Tần Thuỷ Hoàng Đế là một trong những ông vua được xếp vào loại độc ác, dã man nhất ở Trung Hoa thời phong kiến. Ngoài việc ra lệnh tiêu huỷ hằng núi sách, chôn sống học trò, Tần Thuỷ Hoàng Đế còn ban chiếu xây dựng Vạn Lý Trường Thành, một loại chiến luỹ kiên cố dài hằng nghìn dặm, bất chấp núi non, vực sâu, giết hại hằng triệu người bị bắt làm nô dịch chỉ vì tham vọng muốn ngăn chặn vó ngựa rợ Hung Nô quấy nhiễu Trung Nguyên. Có một điều quái đản mà ít người biết tới là Tần Thuỷ Hoàng Đế muốn sống thọ, vô bệnh, trẻ mãi không già để tận hưởng lạc thú, đã ban chiếu chỉ khắp nơi chiêu dụng các thầy thuốc giỏi, tìm kiếm thuốc trường sinh, luyện linh đơn để tăng cường tinh lực, baot trọng hình hài. Thậm chí Tần Thuỷ Hoàng Đế còn treo giải thưởng, hễ ai có pháp thuật giúp vua “nhất dạ bách giao xử nữ”, nghĩa là 1 đêm đủ sức giao hợp với 100 cô gái còn trinh tiết, mà không hề mệt mỏi sẽ được trọng thưởng một khối vàng ròng bằng chiều cao cô gái thứ 100. Còn ai có thuốc trường sinh dâng lên mà công hiệu như thần sẽ được chia 3 thiên hạ. Trái lại, kẻ nào gian trá cung cấp hàng “dỏm” hàng “giả” tất phải bị xử tru di tam tộc. Thông cáo đã truyền rao suốt nhiều năm mà không có ai tới hoàng cung hiến kế hay dâng lên thuốc trường sinh. Không phải thần dân sợ bị “tru di tam tộc” mà chính vì không bao giờ có loại thuốc nào gọi là thuốc “trường sinh bất lão” cả. Cuối cùng, Tần Thuỷ Hoàng Đế với uy quyền tột đỉnh, tiền bạc muôn kho, vẫn lăn ra chết như bao kẻ phàm phu tục tử khác.
Chuyện thứ ba:
Trong quyển sách thuộc loại thiền sử Trung Hoa, ấn bản bằng Tiếng Việt, ở chương chứng nghiệm có miêu tả trường hợp một vị thiền sư nhân khi đi hoằng pháp đã phải chui vào một hang đá hoang vu để lánh nạn động đất. Vị sư nầy ngồi thiền định, không còn quan tâm gì tới chuyện xáo trộn bên ngoài, giữa lúc cuộc cấp cứu tìm kiếm người mất tích đã trở nên tuyệt vọng. Vị sư được ghi nhận là nạn nhân chết vì nạn động đất vào lúc 50 tuổi.
Thời gian cứ trôi qua. Bỗng một ngày kia, vị thiền sư bừng mắt dậy, ra khỏi hang động, tìm về mái chùa xưa thì…hởi ôi, cảnh trí hoàn toàn thay đổi, thầy bạn cũ không còn một ai hết. Tất cả đã quá vãng. Các tăng chúng hiện diện trong chùa đều là hoắc. Hỏi ra mới biết họ thuộc thế hệ thứ 3 kể từ khi vị thiền sư vắng mặt. Tính theo lịch, câu chuyện động đất thưỏ trước đã xảy ra cách đây khoảng 150 năm. Thầy thuật lại câu chuyện trốn trong động đá rất thật nhưng chẳng ai tin. Rõ ràng là chuyện tiểu thuyết, khó nghe, bởi vì xác thân của thầy vẫn tồn tại, chẳng hề thay đổi chút nào. Cả làng đều bảo là thầy chùa điên. Thầy thuốc thì chẩn đoán thầy bị mất trí. Nhiều chú tiểu trong chùa gọi là lão sư vọng ngữ, nói láo. Đúng hay sai? Trả lời thế nào khi mà xác thân, sau 150 năm, vẫn thế? Thầy than: Ta 200 tuổi mà vẫn trẻ trung như vầy, liệu có ai tin không, có bình thường không? Không một ai đồng cảm, vậy sống phỏng có ích gì.
Cuối cùng, vị thiền sư quyết định quay trở lại hang động cũ, tiếp tục ngồi thiền định và viên tịch.
Qua 3 câu chuyện vừa kể đủ cho ta có lý do để kết luận: Thực tế, không có thuốc trường sinh và dù có bất tử cũng không thể sống hoà hợp với các thế hệ hậu sinh. Tuy nhiên, thực tế xưa nay có một số chất có khả năng tích tuổi, còn gọi là chất “bảo thọ”.
Theo thuật ngữ, chất bảo thọ (geroprotectors) bao gồm cả thực phẩm, dược phẩm hoặc phương pháp điều trị có tác dụng nâng cao sức khoẻ, tạo tối ưu hoá các hoạt động của hệ thần kinh, nội tiết, miến dịch, tổng hợp protein, hệ men trong cơ thể…giúp gia tăng tuổi thọ. Đây là chuyện có thật, thực hiện được, nhưng hoàn toàn không liên quan gì tới loại “thuốc trường sinh” hay “thuốc cải lão hoàn đồng”.
Phải hiểu rằng tuổi thọ là kết quả cuối cùng của tiến trình tích tuổi. Tất nhiên, nó còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: yếu tố bẩm sinh, yếu tố di truyền, môi trường, năng động hay thụ động và cả yếu tố thay đổi bản thân trong chiều hướng tích cực. Bởi vậy, không có thuốc tiên, thuốc thánh nào cứu được một người suốt đời tìm cách huỷ hoại sưc skhoẻ của mình và cúng không có một chất bảo thọ duy nhất nào đáp ứng được tất cả yêu cầu của mọi người hay bao trùm hết tất cả hạng tuổi. Hơn nữa, chất bảo thọ có tác dụng tốt nhất khi được sử dụng theo phương án dự phòng và cho lớp người còn trẻ nhờ phát huy tình trạng lão hoá trước khi nó xảy ra. Sau đây xin giới thiệu một vài chất bảo thọ cổ điển:
1.Các chất tăng khả năng thích nghi:
Gồm một nhóm dược chất có hoạt tính sinh học, đứng đầu là nhân sâm (panax ginseng). Nhiều cuộc khảo sát ghi nhận Nhân sâm có năng lực gia tăng khả năng thích nghi và sức đề kháng.
Mặt khác, các nhà lão học Trung Quốc và Nga còn dùng một loại vỏ cây có mùi thơm như quế và trầm hương tên là Ngũ gia bì (eleutherococcus senticosus), ngâm rượu uống ngày 2 lần, mỗi lần một chung nhỏ khoảng nửa giờ trước bữa ăn. Ngũ gia bì có công năng làm mạnh gân cốt, chữa các chứng đau lưng, đau xương, trị trẻ em mắc chứng “ngũ trì ngũ nhuyễn”, tức là 5 chứng chậm, 5 chứng yếu gồm: chậm biết nói, chậm biết đi hoặc bị dị tật bẩm sinh, hậu chứng do bệnh sốt tê liệt…
Chất sinh động tố (biostimulines), trong đó đứng đầu là Filatov, một sản phẩm dạng nhũ tương, được chiết xuất từ nhau thai của những sản phụ lành mạnh mà chúng ta thường gọi là phương pháp “cấy nhau” đã từng phổ biến rầm rộ tại Việt Nam từ những năm 1950-1960. Một kiểu khác nữa của Filatov là bột khô, mang tên “thai bàn”, “thai y” hay “tử hà xa”, bằng phương pháp thu hồi rau thai, loại bỏ tạp chất, tẩy sơ bằng nước muối rồi đem sấy khô mà dùng dần. Người đời thượng cổ còn dùng “tử hà xa” để ngâm rượu uống, ngâm với mật ong, thậm chí còn làm món chả nướng hay băm nhỏ trộn với trứng gia cầm để ăn hằng ngày.
Khi nghiên cứu, các nhà tích tuổi học tìm thấy trong nhau thai có chứa một chất protein đặc biệt gồm 8 phân tử N-axetyl d-glucosamine, 6 phân tử galactoza và 6 phân tử manoza, các hormone hay nội tiết tó chorionic gonadotropin, kích noãn tố F.S.H (follciculin stimulating hormone) và nội tiết tố oertradiol.
- Thực tế lâm sàng chứng minh nhau thai là một vị thuốc đại bổ, cực quý, vừa bổ khí, bổ huyết, vừa ích tinh tuỷ; dùng trị các bệnh suy nhược do tuổi già, gầy ốm, ho suyễn, chứng di mộng tinh ở nam giới, đau nhức trong xương, ăn ngủ kém. Người Trung Hoa có bài thuốc cổ rất nổi tiếng tên “Hà xa đại tạo hoàn” dùng để bổ âm huyết cực kỳ hiệu nghiệm, giúp tai mắt thêm sáng tỏ, râu tóc bạc hoá đen trở lại, sống lâu khoẻ mạnh, có trường hợp thở thoi thóp gần chết uống vào vài liều liền cứu tử hồi sinh. Bài thuốc gồm có các vị như sau:
Tử hà xa 01 cái
Qui bản 80g
Hoàng bá 60g
Xuyên đỗ trọng 60g
Hoài ngưu tất 48g
Sinh địa 100g
Sa nhân nhục 24g
Bạch phục linh 80g
Thiên môn 48g
Mạch môn 48g
Nhân sâm 48g
Ghi chú:Nếu bệnh nhân là phụ nữ hãy bỏ vị Qui bản, đổi thành Đương Qui 80g.
- Bài nầy sau khi sao chế, có thể ngâm rượu hoặc sáy giòn rồi xay thành bột mịn, luyện với mật ong làm tể, ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn nặng 12g.
Vài thập niên gần đây, các nhà sinh dưỡng học và tích tuổi học thế giới có đưa ra giải pháp chống lão suy và lão hoá bằng cách sử dụng các chất mang đặc tính chống oxyt- hoá (anti-oxidant), trong nhóm nầy gồm có vitamin E, vitamin P và U. Các nhà nghiên cứu cho rằng gốc tự do (free radical) là một trong những thủ phạm gây ra lão hoá. Có nghĩa lão hoá là hâụ quả tổng hợp của tất cả các thương tổn xuất hiện, phát triển trong các tế bào, tổ chức, cơ quan, hệ thống, do mất quân bình tỷ lệ anti-oxydant nội sinh. Nên nhớ rằng gốc tự do là đầu mối gây ra bệnh ung thư, chứng nhiễm mỡ xơ mạch, bệnh tiểu đường, bệnh viêm răng lợi kinh niên. Khi đưa chất chống oxy-hoá vào cơ thể với liều lượng hợp lý, chúng sẽ phát huy tác dụng sinh học nhầm bảo vệ các lipid, làm gia tăng sự chịu đựng của màng tế bào, hãm bớt đà gia tăng trữ lượng acid béo, cholesterol trong máu và nội tạng, tăng sức đề kháng. Đây là lợi ích dẫn tới việc tăng tuổi thọ. Theo thống kê, tuổi thọ của người Nhật trung bình là 65-70 tuổi và con số nầy ngày càng có khuynh hướng tăng cao nữa. Người Mỹ, Pháp, Hà Lan, Thuỵ Sĩ cũng cao. Con số người già hiện nay ở Hoa Kỳ tăng khá mạnh dẫn tới tình trạng lão hoá cả nước, khiến cho Bộ An Sinh Xã Hội phải tính tới chuyện tăng tuổi về hưu và cúp bớt tiền hưu bổng.
Để kết thúc, một lần nửa khẳng định: tất cả chúng ta rồi sẽ chết, chỉ nhanh hay chậm mà thôi. Bởi vì nó là 1 trong 4 qui luật tự nhiên “sinh, lão, bệnh, tử”. Ngoại trừ qui luật đầu tiện là “sinh”, không nhất thiết các qui luật sau phải tuần tự nhi tiến, có thể sinh ra là chết ngay mà không cần chờ tới giai đoạn “lão” hoặc sinh ra bị bệnh và chết trước thời kỳ “lão”. Cái gì xảy ra và sẽ diễn ra, con người không có khả năng khắc chế, chỉ có thể làm chậm lại ít nhiều thời gian tồn tại mà thôi. Vậy thì, trong khi chờ đợi tử thần, có 2 điều cần thực hiện hằng ngày:
Bỏ hẳn ý định đi tìm thuốc trường sinh. Ngày nào còn có ý định hay đi tìm thuốc trường sinh thì ngày đó có nguy cơ già sớm và chết sớm.
Cố gắng bảo dưỡng sức khoẻ theo phương pháp “ẩm thực hữu tiết, bất vọng tác lao”, nghĩa là ăn uống điều độ, hợp vệ sinh, giữ cho tinh thần luôn được thảnh thơi, nhàn hạ. Đây là chìa khoá, là thứ thuốc chống lão suy hiệu nghiệm nhất.
Kết luận:con người quý hơn cỏ cây ở chỗ có tư duy, biết suy tính lợi hại để làm thăng hoa cho cuộc sống, có ích cho xã hội, có lợi cho dân tộc. Nếu không, con người là một sinh vật vô bổ nhất. Tại sao vừa mới tắt thở người ta gọi là “ma”, không ai dám tới gần, ôm hôn, liền bị đem moi ruột, ướp lạnh và nhanh chóng đem dìm xuống đất sâu hay thiêu xác thành tro bụi? Bởi vì, cỏ cây khi chết còn có thể làm phân bón cho đồng loại, riêng con người chỉ gây ô nhiễm môi trường, thối nhà thối đất chứ chẳng được tích sự gì. Điều còn lại duy nhất là giá trị tâm linh, tinh thần. Chỉ hơn kém nhau ở chỗ đó mà thôi!
CHƯƠNG 1
DA
(Skin)
TỔNG QUÁT
Da là một cơ quan bài tiết vĩ đại. Mỗi ngày da có thể thải ra chừng nửa lít nước ở dạng mồ hôi. Tuy nhiên, da cũng giữ nước, không cho cơ thể bị cạn kiệt chất dịch.
Da cũng còn là cơ quan hấp thu, có năng lực thu hút dưỡng khí (oxygen), các sinh tố (vitamins), chất khoáng (minerals) và chất đạm (proteins); đồng thời cũng hấp thu cả những chất có hại như chất độc (toxic) qua môi trường nước và không khí đưa vào bên trong nội tạng.
Da giữ vai trò che phủ và bảo vệ mặt ngoài cơ thể.
Da có khả năng tự sửa chữa làm lành những vết thương nhỏ, tự điều chỉnh khi bị rối loạn.
Da còn giữ nhiệm vụ cân bằng nhiệt độ cơ thể sao cho thích ứng với mọi thay đổi đột ngột. Vì vậy, da có tính nhạy cảm và co giãn tự động.
I. CẤU TRÚC DA (Structure of the skin):
Da được xếp thành 2 lớp chính:
Lớp da bên ngoài, còn gọi là ngoại bì hay biểu bì (epidermis), là loại biểu mô hình vảy cá, xếp thành tầng, chồng lên nhau.
Lớp da bên trong, còn gọi là nội bì hay chân bì (dermis), gồm có mô sợi và mô đàn hồi. Lớp chân bì có nhiều mạch máu, dây thần kinh, nang lông và tuyến mồ hôi xuyên qua.
Riêng dưới chân bì là lớp hạ bì (hypodermis), thực chất là mô mỡ (adipose tissue) nên không được coi như thành phần của da.
II. MÀU DA (Skin Color)
Da con người tuỳ thuộc vào chủng tộc và địa lý, cho nên mang nhiều màu sắc khác nhau.
Có 3 sắc tố (pigments) góp phần vào việc tạo ra màu da gồm: màu vàng (yellow), màu nâu (brown) và màu đen (black).
Da có màu nhạt, sậm hay đen tuỳ thuộc vào chất hắc sắc tố (melanin) hiện diện trong cơ thể. Muốn phân biệt màu da, chúng ta dựa theo 2 yếu tố: chủng tộc (race) và sự tiếp cận ánh sáng mặt trời (exposure to sunlight). Tổng số melanin càng cao, sắc da càng sậm hoặc đen tuyền.
Tế bào melanocytes đóng vai trò sản xuất ra hắc sắc tố melanin.
Hắc sắc tố melanin có nhiệm vụ bảo vệ da chống lại các tác nhân gây hại bởi tia tử ngoại (ultraviolet rays) từ ánh nắng mặt trời bằng cách biến đổi màu da từ sáng nhạt ra sậm đen. Nắng càng gay gắt da càng sậm hơn, đen hơn. Dân tộc Phi Châu có nước da đen chính vì tác động cực đại của hắc sắc tố melanin.
Đặc biệt, khi hắc sắc tố melanin sản sinh quá độ, có thể gây rối loạn sắc tố làm mất vẻ thẩm mỹ. Chúng ta thấy nhiều khu vực dân cư mà da của họ có màu trắng lốm đốm gọi là bạch biến (nevus) hoặc những chấm tròn nho nhỏ màu đen gọi là tàng nhang (freckles) hay nốt ruồi (moles) là hệ quả của sự biến đổi quá mức hắc sắc tố melanin.
Sau đây xin giới thiệu một số bệnh ngoài da thường gặp cùng những phương pháp điều trị có hiệu quả của Đông y qua nhiều thời đại.
BỆNH NGOÀI DA (Skin diseases)
Trên khắp mặt da có chừng 3000000 tụ điểm thần kinh với khoảng 700 giao điểm (nodes) chính. Do đó, da rất nhạy cảm và dễ bị rối loạn. Da bị tổn thương, hư hoại do nhiều tác nhân (causes):
Do nhiệt hay nóng (thermal burns). Đây là dạng thường gặp nhất, gồm có: bỏng da do ánh nắng mặt trời, lửa cháy, rách dập da do tai nạn xe cộ, bỏng nước sôi, vật bén nhọn xâm phạm.
Do hoá chất (chemical burns), do ăn uống, do hít thở hoặc xông hơi, hút vào bằng miệng (hút thuốc, hút xăng), phun xịt chất acid, hơi độc.
Do điện (electrical burns), thường xảy ra do bất cẩn, va chạm vào dây điện trần hoặc dây điện bị đứt trong lúc có dòng điện dẫn truyền.
Do vi trùng (viruses), vi khuẩn (bacteria), ký sinh trùng (parasites) xâm nhập, do nấm (fungi), do côn trùng (insects) hoặc cầm thú cắn.
Ngoài ra, da cũng có thể tạo ra u bướu (tumors), phản ứng do rối loạn nội tạng.
BỎNG – PHỎNG (Burns)
PHÂN LOẠI:
Bỏng có 4 cấp độ nặng nhẹ khác nhau
Bỏng cấp độ 1:
Chỉ ảnh hưởng đến ngoại bì (epidermis) tức ở lớp da bên ngoài nhẹ. Tỷ lệ da bỏng chiếm trên dưới 10% tổng số da toàn thân.
Mặt da xuất hiện những đốm màu đỏ, có thể gây nóng rát hay xót.
Nguyên nhân thông thường do ánh nắng mặt trời làm cháy lớp ngoại bì.
Bỏng cấp đọ 2:
Phá huỷ toàn bộ ngoại bì và xâm lấn một phần nội bì (dermis). Tỷ lệ da bị hư hoại chiếm trên dưới 25% tổng số da toàn thân.
Mặt da phồng giộp, tế bào nằm dưới da bị tổn thương nhẹ, gây đau đớn.
Nguyên nhân do da tiếp xúc với lửa, nước sôi, hoá chất ở mức độ nhẹ, diện tích bị thương hẹp.
- Bỏng cấp độ 3:
Rất nghiêm trọng. Vết thương ăn sâu vào tới mạch máu, phá huỷ hết hệ thống thần kinh (nerves), còn gọi là bỏng hoàn toàn (full-thickness burn). Tỷ lệ da bị huỷ hoại cao hơn ¼ diện tích da toàn thân.
Da bị bóc ra, cháy đen hoặc ứa mỡ nhầy nhụa như sáp ong.
Ban đầu, bệnh nhân ít có cảm giác đau đớn vì thần kinh xúc giác bị tổn thương không thể truyền tới não nên mất hiệu ứng tạm thời. Tuy nhiên, hậu quả có thể gây tử vong hoặc để lại nhiều di chứng trầm trọng cho nạn nhân.
Bỏng cấp độ 4:
Độ sâu vết thương xuyên thấu tới cấu trúc của bắp thịt và xương. Tác hại giống như cấp độ 3 nhưng hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều.
ĐIỀU TRỊ:
Bỏng cấp độ 1 và 2:
Đắp Aloe (Aloe vera) tươi: Aloe, người Việt Nam thường gọi là cây nha đam, lô hội, long tu, tượng đảm, du thông, nhiều gia đình hay dùng nấu chè ăn cho mát. Tên đầy đủ là Aloe vera, tên khoa học Aloe, thuộc họ hành tỏi (Liliaceae). Aloe vera có nguồn gốc ở Châu Phi, xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng trên dưới 300 năm. Không rõ qua con đường nào, Aloe vera đã du nhập vào các nước Châu Âu, Châu Á; đặc biệt thấy ghi vào sách y học của Ai Cập (Egyptian) dùng để trị bệnh ngoài da vào năm 550 trước Công Nguyên, tức cách đây trên 2550 năm. Aloe vera có ít nhất 360 loài khác nhau. Trong phạm vi bài nầy chỉ đề cập đến cây Aloe vera ở Việt Nam và một vài loài thông dụng.
Lấy 1 bệ Aloe vera tươi, cắt ra làm nhiều khúc ngắn, gọt bỏ lớp vỏ xanh và lớp sáp màu vàng nhạt bên ngoài. Dùng dao bén xắt dọc bẹ Aloe ra thành từng miếng mỏng và đắp kín vết thương sau khi đã được rửa sạch, khử trùng chu đáo. Dùng miếng vải thưa (gauze) đặt lên miếng Aloe và băng dín lại. Mỗi ngày thay 3-4 lần cho đến khi lành bệnh.
Công dụng:Aloe tươi dùng chữa bỏng và một số loại thương tích khác rất hay, được lưu truyền từ thời cổ đại. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy chất gien (gel) chiết xuất từ nhựa lỏng của cây Aloe tươi có khả năng làm giảm tình trạng cháy da, bỏng da, kể cả bỏng do nguyên nhân dùng phóng xạ (radiation) để trị bệnh ung thư (cancer). Theo tiến sĩ James A. Duke, Hoa Kỳ, một cuộc nghiên cứu nhận thấy Aloe làm gia tăng lưu lượng máu tới khu vực tế bào bị bỏng, cung cấp nguồn kháng sinh tự nhiên để cơ thể chống nhiễm độc và giúp chóng lành vết thương.
Aloe còn chứa nhiều chất hữu ích, như enzymes, carboxypeptidase và bradykininase giúp làm dịu cơn đau, giảm bị nhiễm trùng và làm hạ thấp tình trạng đỏ da, phồng da.
Đắp Diệp sinh căn: Diệp sinh căn còn gọi là cây sống đời, cây trường sinh, đả bất tử, cây thuốc bỏng, tên khoa học Bryophyllum, thuộc họ thuốc bỏng Crassulaceae. Sở dĩ gọi cây trường sinh vì nó sống lưu niên dù thời tiết khắc nghiệt, đất khô cằn vẫn không chết. Còn gọi là Diệp sinh căn vì khi lá rụng thay vì chết khô, nó vẫn sống và đâm rễ mọc thành cây con.
Cách dùng:Hái nhiều lá Diệp sinh căn tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt bôi lên vết bỏng đã khử trùng sạch sẽ, ngoài băng thêm một lớp bông mịn. Nếu thấy khô da, nên tẩm thêm nước Diệp sinh căn tươi nhiều lần để giữ độ ẩm, vừa giảm cơn đau vừa giúp da chóng lành.
Tác dụng sinh-hoá: Diệp sinh căn tươi, nhờ hoạt chất bryophylin, có khả năng kháng khuẩn cao lại vừa mát da.
Đắp mỡ gà:
Mỡ gà tươi (raw chicken fat) có khả năng chữa lành vết thương do bỏng nước sôi từ cấp độ 1 đến cấp độ 3, tức ở mức độ nặng, nguy hiểm.
Trong quyển sách “The Nature Doctor”, Bác sĩ H.C.A Vogel, Hoa Kỳ, có ghi lại một phương thuốc thiên nhiên (natural remedy) trị bỏng nước sôi bằng mỡ gà rất kỳ diệu như sau: “Một phụ nữ gốc Thuỵ Sĩ, vì cố nhấc nồi nước sôi ra khỏi lò, đã mất đà và trợt té. Nguyên cả nồi nước ở độ sôi 100.F chụp lên người làm bỏng cả vùng ngực và cổ của bà. Bác Sĩ cho biết, tính mạng nạn nhân rất nguy lịch vì cấp độ bỏng lên tới cấp 3. Nhưng may thay, người chồng kịp nhớ ra mẹ ông ta đã có lần dùng mỡ gà tươi chửa lành cho nhiều người bị bỏng lửa, nước sôi quanh vùng. Ông liền giết gà lấy mỡ sống trải kín lên các vùng da của vợ vừa bị bỏng. Thật kỳ diệu! Bà vợ không hề cảm thấy đau đớn và chỉ vài hôm sau là vết thương lên da non, hồi phục dần dần cho đến khi lành hẳn rất đáng kinh ngạc”.
Thoa dầu St. John’s Wort: .Hoa St. John’s Wort (Hypericum perforatum) là một loại dược thảo quý ở Âu Châu, được sử dụng rộng rãi trong dân gian để chữa nhiều chứng bệnh nội thương, trong đó có chữa bỏng.
Hoa St. John’s Wort được chưng cất lấy tinh dầu. Dầu St. John’s Wort có khả năng kháng vi trùng (antiviral), chống oxyt-hoá (antioxidant), chống kích xúc (antiflammatory) và làm lành vết thương. Nhiều nhà khoa học ở Đức (Germany) nhìn nhận rằng dầu St. John’s Wort kích thích tế bào, giúp giảm đau, tái tạo nhanh chóng các mô bị huỷ hoại và làm lành chỗ bị bỏng.
Cách dùng:Xoa dầu St. John’s Wort lên vùng da bị bỏng nhiều lần tronng ngày. Uống thêm:
Vitamin A: 5000 IU và 15000 IU beta-carotene, ngày 2 lần.
Vitamin C: 1000mg, ngày 3 lần.
Zinc: 15mg, ngày 2 lần.
Dược thảo tổng hợp:
Bài “Sinh tân giải độc thang”.
Sinh địa 20g
Hạ khô thảo 12g
Kim ngân hoa 15g
Hoàng liên 03g
Miết giáp( nướng) 12g
Hoài sơn 10g
Huyền sâm 15g
Liên kiều 10g
Mạch môn đông 12g
Tri mẫu 10g
Xích thược 10g
Uất kim 10g
Thạch hộc 10g
Hoàng cầm 08g
Thiên hoa phấn 10g
Hoàng bá 08g
Mẫu đơn bì 10g
Thuỷ ngưu giác 05g
Sinh cam thảo 06g
Bồ công anh 20g
Cách dùng:sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 chén nước sắc cạn còn 8/10 chén, chia uống 2 lần, cách nhau khoảng 3-4 tiếng đồng hồ. Nước nhì, đổ 2 chén nước, sắc còn nửa chén, uống 1 lần. Nên uống lúc thuốc nguội hẳn, uống trước hoặc sau buổi ăn độ 30 phút. Nếu có dùng thuốc Tây, nên cách nhau khoảng 3-4 giờ.
Công dụng:Thanh nhiệt, giải độc, dưỡng âm sinh tân dịch, chống sốt, ngừa nung mủ, điều hoà khí huyết, giúp vết thương chóng lành.
Bỏng cấp độ 3 và 4:
Cần đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu, không nên tự chữa trị. Vì lý do cả 2 lớp ngoại bì và nội bì đều bị hư hoại làm ảnh hưởng đến các tế bào, cơ bắp và xương bên trong.
Chỉ có bác sĩ chuyên khoa mới có đủ khả năng và phương tiện trị liệu.
VIÊM DA DỊ ỨNG (Atopic Dermatitis)
Viêm da dị ứng (Atopic Dermatitis) bao gồm nhiều loại bệnh ngoài da, có đặc điểm chung là mặt da bị viêm tấy (inflammation) và ngứa dữ dội (intense itching). Mặc dù viêm da dị ứng có thể bộc phát ở mọi lứa tuổi, nhưng dễ xảy ra ở trẻ sơ sinh tới 10 tháng tuổi. Sau đó, theo thời gian, bệnh tự động giảm dần cường độ khi tới tuổi trưởng thành.
Nguyên nhân:
Thường không biết rõ nguyên nhân.
Dùng thực phẩm không thích hợp.
Tiếp xúc với hoá chất, kim loại.
Ảnh hưởng bởi nhiệt độ, độ ẩm.
Bị nhiễm trùng (infections).
Do cảm xúc, căng thẳng thần kinh (stress).
Triệu chứng và dấu hiệu:
Mặt da nổi sần lên (inflamed skin), ửng đỏ.
Da rất khô hoặc tiết ra chất nhờn (seborrheic dermatitis).
Da trở nên dày, phủ một lớp vảy (scaly) trên mặt.
Cảm giác ngứa dữ dội.
Chẩn đoán:
Theo y học hiện đại:
Có nhiều học thuyết:
Một vài học thuyết cố gắn chứng minh về căn nguyên gây ra viêm da dị ứng nhưng vẫn chưa hiểu rõ tại sao.
Một học thuyết lý luận rằng do hệ thống miễn nhiễm (immune system) suy yếu, chức năng limphô bào T (lymphocyte T-cell) làm việc kém hiệu quả trong việc cân bằng mức độ globulin huyết thanh miễn dịch (immune serum globulin).
Nhiều cuộc trắc nghiệm cho thấy, người bị viêm da dị ứng thường đi kèm một số bệnh dị ứng như sổ mũi theo mùa (hay fever), hen phế quản (bronchial asthma), viêm mũi dị ứng (allergic rhinitis), nổi mày đay (urticaria) hoặc trong gia đình có người thân đã mắc căn bệnh nói trên.
Do dị ứng một số thực phẩm, hoá chất, thuốc kháng histamines.
Do thiếu một số Vitamins, minerals trong cơ thể.
Theo đông y học:
Đông y chẩn đoán các bệnh ngoài da dựa theo dấu hiệu:
Da đỏ, nóng rát, thường do nhiệt gây ra. Pháp trị gồm thuốc thanh nhiệt.
Ngứa dữ dội, thường do phong tác động. Pháp trị gồm thuốc khu phong.
Sưng phù, chảy nước vàng, thường do thấp kết hựop với nhiệt gây ra. Pháp trị gồm thuốc thanh nhiệt táo thấp và thanh nhiệt lợi thấp phối hợp.
Da khô, đóng vảy, thường do huyết táo gây ra. Pháp trị gồm thuốc dưỡng huyết, nhuận táo.
Phát ban chẩn, nổi quầng đỏ, tụ huyết dưới da, thường do huyết ứ sinh ra. Pháp trị gồm thuốc hoạt huyết khử ứ.
Vừa ngứa, sưng đau, vừa tích tụ nước hay chảy nước vàng là do phong, thấp nhiệt, ứ huyết kết hợp lại mà thành. Pháp trị gồm phương dược hỗn hợp nhằm đạt 3 tác dụng: “Khu phong, thanh nhiệt và hoạt huyết”.
Điều trị:
a/ Thuốc bổ trợ (Nutritional Supplêmnts):
Vitamin B complex: 50 mg, ngày 3 lần, liên tục 1 tháng. Sau đó hạ xuống còn ngày 2 lần. Giúp cải thiện tế bào da.
Dầu gan cá tuyết (cod liver oil): 1 muỗng canh, ngày 2 lần, giúp chống nhiễm trùng.
Vitamin A: 10000 IU, ngày 2-3 lần trong 2 tuần lễ rồi hạ xuống còn 10000 IU/ngày. Giúp bảo vệ tế bào da. Đối với phụ nữ có thai, nên hỏi ý kiến Bác Sĩ.
Zinc: 15mg, ngày 3 lần trước bữa ăn, giúp thúc đẩy da chóng lành.
b/ Dược thảo trị liệu (Herbal Treatment):
Tuần lễ thứ 1: Uống 500mg Goldenseal, ngày 3 lần trong bữa ăn. Dược thảo Goldenseal có nguồn gốc ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, trồng nhiều nhất tại Oregon và Washington. Tên khoa học Hydrastis canadensis, thuọc họ Mao lương Ranunculaceae. Bộ phận dùng làm thuốc gồm rễ củ, vị đắng, tính lạnh.
Thành phần hoá học: Isoquinoline alkaloids gồm hydrastine và berberine, resin, chologenic acid, fatty acids, tinh bột, đường và một ít tinh dầu.
Tác dụng: chống viêm, làm thuốc kháng sinh, kháng khuẩn, khử trùng, nhuận trường, lợi tiểu, làm se tế bào. Dùng trị viêm da do lạnh, đau cổ họng, viêm tai, nhiễm trùng đường tiểu, hạ sốt, khử đàm, viêm ruột, đau tim, gan, mắt.
Tuần lễ thứ 2:Uống 500mg Red clover, ngày 3 lần.
Red clover, tên khoa học Trifolium pratense thuọc họ Leguminosae, có nguồn gốc tại Bắc Mỹ và Australia nhưng cũng thấy trồng ở Châu Âu. Bộ phận dùng làm thuốc là hoa. Red clover có vị ngọt, tính mát.
Tác dụng:làm thuốc giảm đau, lọc máu, bệnh ngoài da, viêm da, đặc biệt trị bệnh chàm (eczema) và vảy nến (psoriasis). Ngoài ra, còn trị ung thư vú, ung thư tử cung, hệ thống bạch huyết, nhiều bệnh thoái hoá mãn tính, viêm thoái hoá khớp xương, bệnh thống phong (gout), ho khan.
Tuần lễ thứ 3:Uống 500mg Burdock root, ngày 3 lần trong bữa ăn.
Burdock root, Đông dược gọi là rễ cây Ngưu bàng hay Ngưu bàng căn, tên khoa học Arctium lappa thuộc họ Cúc Compositae. Các thầy thuốc y học cổ truyền Trung Quốc và Việt Nam thường dùng quả Ngưu bàng, tức Ngưu bàng tử, để trị ngoại cảm, phong chẩn hay mề đay, lên sởi, viêm hạch cổ, phù thũng. Trái lại, các thầy thuốc Âu, Mỹ chỉ dùng rễ làm thuốc.
Thành phần hoá học: trong rễ Ngưu bàng chứa trên 60-70% chất inulin, một chất đắng glycoside tên là arctiin, 2 ligans, volatile oil, tannin, resin, mucilage, sugar, acids, iron, calcium, vitamin C.
Tác dụng:làm thuốc lợi tiểu, giúp ra mồ hôi, da bị thương tổn. Dùng để hạ sốt, máu bị tích độc, chức năng gan hoặc thận, tuỵ tạng, dạ dày và các biến đổi bất thường khác của cơ thể, đặc biệt là bệnh viêm da.
Tuần lễ thứ 4:Uống 500mg Pau d’arco, ngày 3 lần trong lúc ăn.
Pau d’arco là một loại cây to, vỏ màu xám, thân gỗ màu nâu đen và mềm, hoa màu đỏ tía, thấy mọc nhiều ở miền Trung và Nam Hoa Kỳ nhưng cũng thấy mọc rải rác tại miền Bắc Mexico lan tới cả Argentina ở Nam Mỹ. Tên khoa học Tabebuia impetiginosa. Có nhiều loài khác nhau, bộ phận dùng làm thuốc là hoa.
Thành phần hoá học: Pau d’arco có chứa 3 hợp chất chống men rất mạnh gồm: Lapachol, beta-lapachone và xyloidine. Qua thí nghiệm, các nhà nghiên cứu ghi nhận 3 chất vừa nêu có khả năng kháng lại nấm Calbicans và nhiều loại nấm ngoài da khác.
Tuần lễ thứ 5:Uống 500mg chất Quercetin, ngày 3-4 lần. Quercetin là loại tinh chất màu vàng, chiết xuất từ nước cốt chanh, măng tây (asparagus) và một số dược thảo khác. Có tác dụng kháng khuẩn và duy trì sức khoẻ.
BỆNH CHÀM (Eczema)
Bệnh chàm (Eczema) là một loại bệnh ngoài da, thuộc dạng viêm da dị ứng (atopic dermatitis). Cùng một bệnh nhưng Đông Y và Tây Y lại mô tả, dẫn giải bằng những thuật ngữ khác nhau.
NGUYÊN NHÂN:
Theo Y học hiện đại:
Cuộc nghiên cứu hiện nay cho thấy bệnh chàm có liên hệ đến bệnh dí ứng, bởi vì:
Mức độ huyết thanh IgE (serum immunoglobulin E), một loại kháng thể chống dị ứng bên trong cơ thể người bệnh, tăng cao hơn 80%.
Tất cả bệnh nhân bị bệnh chàm, sau khi kiểm chứng, đều mắc bệnh dị ứng.
Có khoảng 2/3 bệnh nhân bị bệnh chàm đều có thân nhân cùng mang bệnh chàm.
Nhiều bệnh nhân bị bệnh chàm đều sổ mũi theo mùa, hen suyễn.
Hầu hết người bị bệnh chàm đều tỏ ra không hợp với một số thực phẩm, đồ dùng để gây dị ứng, như: trứng, sữa bò, bột mì, đậu phộng, nước hoa (perfumes), mỹ phẩm (cosmetics), kim loại (metals), cao su (rubber)…
Nếu ngưng ăn uống hay tiếp xúc với những thực phẩm, đồ dùng nói trên, bệnh có thể tự lành hoặc trị chóng lành hơn.
Theo Đông Y:
Bệnh chàm đưựoc xếp vào loại “Thấp chẩn” do phong, nhiệt và thấp hựop thành, trong đó phong là chính. Bệnh chàm có 2 thể trạng:
Thể cấp tính: do phong, thấp, nhiệt kết hợp.
Thể mãn tính: do phong và huyết táo kết hợp.
TRIỆU CHỨNG:
Ban đầu thấy da nổi cộm thành quầng đỏ.
Da rất khô, ngứa dữ dội, buộc phải gãi.
Da nổi cụ, trong có chứa nước, vỡ ra và lành.
Mặt da đóng vảy trắng, ngày càng dày thêm.
Bệnh tái đi tái lại, không thể kiểm soát.
Da dễ bị lây nhiễm, dặc biệt tụ cầu khuẩn vàng Staphylococus aureus.
ĐIỀU TRỊ:
Kiêng cữ:
Nên kiêng những loại thực phẩm gây dị ứng da.
Tránh cào gãi làm sướt da, dễ bị nhiễm trùng.
Tránh táo bón, chất độc sẽ làm tăng cường độ viêm lở.
Dược thảo đơn giản:
- Do thiếu Vitamin và Minerals: thường dùng cà rốt (carrot) , cải xoăn (kale), rau mùi tây (parsley), rau mồng tơi Mỹ (spinach). Chúng là nguồn cung cấp Vitamin A, rất cần cho việc cải thiện lớp da bị sừng hoá vì cơ thể thiếu chất Beta-carotene.
- Do thiếu Bioflavonoids: Dùng rau mùi tây (parsley), cải bắp (cabbage), ớt ngọt (sweet pepper), cà chua (tomato). Chúng là nguồn cung cấp bioflavonoids, rất cần cho việc làm giảm cường độ viêm tấy (inflammation) và dị ứng (allergy).
- Do thiếu Selenium: Dùng cải ngọt Red Swiss chard, cải củ (turnip), tỏi (garlic), cam tươi (orange). Chúng là nguồn cung cấp chất selinium nhầm tẩy độc và gia tăng sức đề kháng cơ thể chống lại sự nhiễm trùng.
- Do thiếu kẽm (Zinc): Dùng gừng tươi (ginger root), rau mùi tây (parsley), khoai tây (potato), tỏi (garlic), cà rốt (carrot). Chúng là nguồn cung cấp chất kẽm (Zinc), có công năng thúc đẩy cơ thể phục hồi năng lực và nâng cao hệ thống miễn nhiễm.
- Vitamin A: 5000 IU/ngày.
- Vitamin E: 400 IU/ngày.
- Zinc: 45-60mg/ngày.
- Rong biển (kelp):1000mg/ngày.
- Hạt nho (grape seed) extract 95% procyanidolic oligomers:50-100mg ngày 3 lần.
- Dầu Evening primrose (Oenothera biennis – EPO) bôi lên vết thương. EPO rất giàu chất gamma-linolenic acid (GLA), đã được dân Anh công nhận trị bệnh Eczema và nhiều bệnh ngoài da khác rất hay.
- Cam thảo (glycyrrhiza glabra) powdered root: 1-2 g, ngày 3 lần.
Nước dinh dưỡng & Dược thảo:
a. Nước rau quả tươi:
Theo bác sĩ Norman W. Waker Hoa Kỳ nhận định, eczema là tình trạng da bị sưng do tuyến bạch huyết tiết xuất quá nhiều chất acid. Trong tiến trình thải bỏ chất cặn bã, thay vì tống xuất theo ngã thận và ruột già, chúng bị đẩy ra theo ngã chân lông. Bác sĩ N. W. Waker đề xuất công thức trị bệnh chàm (eczema) bằng nước cốt trái cây rau tươi sau đây.
Cà rốt (carrot) 08 ounces
Mồng tơi (spinach) 02 ounces
Cải củ (turnip) 02 ounces
Cải xoong (watercress) 01 ounces
Củ cải đường (beet) 01 ounces
Dưa leo (cucumber) 02 ounces
Cách làm:Trước hết, rửa rau quả cho sạch, cắt ngắn rau và chẻ dọc các loại củ, bỏ vào máy xay tự động, ép lấy nước cốt từng loại theo đúng dung tích ấn định, tổng cộng 16 ounces. Uống lúc bụng đói, sáng sớm. Phải chờ ít nhất 1-2 giờ sau khi nước rau quả thấm hết qua màng ruột non rồi mới ăn.
b. Dược thảo tổng hợp:
- Thể thấp nhiệt (da đỏ, ngứa, có mụn nước, chảy nước vàng): Phương thang “Thanh nhiệt hoá thấp”:
Sinh địa 20g
Kim ngân hoa 20g
Đạm trúc diệp 20g
Nhân trần 20g
Hoạt thạch 20g
Ngưu bằng tử 12g
Khổ sâm 12g
Thổ phục linh 16g
Bạch tiển bì 12g
Hoàng cầm 12g
Hoàng bá 12g
Hạ khô thảo 12g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Thể phong nhiệt (da đỏ nhạt, ngứa dữ dội, ít loét):
Phương thang “Sơ phong, thanh nhiệt, khứ thấp”:
Kinh giới 12g
Sinh thạch cao 20g
Sinh địa 16g
Mộc thông 12g
Ngưu bàng tử 12g
Khổ sâm 12g
Tri mẫu 10g
Thuyền thoái 06g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Thế mãn tính (da dày, khô, ngứa, tái phát nhiều lần)
Phương thang “Khu phong, dưỡng huyết, nhuận táo”:
Kinh giới 16g
Thục địa 16g
Sinh địa 16g
Thương truật 12g
Đương qui 12g
Bạch truật 12g
Phòng phong 12g
Địa phu tử 12g
Bạch tiến bì 10g
Thích tật lê 10g
Khổ sâm 08g
Thuyền thoái 06g
Sắc uống ngày 1 thang.
c. Kiêng cữ:
Từ xưa, Đông y đã từng khuyên bệnh nhân nên kiêng ăn một số thực phẩm nào đó trong suốt thời gian chữa trị rõ ràng không phải là không có cơ sở khoa học. Ngày nay, nữ tiến sĩ Linda Rector Page, Hoa Kỳ, đã xác định kiêng cữ là một trong những yếu tố cần thiết trong khoa trị liệu, đặc biệt là bệnh dị ứng và viêm tấy ngoài da. Tiến sĩ Linda R. Page đề xuất một số cách thức điều trị bệnh chàm và vảy nến dưới đây:
- Ăn uống và thực phẩm liệu pháp:
- Dùng thực phẩm ít mỡ động vật. Bởi vì đa số người mắc bệnh chàm đều mập phì.
- Dùng nhiều rau anh, rong biển chứa nhiều chất đạm có nguồn gốc thực vật, chất xơ (fiber) và chất khoáng (minerals). Đây là bí quyết để tống xuất chất độc, giảm ngứa.
- Ngưng ăn thực phẩm khô, đóng hộp, thịt đỏ (red meats) như thịt bò.
- Ngưng uống rượu, hút thuốc lá, ăn đường mía, uống sữa bò, lạm dụng thuốc trị bệnh trong đó có thuốc kháng sinh và thuốc chống đau da thấp khớp.
- Tập quán, thói quen liệu pháp:
Không nên ăn rồi đi ngủ ngay hoặc ít sau 2 giờ nhằm giúp cơ thể hoàn tất việc tiêu hoá thực phẩm.
Siêng năng tập thể dục là thói quen tốt, rất quan trọng, nhằm nâng cao sức khoẻ và tẩy rửa chất cặn bã ra ngoài.
Thường xuyên phơi da ra ánh nắng mặt trời lúc sáng sớm để giúp chuyển Vitamin D nhờ tia hồng ngoại chữa lành vết thương.
Thường xuyên tắm biển, vết thương sẽ mau lành.
Tránh căng thẳng tinh thần (stress), vì đây là một trong những nhân tố hàng đầu làm bệnh nặng thêm.
1. BỆNH VẢY NẾN (Psoriasis)
NGUYÊN NHÂN:
a. Theo Y học hiện đại:
- Do sự tăng sinh qua nhanh của biểu bì (epidermal proliferation). Chu kỳ đời sống của tế bào da là 28 ngày, gồm 14 ngày hình thành lớp sừng (stratum corneum) và thêm 14 ngày để bong ra hay lột đi. Trong bệnh vảy nến, chu kỳ từ tăng sinh đến sùng hoá chỉ có 4 ngày, một thời gian cực ngắn không đủ để lớp ngoại bì tự huỷ. Đây là lý do tại sao lớp sừng hoá trở nên dày cộm, vừa bong ra là có lớp khác xuất hiện tức khắc.
- Dựa trên chủng tộc, sắc dân da trắng có khuynh hướng nhiễm bệnh cao hơn. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ dân da trắng bị bệnh vảy nến (psoriasis) chiếm khoảng 21%, trong khi dân da đen và các dân tộc sống trong vùng nhiệt đới chỉ chiếm khoảng 2-4%.
- Bệnh có tính di truyền, vì tỷ lệ HLA (human leukocyte antigens) của đa số thân nhân người mắc bệnh vảy nến đều cao hơn bình thường.
a. Theo Đông y:
Đông y học gọi bệnh vảy nến là “Bạch sang” hay “Tùng bì tiển”. Về nguyên nhân, Đông Y cho rằng:
- Do huyết nhiệt bên trong cảm thụ phong tà bên ngoài, lâu dần phong làm huyết táo không thể nuôi dưỡng lớp ngoại bì nên sinh bệnh.
- Thuộc loại mãn tính, dễ tái phát vào mùa đông.
- Có 2 thể bệnh: thể “Phong huyết nhiệt” và thể “Phong huyết táo”.
DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG:
- Da có những đốm tròn ửng đỏ lúc đầu.
- Một thời gian sau phát triển thành những mảng to (plaques) màu đỏ thẫm.
- Trên mặt da đóng một lớp vảy dày (lớp sừng) màu trắng bạc.
- Ngứa có thể nhẹ hơn bệnh chàm (eczema).
- Bệnh thường xuất hiện ở cánh tay, khuỷu tay, sau vành tai, da đầu, lưng, chân và đầu gối.
- Bệnh phát triển nhanh khi gặp môi trường xấu như căng thẳng thần kinh, thực phẩm dị ứng (food allergies). Ở một số người bệnh còn thấy đau các khớp xương giống như triệu chứng của bệnh viêm đa khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis).
ĐIỀU TRỊ:
Dược thảo đơn giản:
- Vitamin A: 50000 IU/ngày (có thai không nên dùng), là sinh tố quan trọng giúp cải thiện tế bào da bị rối loạn, tẩy độc cơ thể.
- Vitamin E: 400 IU/ngày, là sinh tố giúp da mịn, chống lão hoá tế bào.
- Selenium: 200mcg/ngày. Có công dụng chống nhiễm độc, nâng cao hệ thống miễn nhiễm. Nếu dùng chung với Vitamin E, tác dụng bổ trợ càng mạnh.
- Zinc: 30mg/ngày, là một chất khoáng, giúp nâng cao hệ thống miễn nhiễm, làm lành vết thương.
- Dầu Flaxseed: 1 muỗng canh/ngày, là loại dầu thực vật, chiết xuất từ hạt lanh, rất giàu nguồn axit béo thiên nhiên omega-3, magnesium, potassium, fiber, vitamin B, zinc và protein. Nó có tác dụng làm giảm đau, chống viêm tấy, sưng phồng.
Dược thảo tổng hợp:
a. Thể cấp tính (da đỏ, nóng rát, ngứa, mụn loét):
Ngưư bàng tử 12g
Sinh địa 16g
Thổ phục linh 16g
Kim ngân hoa 16g
Hạ khô thảo 12g
Hoàng bá 12g
Mộc thông 12g
Bạch tiển bì 12g
Khổ sâm 12g
Xa tiền thảo 12g
Nhân trần 20g
Goldenseal * 06g
Sarsaparilla * 06g
Milk thistle * 06g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 chén nước, sắc còn 8/10 chén, chia uống 2lần, cách nhau 3-4 giờ. Nước nhì, đổ 2 chén rưởi nước, sắc còn nửa chén, uống 1 lần.
*Goldenseal, tên khoa học Hydrastis canadensis, thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Bộ phận dùng làm thuốc: thân rễ (rhizomes, roots).
Thành phần hoá học: Vitamin A, B-complex, C, E, albumin, berberine, biotin, calcium, candine, chlorine, choline, chologenic acid, essential oil, fats, hydrastine, inositol, iron, lignin, maganese, para-amino-benzoic acid, phosphorus, potassium, resin, starch và sugar.
Tác dụng: có tác dụng như một loại thuốc kháng sinh (antibiotic), tẩy độc cơ thể, chống nhiễm trùng, nâng cao hệ thống miễn nhiễm (immune system), hạ huyết áp, chống ung loét (ulcers).
Trong bệnh vảy nến, Goldenseal chống nhiễm trùng, tẩy độc, hạ sốt rất hay.
*Sarsaparilla, là tên gọi chung khoảng 200 loài cây cỏ có thân leo thuộc chi Smilax, họ hành tỏi Liliaceae. Trên thế giới hiện nay có 5 loài Sarsaparilla, được dùng nhiều nhất là loài Smilax aristolochiaefolia ở Mexico, Smilax febrifuga ở Ecuador, Smilax regelii và Smilax officinalis ở Honduras và Brazil, Smilax glabra tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên và Việt Nam với tên gọi Thổ phgục linh hay củ Kim cang, củ khúc khắc.
Bộ phận dùng thuốc: rễ củ.
Thành phần hoá học: trong Sarsaparilla thuộc chi Smilax officinalis có chứa 1-3% steroidal saponins, phytosterols gồm beta và e-sitosterol, khoảng 50% tinh bột, resin, sarsapic acid và minerals.
Tác dụng:chống nhiễm trùng, lọc máu, làm giảm mức tác hại tế bào da do tổn thương. Thực tế, Sarsaparilla được dùng để trị bệnh chàm (eczema), vảy nến (psoriasis), ngứa da, mụn giộp (herpes). Ngoài ra, Sarsaparilla còn trị bệnh động kinh (epilepsy), thấp khớp (rheumatism), bệnh giang mai (syphilis), nhiễm trùng đường tiểu, tẩy độc, bệnh vàng da (jaundice) và giúp tăng sinh lực (energy).
Trong bệnh vảy nến, Sarsaparilla có công năng lọc máu (blood purifier), chống viêm tấy, nâng cao sức khoẻ.
*Milk thistle, tên khoa học Silybum marianum; thuộc họ cúc Compositae, là một loại dược thảo quý của Châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Úc Châu.
Bộ phận dùng làm thuốc: quả, lá, hạt (fruits, leaves, seeds) nhưng hạt được dùng rộng rãi nhất.
Thành phần hoá học: gồm hợp chất Silymarin, một thánh dược chống oxy-hoá, không có loại Đông dược nào sánh bằng. Là một dược liệu cực quý bảo vệ tế bào gan, kích thích sinh sản tế bào gan mới, tẩy độc, kháng siêu vi B, C (hepatitis B, C viruses), trị xơ gan (cirrhosis), sưng gan, yếu gan. Trong bệnh vảy nến, Milk thistle có tác dụng nâng cao hệ thống miễn nhiễm, lọc máu, chống ngứa.
2. Thể mãn tính (da dày, đóng vảy, ngứa, khô, ít loét). Dùng thang tổng hợp:
Thục địa 16g
Sinh địa 16g
Kinh giới 16g
Thương truật 12g
Đương qui 12g
Bạch truật 12g
Phòng phong 12g
Địa phu tử 12g
Khổ sâm 08g
Bạch tật lê 08g
Bạch tiển bì 08g
Thuyền thoái 06g
Thiên hoa phấn 12g
Kim ngân hoa 16g
Bồ công anh 16g
Camthảo 12g
Milk thistle 06g
Sarsaparilla 06g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 4 chén nước, sắc cạn còn 1 chén, chia uống 2 lần, cách nhau khoảng 3-4 giờ. Nước nhì, đổ 3 chén nước, sắc còn 6/10 chén, uống 1 lần.
Thuốc đắp ngoài da:
Dandelion 200g
Chaparral 200g
Yellow dock 200g
Cách làm: bỏ 3 vị dược thảo vào một cái nồi nhỏ, thêm 1 lít nước (36 ounces). Nấu với lửa nhỏ cho sôi nhẹ, thỉnh thoảng trộn đều, bao giờ gần cạn thì nhắc xuống. Chiết lấy nước cao lỏng.
Cách dùng:dùng 1 miếng vải sạch, nhúng vào nước thuốc và đắp kín lên vết thương sau khi đã sát trùng cẩn thận, ngoài băng thêm một lớp keo mỏng không thấm nước. Ngày làm 1-2 lần cho đến khi bệnh khỏi.
Công dụng: chống viêm tấy, giảm ngứa, làm mịn da và lành vết thương.
- Dandelion, tức cây bồ công anh bên Đông dược, tên khoa học Taraxacum officinale, thuộc họ cúc Asteraceae. Dược thảo nầy tìm thấy tại nhiều nước ở Á Châu và Âu Châu.
Bộ phận dùng làm thuốc: lá và rễ, có thể dùng toàn cây.
Thành phần hoá học: Vitamin A, B1, B2, B6, B12, C, E, proteins, resin, sulfur, zinc, phosphorus, potash, bioflavonoids, biotin, calcium, choline, fats, folic acid, gluten, gum, inositol, inulin, iron, lactupicrine, linolenic acid, magnesium, niacin, pantothenic, para-aminobenzoic acid.
Trong bệnh vảy nến, Bồ công anh có tác dụng lọc gan, lọc máu, chống ung nhọt (boils, abscesses).
- Chaparral, tên khoa học Larrea tridentata, thuộc họ Tật lê Zygophyllaceae. Là loại cây bụi (scrub), mọc hoang ở các vùng sa mạc Tây-Nam Hoa Kỳ như tiểu bang Texas, California và miền Nam nước Mexico, cao chừng 3-9 feet (1-2,7 mét), lá mọc đối cành, mỗi lá phân thành 2 lá chét màu xanh olive, hoa vàng 5 cánh như hoa mai, quả chín hình cầu được phủ bên ngoài một lớp lông tơ như hoa trinh nữ màu trắng mịn. Cây Chaparral xuất hiện trên địa cầu ước chừng 12000 năm sau thời kỳ băng hà cuối cùng, sống rất khoẻ dù sa mạc không có mưa mà vẫn xanh tươi.
- Bộ phận dùng làm thuốc: lá hoặc toàn phần cây trên mặt đất.
- Thành phần hoá học: chứa khoảng 12% resin và lignans gồm có nordihydroguaiauretic acid, sodium, sulfur và zinc.
- Tác dụng:được dùng rộng rãi tại Hoa Kỳ trị rối lạon dạ dày, chứng tiêu chảy, trị ho, đau nhức do phong thấp, viêm đường tiểu, nhiễm trùng do bệnh hoa liễu (venereal infections), lá non trị đau răng. Thuốc đắp ngoài trị viêm da như bệnh chàm, vảy nến, viêm tấy, chứng phát ban (rashes). Là một chất đắng, có công năng chống tác nhân độc hại từ bức xạ (radiation) mặt trời, bảo vệ cơ thể kháng lại việc hình thành tế bào u bướu (tumors), ung thư (cancer) đặc biệt là ung thư máu (leukemia). Năm 1996, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ chứng minh rằng chất lignans có tác dụng chống virus, kháng vi khuẩn HIV trong bệnh AIDS. Tuy nhiên, không được dùng liều cao có hại cho gan.
- Yellow dock, còn gọi là Curled dock, tên khoa học Rumex crispus, thuộc họ Rau răm Polygonaceae. Yellow dock được tìm thấy ở Châu Âu và Châu Phi. Ở Việt Nam cũng có một vài loài Yellow dock với tên khoa học Rumex sinensis, Rumex maritinus và Rumex wallachii được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian với tên lưỡi bò (ngưu thiệt), chút chít.
- Bộ phận dùng làm thuốc: thân rễ.
- Thành phần hoá học:Potassium, manganese, iron, oxalate, chrysarobin, rumicin, anthraquinones.
- Tác dụng:lọc máu, cải thiện hoạt động của gan và ruột già, trị táo bón, thiếu máu, các bệnh ngoài da như viêm da dị ứng do chàm, vảy nến, phong ngứa, ban chẩn. Theo kinh nghiệm, nếu Yellow dock dùng chung với sarsaparilla trị bệnh ngoài da sẽ có tác dụng cao hơn.
- Trong bệnh vảy nến, Yellow dock giúp bảo vệ da, chống ung nhọt, giảm ngứa.
2. MỀ ĐAY (Urticaria, Hives)
Mề đay hay phong ngứa (urticaria, hives) là một biểu thị phản ứng có thời hạn của da với đặc điểm mặt da xuất hiện nhiều mảng màu đỏ, sưng dày như về cơm cháy, cứng, ngứa, chung quanh vùng da bị thương tổn có những đường viền màu trắng hoặc hồng.
Triệu chứng:
- Mặt da xuất hiện những quầng, những mảng màu đỏ.
- Sưng dày, liên kết với nhau thành mảng to, cứng và ngứa.
- Xuất hiện có thời hạn rồi lặn mất. Dễ tái phát.
Nguyên nhân:
a. Theo y học hiện đại:
Có nhiều nguyên nhân.
- Do phản ứng histamine (histamine reaction)
- Do hàm lượng hydrochloric acid trong dạ dày hạ thấp quá mức.
- Do thiếu Vitamin B-complex.
- Do dị ứng bởi một số thực phẩm không thích hợp. Thường những thực phẩm sau đây dễ gây chứng mề đay: sữa bò, thịt bò, thịt gà, trứng, cá biển, tôm, cua, sò ốc, đậu, strawberry, rượu.
- Do dị ứng thuốc men (drug reaction). Các loại thuốc và hoá thực phẩm sau đây dễ gây chứng mề đay: penicillin, aspirin, tartrazine, benzoate, chất hoá học dùng để lau chùi nhà cửa, thuốc giặt quần áo (laundry soap).
- Do chức năng tuyến giáp (thyroid) bị suy yếu hoặc kháng thể (antibodies) chống lại hoạt động của tuyến giáp.
- Do nhiễm trùng (infectión) hoặc bị nhiễm vi khuẩn (bacteria, viruses), nấm (fungus).
- Do xáo trộn tinh thần như căng thẳng (stress), mất ngủ (sleeplessness).
b.Theo Đông Y:
Đông Y học gọi mề đay là “Tầm ma chẩn” hay “phong chẩn khối” liên quan đến 2 thể: phong hàn và phong nhiệt.
- Thể phong hàn: khi tiếp xúc với khí hậu lạnh, nước lạnh thì nổi mề đay.
- Thể phong nhiệt: khi tiếp xúc với khí hậu khô nóng mới nổi mề đay.
Nguyên nhân:
- Yếu tố bên ngoài: vật chất dơ bẩn, thời tiết và khí hậu trái thường kích thích gây dị ứng.
- Yếu tố bên trong: thực phẩm, nước uống, thuốc men không hợp gây phản ứng.
Hệ quả:tạng phủ suy yếu, vinh vệ khí bất hoà, ngoài xâm nhập, trong không sơ tiết, uất tích ở bì phu mà thành bệnh.
Điều trị:
Dược thảo đơn giản:
- Vitamin C: 1 gram, ngày 1 lần.
- Vitamin B12: 1000 mcg/ngày.
- Bạch phàn (phèn chua) 10 gram + Phác tiêu (huyền minh phấn, Natrium Sulfuricum) 10 grams. Bỏ vào cái bát, thêm nước, khuấy cho tan đều. Dùng bông gòn thấm nước thuốc xoa lên vùng nổi mề đay, íy lâu sẽ lành.
- Chỉ thực (trái chanh rụng lúc còn non, mua ở hiệu thuốc Bắc) tẩm với giấm thanh, bọc trong một túi vải, hơ lửa cho ấm chườm lên vùng nổi mề đay, nguội lại hơ nóng chườm tiếp, trong phút chốc là khỏi.
- Vôi nung hoà với giấm thanh bôi lên chỗ mề đay, lặn tức thì.
Dược thảo tổng hợp:
a. Thể phong hàn:
Ma hoàng 08g
Bạch giới tử 03g
Quế chi 10g
Hán phòng kỷ 10g
Đương qui 10g
Xuyên ngưu tất 10g
Tần giao 08g
Liên kiều 12g
Phòng phong (sao) 08g
Sinh hoàng kỳ 12g
Thảo ô (chế) 08g
Tang ký sinh 10g
Khương hoạt 06g
Huyền sâm 10g
Độc hoạt 06g
Sinh cam thảo 10g
Hồng hoa 10g
Bạch thược (sao) 12g
Thuyền thoái 10g
Thương nhỉ tử 10g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 chén nước, sắc còn 8/10 chén, chia uống 2 lần lúc thuốc còn ấm. Nước nhì, đổ 2 chén nước sắc còn nửa chén, uống 1 lần. Nên kiêng cữ những thực phẩm, thuốc uống dễ gây dị ứng.
Bài thuốc có công năng ôn kinh tán hàn, trừ thấp, thông lạc.
b. Thể phong nhiệt:
Bạch thược (sao) 10g
Xuyên khung 10g
Đương qui 10g
Sinh địa 12g
Xích thược 15g
Mẫu đơn bì 12g
Đơn sâm 30g
Hồng hoa 06g
Kim ngân hoa 12g
Liên kiều 15g
Kinh giới hoa 10g
Bạc hà diệp 06g
Thuyền thoái 10g
Phòng phong 10g
Camthảo 06g
Kê huyết đằng 15g
Ngưu bàng tử 12g
Thổ phục linh 12g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 4 chén nướ sắc còn 1 chén, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 3 chén nước sắc còn 6/10 chén, uống 1 lần. Nên kiêng cữ thức ăn, thuốc uống dễ gây dị ứng.
Phương thuốc có công năng khu phong, thanh nhiệt, hoạt huyết, giải độc, hoá ứ.
6. BỆNH THUỶ ĐẬU (Chickenpox)
Thuỷ đậu còn có tên là Thuỷ hoa (Chickenpox), tức là bệnh trái rạ, là một loại bênh truyền nhiễm có tốc độ lây lan cực nhanh từ người nầy sang người khác. Bệnh thuộc dạng lành tính, thường xảy ra ở trẻ em dưới 10 tuổi hơn ở người lớn. Tuy nhiên, có năm số người lớn nhiễm bệnh chiếm tỷ lệ 30%.
Nguyên nhân:
- Do siêu vi Varicella, còn gọi là bệnh Varicella zoster virus.
- Sau khi gây bệnh, siêu vi Varicella có khả năng tạo ra sự miễn nhiễm vĩnh viễn cho người bệnh, nghĩa là không bao giờ tái phát. Tuy nhiên, Varicella không chết, nằm ngủ im trong các mô thần kinh nhiều năm và tái phát trở lại dưới mọt dạng viêm lở khác có tên là bệnh “Dời leo, Dời ăn” tức bệnh Zona hay Herpes zoster.
- Do suy yếu hệ thống miễn nhiễm (immune system).
Dấu hiệu và triệu chứng:
Thời kỳ ủ bệnh (Incubation period):
- Kéo dài từ 1 đến 3 tuần lễ, triệu chứng không rõ rệt.
- Sốt nhẹ hoặc sốt cao, nhức đầu, mệt mõi, biếng ăn.
Thời kỳ phát ban (Eruption period):
- Sau giai đoạn ủ bệnh, một số mụn nhỏ màu đỏ xuất hiện.
- Trước hết mọc ở da đầu, trong niêm mạc miệng, rất dễ nhận diện.
- Dần dần lan rộng toàn thân, mọc từng đợt cách nhau 24 giờ.
- Những mụn đỏ sưng lên, trong có chứa một chất dịch trong suốt.
- Sau 3-4 ngày, lớp mụn chứa dịch trong biến thành đục và bắt đầu thấy ngứa.
- Cuối cùng, chỗ viêm tấy (blisters) khô, đóng mài (scabs) và bong ra.
- Thời gian từ lúc phát bệnh cho đến khi lành khoảng 5-7 ngày nếu không có biến chứng.
- Nếu cào gãi sẽ để lại những vết sẹo sâu trên mặt da hằng chục năm.
Điều trị:
Dược thảo đơn giản:
- Vitamin A: 10000 IU và 25000 IU beta-carotene, ngày 1 lần trong 10 ngày đến 1 tháng, giúp cho tế bào da chóng lành. Nếu phụ nữ có thai nên hỏi ý kiến bác sĩ.
- Vitamin C: 500-1000mg, ngày 3-4 lần trong một tuần lễ, giúp kích thích hệ thống miễn nhiễm, hạ sốt trong thời kỳ mới phát bệnh.
- Zinc: 25-50mg, ngày 2 lần trong 2 tuần lễ, nhầm giúp phục hồi sức khoẻ và nâng cao hệ thống miễn nhiễm.
- Uống ngưu bàng căn (burdock root) và red clover: 500mg, ngày 3-4 lần trong 10 ngày, giúp giải độc cơ thể và làm lành vết thương.
- Uống Echinacea: 500mg và Goldenseal 250mg, ngày 3-4 lần trong 10 ngày. Giúp chống nhiẽm trùng, nâng cao hệ thống miễn nhiễm.
Echinacea, tên khoa học Echinacea, thuộc họ Cúc (Asteraceae), có ít nhất 9 loài khác nhau và là một dược liệu độc đáo của Bắc Mỹ. Echinacea mọc hoang dã thành những thảm hoa bát ngát màu nâu đỏ rất đẹp trong một số triền núi ở Rocky Mountains hoặc được trồng làm cảnh, dùng làm thuốc tại các khu dân cư vùng Bắc Mỹ Châu, nhiều nhất tại Hoa Kỳ.
Bộ phận làm thuốc: Hoa.
Tác dụng:
Nâng cao hệ thống miễn nhiễm, chữa cảm cúm (flu), vết thương viêm tấy, làm độc. Nói chung là một loại dược thảo rất quý của Bắc Mỹ.
Có công năng trị nhiều chứng bệnh, trong đó có bệnh chàm (eczema), bệnh vảy nến (psoriasis), nhiễm trùng đường tiểu, chân sưng, da bị bỏng, viêm mủ (bursitis), hội chứng mệt mỏi, (chronic fatigue syndrome), miệng khô lở, đau lỗ tai, viêm răng (gingivitis), bệnh dời leo (herpes virus), viêm do vi khuẩn HIV/AIDS, viêm thanh quản (laryngitis), viêm phổi (pneumonia), viêm xoang mũi (sinusitis), viêm gan (tendinitis), viêm amidan hay viêm hạnh nhân (tonsillitis), bệnh lao (tuberculosis), viêm siêu vi (viral infections).
Thành phần hoá học:Caffeic acid derivatives bao gồm chất cichoric acid và echinacoside, polysaccharides bao gồm chất arabinogalactan và heteroxylan, hợp chất lipophilic gồm polyacetylenes và alkamides.
Cách dùng:Uống liều 500-1000mg, ngày 3 lần; nếu ở dạng chiết xuất bằng cồn thì dùng 15-30 giọt, ngày 2-5 lần; nếu ép lấy nước cốt dùng tươi thì 6-9 ml/ngày.
- Dùng 2 quả chanh tươi, vắt lấy nươc cốt, pha với 1 cốc nước lọc với một ít mật ong, uống trước bữa ăn độ 30 phút. Cách 4 tiếng đồng hồ lập lại 1 lần.
Công dụng:tẩy rửa hệ thống miễn nhiễm và giúp thận tống xuất chất độc.
- Thoa nhẹ 1 lớp mật ong hoặc dầu mầm lúa mì (wheat germ oil) lên vết thương. Công dụng: giúp mau lành và giảm nhiễm trùng.
Dược thảo tổng hợp:
a/ Cấp độ nhẹ:nốt thuỷ đậu mọc thưa, màu hồng nhạt, sốt nhẹ, ăn uống tốt.
Phòng phong 4g
Kinh giới 4g
Hoàng cầm 6g
Thuyền thoái 4g
Hoạt thạch 8g
Xích thược 6g
Cam thảo 4g
Bắc sài hồ 6g
Sơn chi tử 6g
Liên Kiều 8g
Ngưu bàng tử 8g
Mộc thông 6g
Đương qui 4g
Echinacea * 4g
Sắc uống ngày 1 thang. Đổ 3 chén nước, sắc còn 8/10 chén, chia uống 2 lần, liên tục trong 5 ngày.
*Echinacea:(xem thêm chi tiết ở bệnh thuỷ đậu) còn có nhiều tên khác: Coneflower, Purple Coneflower và Black Sampson. Tên khoa học Echinacea, thuọc họ cúc Compositae. Có khoảng 9 loài Echinacea nhưng chỉ có 3 loài được dùng làm thuốc gồm: Echinacea angustifolia, E. purpurea và E. pallida. Echinacea được coi là dược thảo đặc biệt của Hoa Kỳ, tập trung nhiều nhất ở vùng Bắc Mỹ với loài nổi tiếng E. purpurea.
Thành phần hoá học của loài E. purpurea gồm có: Alkamides gồm phần lớn chất isobutylamides, caffeic acid esters chủ yếu gồm echinacoside và cynarin, volatile oil gồm humulene, echinolone và polysaccharides.
Tác dụng: kích thích hệ miễn dịch, chống viêm tấy, kháng khuẩn, tăng tiết mồ hôi, giải độc, chống dị ứng và trị lành vết thương.
Trong bệnh thuỷ đậu hay trái rạ, Echinacea có công năng thúc đẩy hệ thống miễn nhiễm kháng lại và làm vô hiệu hoá cả hai tác nhân gây ra chứng viêm là vi khuẩn và vi trùng, diệt nấm, làm lành vết lở loét ngoài da.
b/ Cấp độ nặng:thuỷ đậu mọc dày, sắc tím bầm, màu nước đục, sốt cao.
Kim ngân hoa 20g
Liên kiều 12g
Bồ công anh 20g
Sinh địa 12g
Xích thược 08g
Xạ can 04g
Sơn đậu căn 08g
Thiên hoa phấn 08g
Mạch môn đông 12g
Đại hoàng (sao rượu) 04g
Sa sâm 12g
Echinacea 08g
Goldenseal 08g
Sắc uống ngày 1 thang. Đổ 3 chén nước, sắc còn 8/10 chén, chia uống 2 lần, liên tục trong 5 ngày.
Nước rau quả tươi:
Nước cốt carrot 08 ounces
Nước cốt Spinach 04 ounces
Nước cốt Cucumber 04 ounces
Nước cốt Beet 02 ounces
Nước cốt Celery 04 ounces
Nước cốt rau quả được ép bằng 1 loại máy xay đặc biệt, không pha thêm nước lọc. Uống ngay khi xay xong, lúc bụng đói.
3. BỆNH DỜI LEO (Zona)
Bệnh dời leo, dời ăn (Herpes Zoster Shingles hay Zona) có liên quan đến bệnh Thuỷ đậu hay bệnh Trái rạ (Chickenpox), một loại bệnh viêm lở do siêu vi trùng Varicella gây ra. Loại siêu vi nầy không chết, tiềm sinh (dormant) trong tế bào thần kinh nhiều năm, thậm chí hằng chục năm. Sau đó, chúng bộc phát trở lại thật dữ dội dưới dạng những vết sưng đỏ, mặt da có nhiều mụn to nhỏ phồng giộp (blisters), rất đau đớn. Bệnh dời leo không lây nhiễm cho người khác như bệnh thuỷ đậu, nhưng có thể bộc phát rất nhanh, tái đi tái lại nhiều lần.
Triệu chứng:
- Cảm thấy ngứa râm ran như có kiến bò tại vùng có bệnh khoảng 2-3 ngày.
- Sau dấu hiệu ban đầu, da xuất hiện những mảng sần màu đỏ.
- Nhiều mụn to nhỏ nổi lên, trong chứa dịch nhầy.
- Cảm thấy bỏng rát, đau nhức với cường độ thật dữ dội.
- Cơn đau nhức có đặc điểm giảm dần sau 2-3 tuần lễ nhưng cũng có khi dai dẳng đến hằng tháng hoặc hằng năm.
- Vết phồng giộp thường xẹp và đóng vảy sau 10 ngày.
Nguyên nhân:
- Do hậu quả của virus Varicella gây bệnh Thuỷ đậu (Chickenpox) lúc còn bé.
- Do hệ thống miễn nhiễm (immune system) suy yếu bởi nhiều lý do như tuổi tác, căng thẳng thầnkinh (stress), bị cảm cúm (flu), sức khoẻ kém.
- Còn nhiều nguyên nhân khác, chưa hiểu đích xác.
Điều trị:
Dược thảo đơn giản:
- Dùng hổ thiệt hay Nha đam (Aloe vera) tươi, giã nát, vắt lấy nước cốt đắp lên vết thương giúp giảm bỏng rát, làm mát da, chóng lành vết thương.
- Dùng toàn cây Diệp hạ châu tươi, còn gọi là Diệp hoè thái hay Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus urinaria), rửa sạch, giã nát, thêm ít nước, vắt lấy nước cốt thoa lên vết thương, khô lại thoa thêm cho đến khi lành bệnh. Theo kinh nghiệm, loại dược thảo nầy công hiệu nhờ tác dụng kháng sinh cao, tính mát nên giảm bỏng rát.
- Mực tàu (thứ thiệt), mài với rượu hay nước lọc cho đậm đặc, phết đều lên vết thương. Có tác dụng giải độc, chống đau nhức và mau lành. Ngày xưa, có một số người lợi dụng lòng tin dân chúng, dùng bút lông chấm mực tàu vẽ chung quanh vết thương, gọi là khoáng bùa, được tiếng là thầy giỏi. Kỳ thực, khoáng bùa hay không khoáng bùa vẫn có kết quả như nhau, vì mực tàu gồm 2 chất quan trọng là muội nồi (Bách thảo sương) có tác dụng giải độc và trứng gà có tác dụng trị viêm lở ngoài da và làm lành vết thương.
- Đậu xanh hột (Lục đậu) tán bột, pha với nước lọc, phết lên vết thương nhiều lần. Giúp mát da, chóng lành, nhờ tính mát và giải độc rất mạnh.
- Vitamin E:400 IU, ngày 2 lần. Nếu là dầu, bôi lên vết thương. Có tác dụng làm dịu cơn đau, ngứa, giảm thương tổn do nhiễm độc và nâng cao khả năng lành bệnh.
- Vitamin A:25000 IU, ngày 2 lần trong 10 ngày. Phụ nữ có thai, nên dùng liều 5000 IU/ngày nhằm chống hư hoại tế bào, chống oxyt hoá.
- Vitamin C:1000mg và 500mg Flavonoids, ngày 3 lần. Nếu bị tiêu chảy nên giảm liều lượng. Giúp chống mệt nhọc, chống hư hoại tế bào.
- Lysine:1000mg L-lysine, ngày 3 lần trong tình trạng cấp tính. Lysine là một amino acid, giúp nâng cao việc chữa lành vết thương và bảo vệ tế bào da.
Dược thảo tổng hợp:
Huyền sâm 30g
Cát căn 90g
Mạch môn đông 30g
Trúc diệp 12g
Thăng ma 10g
Thanh hao 10g
Sinh hoàng kỳ 10g
Cam thảo 10g
Kim ngân hoa 30g
Ngưu bàng tử 10g
Goldenseal 08g
Echinacea 10g
Sắc uống ngày 1 thang trong 10 ngày. Nước nhất, đổ 3 chén nước, sắc còn 8/10 chén, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 2 chén rưởi nước, sắc còn ½ chén, uống hết 1 lần.
Công dụng:hạ sốt, chống đau nhức, giải độc, khoo mủ, mau lành.
Trong phương thang nầy có 2 vị Goldenseal (Hydrastis canadensis) và Echinacea (Echinacea angustifolia, E. pallida) giúp nâng cao hệ thống miễn nhiễm, kháng siêu vi gây bệnh Dời leo (Herpes virus) và các vi khuẩn gây nhiễm trùng ngoài da.
8. MỤN TRỨNG CÁ (Acne)
Mụn trứng cá (Acne) là một loại bệnh viêm da do tuyến bã nhờn (Sebaceous glands) tạo thành. Đây là bệnh phổ biến nhất ở lứa tuổi thanh thiếu niên, từ 10-20 tuổi, nhưng cũng thường xảy ra ở tuổi cao niên.
Mô tả:
- Phần lớn mọc ở mặt. Tỷ lệ mọc ở lưng, cổ, vai, ngực thấp hơn.
- Đặc điểm chung là có nhân cứng ở giữa, nổi cộm lên mặt da thường gọi là đầu đinh, màu trắng hoặc đen.
- Một vài trường hợp chân mụn trứng cá được bao phủ bởi một túi chất lỏng hoặc lớp bã nhờn rất cứng rắn.
Triệu chứng:
- Nhiều khối u nhỏ lồi lên mặt da.
- Mặt da ửng đỏ, sưng phồng.
- Có nhân cứng hoặc chứa dịch nhầy bên trong.
Nguyên nhân:
- Do tuyến bã nhờn nằm ở chân nang lông tiết ra quá nhiều chất nhờn. Cũng cần biết thêm, chất nhờn hay bã nhờn nguyên là một chất dầu, giữ vai trò điều hoà và nuôi dưỡng da, lỗ chân lông mạnh khoẻ.
- Do cách ăn uống không thích hợp như ăn nhiều đường, bột mì, chocolate, cheese…
- Do tác động bởi kích thích tố nam (androgen stimulation)
- Do di truyền (heredity), thuốc ngừa thai (oral contraceptives)
- Do dùng thuốc, như corticosteroids, iodides, phenytoin, lithium.
- Do dùng ỡ động vật, một số loại dầu, mỹ phẩm, hoá chất tẩy quần áo.
- Do căng thẳng tinh thần (emotional stress), môi trường xấu.
Điều trị:
Dược thảo đơn giản:
- Vitamin A: 25000 IU/ngày. Sau 1 tháng, nếu thấy giảm, hạ xuống 10000 IU/ngày. Vitamin A giữ vai trò quan trọng trong việc kiềm chế sản xuất chất bã nhờn quá nhiều, nguyên nhân chính tạo ra mụn trứng cá.
- Vitamin B6: 50mg mỗi buổi sáng. Giúp làm giảm mức độ trầm trọng của mụn trứng cá do chu kỳ kinh nguyệt (menstrual-cycles) hoặc mãn kinh (menopause) ở phụ nữ.
- Vitamin C: 1000mg, ngày 2 lần, giúp nâng cao hệ thống miễn nhiễm.
- Zinc/Copper: 30mg zinc và 2mg copper/ngày. Zinc giúp làm giảm nhiễm trùng, thúc đẩy sản xuất mức hormone cần thiết và dùng chung với Copper để duy trì sự cân bằng chất khoáng trong cơ thể.
- Flaxseed oil: 1 muỗng canh (14 grams)/ngày.
- Evening primrose oil: 1000mg, ngày 3 lần. Flaxseed oil và Evening primrose oil là hai nguồn acid béo tuyệt diệu nhầm làm giảm cường độ sản xuất chất dầu bã nhờn và vít lắp lỗ chân lông.
Nước rau quả tươi (fresh juices):
Carrot 08 ounces
Cucumber 05 ounces
Spinach 03 ounces
Beet 02 ounces
Dùng máy xay ly tâm (kiểu Juiceman Jr) ép lấy nước cốt. Uống ngày 1-2 lần lúc đói. Có công dụng kích thích nhu mô gan làm việc, tẩy độc cơ thể.
Dược thảo tổng hợp:
- Bài 1:(mụn sắc đỏ, nhẹ)
Tang bạch bì 20g
Đương qui 15g
Thuyên thảo căn 15g
Xích thược 15g
Đào nhân 15g
Mẫu đơn bì 10g
Hồng hoa 10g
Hắc chi tử 10g
Xuyên khung 10g
Ngưu bàng tử 12g
Liên kiều 20g
Bạch hoa xà thảo 20g
Hạ khô thảo 15g
Trần bì 15g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 chén nước, sắc còn 8/10 chén, uống 2 lần. Nước nhì, đổ 2 chén nước, sắc còn ½ chén, uống 1 lần.
- Bài 2:(mụn dày, vỡ mủ máu, phát sốt, nặng)
Đản sâm 20g
Bắc tử thảo 10g
Bạch hoa xà thảo 20g
Thần khúc 15g
Chế đại hoàng 10g
Dã cúc hoa 15g
Liên kiều 15g
Sinh hoàng kỳ 20g
Thuyền thoái 12g
Ngưu bàng tử 12g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 4 chén nước, sắc còn 1 chén, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 3 chén nước, sắc còn 7/10 chén, uống 1 lần.
Phòng ngừa:
- Nên ăn nhiều rau xanh.
- Uống đủ nước (6-8 cups/ngày).
- Tránh ăn mỡ động vật, thực phẩm đóng hộp.
- Tránh rượu, soda, chocolate, đường tinh chế.
- Tránh bị táo bón.
9. UNG THƯ DA (Skin Cancer)
(Xem tập 2, Chương Ung Thư)
Bài đọc thêm
NGHỆ TRONG Y HỌC
(Turmeric)
Nói đến nghệ, chắc chắn người Việt Nam chúng ta đều biết. Nghệ chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống, từ thành thị tới thôn quê, người giàu sang cũng như người nghèo khó. Nghệ làm gia vị, làm thuốc đau dạ dày, bôi lên vết thương để ngừa đóng sẹo, tất cả những công dụng thưởng thức đó tưởng chừng như đã được các bậc tiền nhân huấn luyện và thực nghiệm ngay từ lúc chúng ta vừa mới khô cuốn rốn. Sự hiểu biết đó rất quí, rất hữu ích; tuy nhiên, chung quanh củ nghệ vẫn còn ẩn chứa nhiều điều kỳ diệu mà chúng ta chưa khám phá hết. Sau đây xin chia sẽ một số lượng thông tin mới nhất về củ nghệ do các nhà nghiên cứu khoa học phổ biến. Dĩ nhiên, thông tin khoa học bao giờ cũng vô tư, thẳng thắn. Nhận định tốt hay xấu về một sự vật là phản ánh trung thực sự vật đó bằng ngôn ngữ chứ không nhằm công kích hoặc tâng bốc xuất phát từ động cơ kinh doanh. Nói rõ hơn, chủ đề nầy hoàn toàn không liên quan gì với món thuốc nghệ, một sản phẩm đang được quảng bá ngoài thị trường. Nếu có, chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
- Lịch sử:nghệ, củ cái hay than củ gọi là “Khương hoàng”, rễ nhánh gọi là “Uất kim”, tiếng Anh gọi là Turmeric, tên khoa học Curcuma longa, thuộc họ Gừng Zingiberaceae. Chúng ta cũng nên biết thêm dòng họ nghệ rất đông bà con, trong đó phải kể đến những tên chúng ta thường thấy hay nghe nói tới như: Thảo đậu khấu, Hồng đậu khấu, Riềng, Ích trí nhân, Dương xuân sa, Thảo quả, Sa nhân, Cát lồi, Nga truật, Địa liên, Gừng, Gừng dại, Gừng gió và nhiều giống Ngãi hoang vốn là thứ độc dược thường được nhóm người mệnh danh là thầy bùa thầy ngãi, chuyên dùng với mục đích lành ít dữ nhiều. Nói đến ngãi hoang, tức ngãi độc, ai nghe cũng sợ vì nó có khả năng giết người khi ăn nhầm, nhẹ lắm cúng làm viêm da hoại tử, lở loét khó lành. May thay các loài ngãi độc ở xa loài người, thường mọc tận các vùng rừng núi hoang vu, nhất là ở sườn phía Tây dãy Trường Sơn. Được biết các dân tộc miền Sơn cước thuộc 4 lân quốc Campuchia, Thái Lan, Lào, Miến Điện có rất nhiều ngãi độc. Nhiều thầy thuốc chuyên trị bệnh theo lối thần quyền, nghĩa là không dựa vào tính lý khoa học, thường mang ngãi độc về nuôi và dùng ngãi để phục cho những mục đích không được khuyến khích.
- Sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền:Nghệ có một chiều dài lịch sử đầy sắc thái sinh động, trải qua hằng nghìn năm kinh nghiệm dùng làm da vị, bảo quản thực phẩm, làm thuốc trị bệnh, làm thuốc nhuộm màu tại các quốc gia Á Châu như: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Camouchia và Việt Nam. Tại Ấn Độ, người dân đã biết sớm dùng nghệ để trị bệnh đau gan, bệnh đường tiết niệu và chứng ăn chậm tiêu. Nghệ còn được dùng bôi ngoài da để làm dịu cơn đau, đắp lên vết thương để chống viêm, ngăn chặn chứng phụ nữ đau bụng kinh, các bệnh về gan. Giữa lúc đó, các thầy thuốc y học cổ truyền Hy Lạp thuộc Châu Âu đã biết dùng nghệ bôi lên bụng sản phụ để giúp xoá đi những vết răn nứt trong thời kỳ mang thai. Về mặt công nghệ thực phẩm, nghệ là một loại cây cỏ làm chất nhuộm màu quan trọng. Nghệ có sắc vàng sáng chói nên người ta ứng dụng vào kỹ thuật nhuộm màu thực phẩm, nhuộm giấy, nhuộm gỗ, nhuộm mỹ phẩm, nhuộm tơ sợi. Ở Thái Lan, cả trăm nghìn bộ áo cà sa ,ới may được phật tử cúng dường cho các vị vhư tăng hằng năm được nhuộm bằng bột nghệ vàng.
- Tiến trình ứng dụng:
Rất lâu trước khi con người hiểu biết thế nào gọi là chống oxy-hoá và chúng làm việc ra sao để ngăn ngừa bệnh tật thì người tiền sử đã biết nâng cao sức khoẻ bằng cách sử dụng nghệ để làm món gia vị màu vàng.
1. Về Đông y:các thầy thuốc Y học cổ truyền Việt Nam cũng như Trung Quốc nhận xét về nghệ như sau:
- Nghệ có vị cay hơi đắng, tính ôn, đi vào 2 kinh Can và Tỳ tức là đi vào hệ thống tiêu hoá.
- Nghệ có tác dụng phá ác huyết, hành khí, thông kinh chỉ thống; chủ trị chứng tụ huyết do sang chấn, hông sườn đau xốc, bụng đau, cầm máu, phong thấp, sinh cơ tưc lên da non.
- Dùng ngoài da, nghệ có tài làm mất các vết sẹo lõm, sẹo lồi trong thời gian ngắn.
Ứng dụng vào đời sống, nghệ được nhắc tới nhiều qua một số bài thuốc dân gian sau đây:
- Chứng thổ huyết hay chảy máu cam: Dùng nghệ khô tánmịn, ngày uống 4-6g bột nghệ, phút chốc là cầm.
- Viêm loét dạ dày và tá tràng: công thức gồm có:
Bột nghệ xà cừ, tức nghệ già, 3 phần.
Hải phiêu tiêu, tức mai mực, nếu không có mai mực thì thay bằng vỏ trứng gà đã tẩy trùng và sấy giòn 3 phần.
Kê nội kim, tức lụa mề gà đã tẩy trùng và sấy khô, 1 phần.
Đem cả 3 vị tán bột mịn rồi luyện với mật ong, mỗi viên nặng 4g. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần một hoàn trước bữa ăn. Uống liên tục cho đến khi xét nghiệm thấy ổ loét lành thì thôi.
- Chữa mụn nhọt có mủ:Công thức gồm có:
Củ nghệ tươi 60g
Củ ráy 80g
Nhựa thông 40g
Sáp ong 40g
Dầu mè 80g
Trước hết đem củ ráy gọt bỏ vỏ, quết cho nhừ với củ nghệ, sau thêm nhựa thông, dầu mè, sáp ong vào lại giã nát như bùn rồi bắc lên bếp đun lửa nhỏ ngọn, trộn cho nóng chảy đều. Tiếp theo dùng rây lỗ nhỏ lọc lấy phần tinh chất, bỏ phần xác, để cho vừa nguội phết lên vải hay giấy bản rồi đắp vào vết thương. Chỉ ít lâu vết thương sẽ vỡ mủ, nếu không có mủ thì vết thương sẽ lành nhanh hơn.
- Trị chứng phụ nữ kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh: công thức gồm có:
Khương hoàng 5g
Nga truật 5g
Hồng hoa 5g
Quế chi 5g
Xuyên khung 5g
Bạch thược 10g
Diên hồ sách 10g
Mẫu đơn bì 10g
Đương qui 10g
Dùng 1 chén rượu 1 chén nước nấu uống, uống cho đến khi hành kinh bình thường thì thôi.
- Trị sản phụ đau bụng do ứ huyết: có nhiều trường hợp sau khi sinh con, người phụ nữ hay bị đau bụng co thắt hoặc đau ngầm là do huyết ứ chưa ra hết. Hãy dùng ngay Khương hoàng 10g, Quế chi 6g; tán bột uống 2-3 lần với chút rượu nhạt, trong 1-2 hôm là yên.
- Trị xơ gan:
Khương hoàng 8g
Uất kim 8g
Sài hồ 8g
Liên kiều 8g
Mộc hương 8g
Đương qui 15g
Bạch thược 15g
Bạch truật 15g
Cam thảo 3g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Trị sỏi mật:
Uất kim 10g
Hải kim sa 10g
Kê nội kim 5g
Kim tiền thảo 30g
Nấu uống hằng ngày thay nước trà, trong vòng 1-2 tháng sỏi mật sẽ tan. Khương hoàng hay Uất kim có tác dụng kích thích tăng tiết mật làm giảm các mảng xơ vữa bám trong ống dẫn mật, trong nội mạc mạch vành và động mạch chủ nên sỏi mật khó lòng tích tụ trong túi mật.
2. Về Y học hiện đại:ngày nay, các nhà khoa học đã nhận diện được sức mạnh của chất chống oxy-há từ nghệ. Mặc dù về lâm sàng học, nghệ vẫn còn nằm ở vị thế khiêm tốn nhưng đa số thầy thuốc chuyên khoa và các nhà nghiên cứu đang dần dần sử dụng nghệ vào một số lãnh vực y tế như: trị các chứng viêm loét, bong gân, đau khớp, sưng bầm, bệnh ngoài da. Sau nhiều thế kỷ chiêm nghiệm, gần đây các thầy thuốc y học hiện đại đã công khai chuyển món nghệ từ nhà bếp lên tủ thuốc gia đình, dùng nghệ để trị bệnh viêm khớp (arthritis) và nhiều chứng viêm tấy (inflammations) khác nữa. Vì sao y học hiện đại đánh giá đúng chức năng dược lý của nghệ? Sau đây là một số lý do được dẫn:
- Phân tích thành phần hoá học:trong nghệ có chất khương hoàng tố màu vàng Curcominoids, trong đó chủ yếu là Curcumin, 1 chất dầu dễ bay hơi gồm turmerone, atlantone và zingiberone chiếm tỷ lệ khoảng 3-5%, chất resin, tinh bột, oxalate calci, chất đắng và chất béo.
- Theo tiến sĩ James A. Duke Hoa Kỳ cho biết hợp chất Curcumin trong nghệ có tác dụng giống như chất “Prostaglandins” được tổng hợp trong cơ thể con người. Nó liên hệ đến việc khống chế cơn đau tương tự như tác động của thuôc Aspirin và Ibuprofen, chỉ kém chút ít mà thôi. Khi dùng liều cao, chất Curcumin kích hoạt tuyến thượng thận giảm bớt tiết xuất chất cortisone và làm giảm tình trạng bị viêm, vì viêm thường là nguyên nhân gây đau nhức.
- Theo Andrew Chevallier, chuyên viên ngành hoá hữu cơ Hoa Kỳ giải thích thêm, từ năm 1971 đến năm 1991, một công trình nghiên cứu về nghệ kéo dài 20 năm đã đưa ra nhận định sau: Nghệ làm giảm mức cholesterol, chống oxy-hoá bằng cách trung hoà gốc tự do độc hại (harmful free radicals) và tác dụng của nó mạnh hơn vitamin E. Chất Curcumin còn kháng vi khuẩn rất mạnh, làm tăng tiết mật để giúp bảo vệ gan và dạ dày.
Vậy nghệ hoạt động như thé nào? Nhièu cuộc khảo sát gần đây đưa ra nhận xét: thành phần chống oxy-hoá Curcuminoids, gồm chất Curcumin, là nhân tố chính tạo nên thành tích bảo vệ sức khoẻ của nghệ. Các nhà nghiên cứu đã cho thử đi thử lại trên con người nhiều lần đều ghi nhận nghệ và chất curcumin có tác động như một loại thuốc tẩy hay người phu quét đường, thu dọn và tống xuất gốc tự do (free radical), ngăn ngừa chất oxy-hoá thành lập trong cơ thể. Ngoài ra, nghệ cũng còn nâng cao hệ thống chống oxy-hoá một cách mạnh mẽ.
Về lâm sàng, các tác dụng của nghệ được kiểm chứn như sau:
1. Tác dụng chống viêm:Năm 1986, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã cho thực nghiệm một cuộc khảo sát bằng phương pháp mù đôi (double-blind) giữa nghệ và thuốc chống viêm không có chất steroid là Phenylbutazone với 45 bệnh nhân đàn ông bị chứng phù thũng (edema) và hư hỏng ống tinh hoàn (spermatic cord) gây thoát vị (hernia) hoặc tràn dịch tinh mạc (hydrocele) đã được phẫu thuật hiệu chỉnh dẫn tới tình trạng viêm hậu phẫu (postoperative inflammation). Sau 6 ngày điều trị, 13 bệnh nhân dùng chất curcumin với liều 450mg, ngày uống 3 lần, nhận thấy viêm và cường độ đau nhức chỗ mổ và khu vực lân cận giảm 4 lần hơn so với 14 bệnh nhân dùng thuốc Phenylbutazone với liều 100mg, ngày 3 lần chỉ giảm có 3 lần; riêng 18 bệnh nhân dùng placebo, tức phương pháp trấn an chứ không có thuốc thật, thì thấy vết thương bị viêm nặng phải dùng ngay thuốc kháng sinh ampicillin để điều trị.
2. Tác dụng chống viêm khớp:Năm 1980, trong một cuộc khảo sát nhỏ bằng phương pháp mù đôi (double-blind) với 18 bệnh nhân bị chứng viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis) có các dấu hiệu cứng khớp vào buổi sáng, sưng khớp gây đau khớp thường xuyên. Sau 2 tuần lễ điều trị bằng Curcumin với liều 1200mg/ngày hoặc thuốc chống viêm Phenylbutazone với liều 300mg/ngày, các nhà nghiên cứu ghi nhận cả 2 nhóm đều cảm thấy cơn đau giảm tốt như nhau, trong đó 10 người dùng curcumin phát biểu cơ thể cho cảm giác ấm áp và sảng khoái rõ rệt sau 3-4 ngày đầu.
3. Tác dụng hạ cholesterol và chất béo:Năm 1992, một nhóm nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cho làm một cuộc kiểm nghiệm nhỏ về nghệ với 10 người tình nguyện có các chỉ số cholesterol và chất béo trong máu cao hơn mức qui điịnh. Sau 7 ngày điều trị bằng curcumin với liều 500mg/ngày, ghi nhận nồng độ chất béo trong huyết tương giảm 33% và cholesterol toàn phần trong huyết tương giảm 11.65%. Một dấu hiệu khác xảy ra song song là mức mỡ tốt (high-density lipoprotein – HDL) tăng lên đến 29%. Các nhà nghiên cứu đưa ra kết luận: Nhờ tác động chống oxy-hoá, nghệ có giá trị chẳng những về mặt kiểm soát sản lượng cholesterol thặng dư mà còn ngăn chặn chứng xơ vữa động mạch (atherosclerosis), giúp mạch máu bền bỉ và co dãn tốt hơn.
4. Ngăn ngừa ung thư (cancer):nên nhớ rằng khoái thuốc lá vốn là nguồn cung ứng chính về các chất độc hại và chất gây ung thư (carcinogens). Những người nghiện thuốc lá, chất gây đột biến (mutagens) trong nước tiểu bao giờ cũng cao hơn người bình thường. Vào năm 1992, các nhà khảo sát cho 16 người nghiện thuốc lá nặng uống bột nghệ với liều 1.5g/ngày trong 30 ngày liền. Kết quả, nhóm 8 người dùng bột nghệ đều có dấu hiệu giản rõ mức mutagen trong nước tiểu, trong khi 8 người khác dùng placebo thì không có dấu hiệu thay đổi. Các nhà nghiên cứu đồng thuận ý kiến là nghệ có tác dụng chống chất gây đột biến, đầu mối dẫn tới việc thành lập ung thư. Cho nên, thường xuyên dùng nghệ để ngăn ngừa ung thư là một giải pháp đáng tin cậy.
Để kết luận, Bác sĩ Andrew Weil nhận định: Nghệ, trước hết là loại thực phẩm được sử dụng rất lâu đời và rất an toàn, không tìm thấy một thứ độc tố nào, các cuộc nghiên cứu cũng chưa phát giác một điều bất lợi nào đối với sức khoẻ, không gây tác dụng phụ cho dù dùng liều cao hơn mức qui định.
Về liều dùng:
- Nếu để chống viêm, có thể dùng 8-60g nghệ tươi/ngày hoặc 400-600mg bột nghệ khô, ngày 3 lần.
- Nếu để duy trì sức khoẻ và cần tác dụng chống oxy-hoá, có thể dùng ngày 3 lần, mỗi lần một viên capsule chứa 450mg bột nghệ.
- Nếu để trị bệnh, liều thông dụng từ 400-600mg chất curcumin, ngày 3 làn. Đây là dạng chiết xuất tinh chất theo tiêu chuẩn quốc tế đạt mức 95% thành phần curcuminoids.
- Nếu ở dạng tươi, nguyên củ, dùng từ 2-6g/ngày hoặc cao hơn chút ít nếu cần.
Tuy nhiên, theo lời khuyên của các nhà chuyên môn như tiến sĩ James B. Lavalle, Bác sĩ Allan N. Spreen và Janet Zand Hoa Kỳ, những phụ nữ có thai tránh dùng nghệ hay curcumin vì nhiều cuộc khảo sát trong phòng thí nghiệm cho thấy nghệ có tác dụng kích thích ống dẫn tiểu. Nghệ còn làm tăng tiết mật nên những người có dấu hiệu tắt ống dẫn mật cũng không nên dùng. Như vậy, những ai bị sỏi mật hay sạn mật cũng nên tham khảo ý kiến với Bác sĩ trước khi dùng nghệ.
CHƯƠNG 2
HỆ THỐNG XƯƠNG - KHỚP
(Bone – Joint System)
TỔNG QUÁT
- Xương hình thành một cái khung (framework) bên trong cơ thể.
- Xương kiến tạo một hàng rào, bảo bọc và bảo vệ các cơ quan.
- Xương giữ nhiệm vụ chống đỡ sức nặng, góp phần phát triển cơ thể.
- Xương kết hợp với gân, bắp thịt, siết chặt khớp, giúp sự di chuyển.
- Xương tồn trữ hầu hết các chất calcium, phosphorus và nhiều chất khoáng khác như muối magnesium rất cần cho cơ thể.
- Nhờ tuỷ (marrow) chứa bên trong ống xương, tế bào máu (hematopoiesis, blood cell) mới được thành hình.
- Nhờ bộ xương cấu trúc đặc biệt, con người mới có chiều cao và đứng vững lâu dài trên đôi chân.
CẤU TRÚC (Structure):
1. Phân loại:
- Ở người lớn có tất cả 206 xương.
- Xương được cấu tạo dưới 2 dạng căn bản: Xương đặc (compact bone) và xương xốp (spongy bone).
- Xương có nhiều kích thước dài, ngắn, to, nhỏ, tròn, dẹt khác nhau tuỳ vị trí và nhiệm vụ.
2. Phân nhóm:
Bộ xương được chia thành 2 nhóm chính: nhóm xương xoay quanh trục và nhóm xương quanh ruột thừa.
a. Nhóm xương xoay quanh trục (axial skeleton):
Xếp theo chiều dọc của cơ thể, gồm có 3 phần: Xương đầu (skull), xương sống (spine, vertebral column) và xương ưc hay xương ngực (sternum, bony thorax).
* Xương đầu:được thành lập bởi 2 khối xương:
- Xương sọ (cranium):bao bọc và bảo vệ màng não, rất dễ vỡ. Xương sọ gồm có 8 mảnh xương dẹt, lớn, xếp lại giống như một cái hộp gọi là hộp sọ. Xương sọ gồm có các xương sau đây:
- Xương trán (frontal bone) là khối xương bảo vệ cho đôi mắt an toàn ở vị trí phía trước và trợ lực bằng cơ mặt để điều khiển cảm ứng qua nụ cười hay cau mày. Đặc biệt, chỉ có xương đầu là được kết dính với nhau bằng những đường khớp (sutures) và chỉ có xương hàm dưới (mandible, jawbone) là được đính vào một điểm bất động của xương đầu bằng một khớp di động tự do.
- Xương chỏm (parietal bones) áp 2 bên cạnh và đỉnh của hộp sọ.
- Xương thái dương (temporal bones) nằm bên dưới xương chỏm, ngoài hốc mắt.
- Xương chẩm (occipital bone) nằm phía sau ót.
- Xương bướm (sphenoid bone) nằm giữa xương trán và xương thái dương.
- Xương gốc mũi (ethmoid bone) nằm bên trong hốc mắt, gần gốc mũi.
- Xương mặt (facial bones): được cấu tạo bởi 14 mảnh xương, 12 mảnh hợp thành từng đôi (2 bên), chỉ có xương hàm dưới (mandible) và xương lá mía (vomer) nằm giữa sóng mũi là một mảnh. Xương mặt gồm các sương sau đây:
Xương hàm trên chiếm cả một vùng rộng lớn bao quanh má, tới góc mũi gần xương trán và xuống tận chân răng hàm trên.
Xương vòm miệng (palatine bones), nằm sâu phía xương hàm trên.
Xương gò má nằm viền ngoài hốc mắt.
Xương tuyến lệ nằm giữa hốc mắt và nhánh trên xương hàm trên, cạnh hóc xương mũi. Mỗi xương tuyến lệ có một đường rãnh (groove) nhằm đáp ứng việc dẫn nước mắt chảy ra.
Xương mũi (nasal bones), là loại xương nhỏ hình chữ nhật, phủ lên hốc mũi như một chiếc cầu và phần dưới được làm bằng chất sụn (cartilage).
Xương lá mía (vomer bone), nằm ở giữa hốc mũi và trải dài theo chiều dọc như mội vách ngăn đôi hốc mũi.
Xương xoăn mũi dưới (inferior nasal conchae), là loại xương nhỏ hình cong, nhô ra từ hai bên vách hốc mũi. Thêm nữa, còn có xương xoăn mũi giữa (middle conchae) và xương xoăn mũi trên (superior conchae).
Xương hàm dưới (mandible bone, lower jaw), là mảnh xương lớn nhất và mạnh nhất ở vùng mặt. Hai đầu nối liền xương thái dương mỗi bên, phía dưới bọc lấy cằm.
Ngoài ra, còn một mảnh xương khá lạ có tên là xương móng (the hyoid bone), không thuộc xương sọ mà cũng chẳng liên hệ gì với các nhóm xương khác. Nó có hình móng ngựa (horseshoe-shaped) đính ở khoảng giữa trước cổ, trên thanh quản (larynx) chừng 2cm (1 inch), hai đầu được buộc chặt vào hai xương thái dương bằng những sợi dây chằng (ligaments). Nhiệm vụ của xương móng là giúp cho lưỡi và thanh quản cử động dễ dàng mỗi khi nói hay nuốt nhờ điểm nối với bắp thịt cổ.
* Xương sống(vertebral column, spine) giữ vai trò như một cột chống đỡ cơ thể, kéo dài từ xương sọ đến khung chậu (pelvis). Xương sống gồm có 26 xương không đồng nhất (irregular bones), liên kết và củng cố với nhau bằng hệ thống dây chằng (ligaments) tạo sự mềm dẻo, uốn cong được. Chạy suốt trong lòng cột sống là tuỷ sống (spinal cord) cấu tạo rất tinh vi.
Lúc chưa sinh ra, xương sống gồm có 33 đốt gọi là đốt sống (vertebrae), trong đó 9 đốt ở phần cuối hợp lại thành 5 đốt xương cùng (sacrum) và 4 đốt xương cụt (coccyx); 24 đốt còn lại, gồm 7 đốt sống cổ (servical vertebrae), 12 đốt vùng ngực và 5 đốt vùng thắt lưng (lumbar vertebrae).
Các đốt sống cách nhau bằng những miếng đệm (pads) mềm dẻo làm bằng chất xơ sụn (fibrocartilage) gọi là đĩa gian đốt sống hay đĩa cách đốt sống (intervertebral discs) với chức năng chống sốc. Lúc trẻ, trong đĩa sụn chứa một tỷ lệ nước rất cao (khoảng 90% nước), xốp và nén được. Đến khi lớn, lượng nước giảm dần và đĩa sụn trở nên khô hơn, ít tính đàn hồi hơn.
Đĩa sụn khô sẽ làm suy yếu dây chằng cột sống, dẫn tới tình trạng thoát vị đĩa đệm (herniated discs) ở người già. Nếu đĩa đệm bị nhô ra, tiếp tục kéo theo tuỷ sống (spinal cord) hay thần kinh cột sống (spinal nerves) ra khỏi cột tuỷ, sẽ gây sự tê liệt (numbness) và người bệnh cảm thấy rất đau đớn.
Đĩa đệm và cột sống có hình cong chữ S đóng vai trò chống sốc, giữ cho đầu giảm bị tổn thương khi đi bộ hay chạy, đồng thời giúp toàn thân linh hoạt, uốn cong được. Tình trạng bị vẹo cột sống (spinal curvatures) ngực và vùng xương cùng (sacral regions) có liên quan đến dị dạng vào thời kỳ mới sinh, cả giai đoạn thai nhi tăng trưởng phần sọ não và lúc trẻ con tập đi. Có nhiều hình thái vẹo cột sống nhưng thường thấy dưới 3 dạng: dạng vẹo ngang (scoliosis), dạng lưng gù (kyphosis) và dạng ưỡn cột sống (lordosis).
- Xương cổ (cervical vertebrae):gồm 7 đốt xương, đánh số từ C1 đến C7 trên banmgr nhận dạng, nằm ở vùng cổ.
Hai đốt đầu tiên mang tên atlas và axis, giữ nhiệm vụ khác với 5 đốt còn lại. Đốt thứ nhất (atlas – C1), không có phần thân (body), mặt trên tiếp xúc với lồi cầu xương chẩm (occipital condyles) của xương sọ, giúp ta gật đầu hay cúi đầu. Đốt thứ hai (axix – C2) làm trụ cho xương sọ và xương atlas gác lên (giống như cối có 2 thớt) tạo chuyển động theo chiều ngang, giúp ta xoay trái xoay phải hoặc lắc đầu dễ dang.
Năm đốt xương cổ mang danh số từ C3 đến C7, là loại xương nhỏ nhất và nhẹ nhất, có gai (spinous) ngắn hai bên, phía trong có lỗ (foramina) để động mạch đốt sống (vertebral arteries) đi lên tới não bộ.
- Xương sống vùng ngực (thoracic vertebrae). Gồm 12 đốt mang danh số từ T1 đến T12, là nhóm xương rất đặc trưng, lớn hơn xương cổ. Thân xương có hình tim và nửa mặt khớp mỗi bên có khớp nối với đầu xương sườn (ribs). Gai xương dài và có mấu nhọn quay xuống dưới.
- Xương thắt lưng (lumbar vertebrae). Gồm 5 đốt mang danh số từ L1 đến L5, khá to, ngắn, gai nhọn như lưỡi búa. Hầu hết việc căng kéo trên cột sống đều xảy ra ở vùng thắt lưng (lumbar region). Những đốt sống này được xem là cứng cáp, khỏe mạnh nhất trên cột sống.
- Xương cùng (sacrum). Thành hình do hỗn hợp của 5 đốt xương sống, trên nối với đốt xương sống L5, dưới nối với xương cụt (coccyx), hai bên có 2 phiến xương trông như cánh bay (alae) nối với xương hông (hip bones) lập thành khớp cùng chậu (sacroiliac joints). Xương cùng nằm ở vách sau khung chậu (pelvis).
- Xương cụt(coccyx): Thành hình do hỗn hợp bởi 3 đến 5 xương nhọn không đều, được gọi là “đuôi người (human tailbone)”, một chỉ dấu còn sót lại của loài vật có xương đuôi.
* Xương ngực (bony thorax): Còn gọi là xương lồng ngực (thoracic cage), được cấu tạo bởi xương ức (sternum), xương sườn (ribs) và các đốt xương sống ngực (thoracic vertebrae). Nó gồm những mảnh xương thon, mỏng, giống như cái lồng hình nón, bao bọc và bảo vệ các cơ quan: Tim, phổi và những mạch máu chính.
- Xương ức (sternum, breastbone): Nằm ở giữa ngực, trải theo chiều dọc, là loại xương phẳng và dẹt, kết hợp bởi 3 xương: xương chouui ức (manubrium) ở trên, xương thân ức (body) ở giữa và xương mũi ức (xyphoid) ở dưới. Nó được nối với 7 cặp xương sườn đầu tiên, tính từ trên xuống. Vì lý do xương ức bảo bọc mặt ngoài hầu hết các cơ quan trọng yếu nên cũng được thầy thuốc chọn làm nơi lấy mẫu chất tạo huyết (hematopoietic) để chẩn đoán bệnh và điều trị.
- Xương sườn (ribs): Có 12 cặp, tạo thành một cái lồng hình nón. Tất cả xương sườn nối với xương cột sống ở phía sau và cong xuống dần về phía trước ngực. Xương sườn thật (true ribs) gồm 7 cặp đầu tiên, nối trực tiếp với xương ức bởi sụn sườn (costal cartilages). Xương sườn giả (false ribs) có 5 cặp, 3 cặp đầu nối với xương ức và 2 cặp sau chìa ra như cánh tay, không nối với xương nào cả, nên được gọi là xương sườn lơ lửng (floating ribs).
b. Nhóm xương vùng ruột thừa (appendicular skeleton): Có tất cả 126 xương, gồm xương vai (shoulder girdle), xương tay chân (limbs) và xương chậu (pelvic girdle). Ngoài ra, còn có các khớp xương (joints), giữ vai trò vừa kềm chặt các xương với nhau vừa giúp cho sự di chuyển được dễ dàng. Nơi đây gồm các xương:
- Xương vòng ngực (bones of shoulder or pectoral girdle), mỗi xương lại có 2 mảnh xương: 1 xương đòn (clavicle) và 1 xương vai (scapula).
- Xương đòn, còn gọi là xương quai xanh (clavicle, collarbone), là loại xương mảnh dẻ, cong ở 2 đầu, đầu trong nối với xương chuôi ức (manubrium), đầu ngoài nối với xương vai để tạo thành khớp vai (shoulder joint). Tác động của xương vai như 1 cầu nối, giữ chặt cánh tay với xương ngực và ngăn ngừa vai trật khỏi khớp (dislocation). Khi xương đòn bị gãy, cả vùng xương vai sẽ bị lún sụp ở giữa.
- Xương vai, còn gọi là xương bả vai (scapula, shoulder blades), hình tam giác, xòe ra như cái cánh khi chúng ta vận động cánh tay về phía sau. Mỗi xương vai có 1 thân dẹt và 2 mỏm (mấu) quan trọng: xương mỏm vai (acromion) và xương mỏm quạ (coracoid). Xương mỏm vai nối với đầu ngoài xương đòn, còn xương mỏm quạ nằm trên đỉnh vai có các bắp thịt cánh tay bấu chặt vào.
- Xương tay(bones of the upper limbs): Tổng cộng có 30 xương, gồm xương cánh tay (arm), xương cẳng tay (forearm) và xương bàn tay (hand).
- Xương cánh tay (arm, humerus): Là loại xương đơn, dài, một đầu gắn vào xương vai nhờ bắp thịt vai giữ chặt, đầu kia đính vào xương cẳng tay nhờ một phiến xương lồi (capitulum) trông giống như ống chỉ gọi là ròng rọc xương cánh tay (trochlea of humerus) nằm lọt giữa rảnh xương cẳng tay; nhờ vậy mới có thể gập cong ở vùng khủy tay (elbow).
- Xương cẳng tay (forearm): Có 2 xương gồm xương quay (radius) và xương trụ (ulna). Xương quay nằm về phía ngón tay cái, còn xương trụ nằm cùng chiều với ngón tay út. Đầu trên của xương quay nối với lồi cầu xương cánh tay (capitulum of humerus), đầu dưới ráo vào lồi củ xương quay (radial tuberosity) nhờ gân của cơ nhị đầu (biceps) bám giữ trong khi đầu trên xương trụ lại phân thành hình mỏm vẹt (coronoid process) và mỏm khuỷu (olecranon process) do đường khuyết ròng rọc (trochlear notch) ở giữa giữ khớp xương khuỷu tay chặt cứng như một cây kềm.
- Xương bàn tay (hand) gồm có xương cổ tay (carpals), đốt xương bàn tay (metacarpals) và đốt xương ngón tay (phanlanges). Xương cổ tay (carpal bones) có 8 xương xếp thành 2 hàng không đều, mỗi hàng 4 cái, gọi chung là khối xương cổ tay (carpus) hay cườm tay (wrist). Xương bàn tay (metacarpals) gồm có 5 đốt, mỗi đốt nằm ở 1 vị trí, xòe ra như nang quạt, đầu trong nối với xương cổ tay, đầu ngoài nối với xương ngón tay. Xương ngón tay (phalanges) được đánh số từ 1 đến 5, bắt đầu từ ngón tay cái (thumb). Mỗi bàn tay có 14 đốt xương ngón tay xếp thành 3 lớp: Lớp ở gần giữa (proximal) 5 đốt, lớp ở giữa (midle) 5 đốt, và lớp ngoài cùng (distal) 4 đốt (ngón cái không có).
- Xương hố chậu (bones of the pelvic girdle): Được phân thành 2 vùng: Vùng giả (false pelvis) ở trên và vùng thật (true pelvis) ở dưới, thành lập bởi 2 xương khớp háng (coxal bones, ossa coxae), còn gọi là xương hông (hip bones). Cùng với xương cùng (sacrum) và xương cụt (coccyx), xương hông tạo ra xương hố chậu (bony pelvis). Mỗi xương hông được kết hợp bởi 3 loại xương: Xương chậu (ilium), xương ụ ngồi (ischium) và xương mu (pubis).
- Xương chậu: Nối với xương cùng tại khớp xương cùng chậu (sacroiliac joint), bên trên nó là xương mào chậu (iliac crest).
- Xương ụ ngồi (ischium): Là phần dưới của xương khớp háng (coxal bone), chịu toàn bộ trọng lượng của cơ thể khi ngồi, bên trên có xương gai ụ ngồi (sichial spine).
- Xương mu (pubis): Nằm ở phía trước xương khớp háng, hợp lại bởi hai xương mu trước và xương chậu sau tạo thành 1 cái vòm cho mạch máu và dây thần kinh xuyên qua tới vùng trước đùi. Cả 3 xương chậu, ụ ngồi và xương mu hợp lại thành 1 cái hốc gọi là ổ cối (acetabulum) để cho đầu xương đùi tì vào.
- Xương chân (bones of the lower limbs): Chịu tất cả sức nặng cơ thể khi chúng ta đứng thẳng. Do đó, xương chân được cấu tạo bởi 3 phần: Xương đùi (thigh), xương ống chân (leg) và xương chân (foot), to hơn và mạnh hơn xương tay rất nhiều.
- Xương đùi (thigh, femur): Là loại xương đơn, nặng nhất, mạnh nhất trong cơ thể. Đầu trên giống 1 quả banh, có cổ với 2 mấu chuyển to ở trên và nhỏ hơn phía dưới cổ. Đầu trên xương đùi nối vào ổ cối của xương hông, còn thân thì nghiêng vào giữa và chạy xuống hướng khớp ống chân. Điều này giúp cho đầu gối (knees) nằm đúng trên đường trung tâm trọng lực của cơ thể.
- Xương ống chân (leg): Gồm có 2 xương, xương chày (tibia) và xương mác (fibula). Xương chày (tibia shinbone), hình dáng giống như cái chày với 2 đầu phình ra, thân nhỏ, kích cỡ lớn và thẳng hơn xương đùi. Đầu trên nối vào xương đùi (femur) nhờ lồi cầu ngoài (lateral condyle), lồi cầu trong (medial condyle) và mỏm gian lồi cầu (intercondylar eminence) ở giữa tạo thành khớp xương đầu gối (knee joint). Mặt ngoài, có đĩa xương bánh chè (patellar, kneecap) phủ kín lồi củ « ;mk]’xương chày (tibial tuberosity) bằng hệ thống dây chằng (ligament) bám chặt, đầu dưới xương chày phồng lên tạo ra xương mắt cá trong (medial malleolus). Còn xương mác (fibula) nằm song song với xương chày, mảnh, giống như que củi. Xương mác không góp phần tạo ra khớp gối, đầu trên tựa vào phía dưới lồi cầu ngoài, đầu dưới phồng lên tạo ra xương mắt cá ngoài (lateral malleolus).
- Xương chân (foot): Gồm xương cổ chân (tarsals), xương bàn chân (metatarsals) và xương ngón chân (phanlanges). Xương chân giữ 2 nhiệm vụ quan trọng: Chịu đựng toàn bộ sức nặng cơ thể và đóng vai như một đòn bẩy cơ thể tiến về phía trược khi chúng ta chạy hay đi bộ.
- Xương cổ chân (tarsals):Được cấu tạo ở vị trí nửa sau của bàn chân, gồm có 7 phiến xương (tarsal bones) sắp xếp không đều. Trọng lượng cơ thể, hầu hết cịu trên 2 phiến lớn nhất mang tên xương gót (calcaneus, heelbone) và xương mắt cá (talus, ankle), nằm giữa xương chày và xương gót.
- Xương bàn chân (metatarsals): Gồm 5 lóng.
- Xương ngón chân (phalanges): Gồm 14 lóng tạo ra các ngón chân (toes). Giống như xương ngón tay, mỗi xương ngón chân có 3 lóng, ngoại trừ ngón cái (great toe) chỉ có 2 lóng.
- Khớp xương (joints): Ngoại trừ cấu trúc đặc biệt của xương cổ, mỗi xương trong cơ thể đều có ít nhất 1 khớp nối với một xương khác. Khớp xương có 2 nhiệm vụ: Bảo đảm an toàn giữa các xương và giúp cho xương chuyển động được bền vững. Khớp xương được phân thành 2 dạng: Theo chức năng (functional classification) và theo cấu trúc (structural classification).
- Theo chức năng: Lệ thuộc vào điều kiện chuyển động và chấp nhận của các khớp xương. Nên nhớ rằng, khớp xương cũng có 3 kiểu: Kiểu khớp bất động (synarthroses) không chuyển động được, kiểu khớp bán động (amphiarthroses) chuyển động được chút ít như khớp quanh trục và kểi khớp động (diarthroses) chuyển động tự do như khớp tay chân.
- Theo cấu trúc: Gồm có khớp sợi (fibrous joints), khớp sụn (cartilaginous joints), khớp sụn (cartilaginous joints) và khớp hoạt dịch (synovial joints), như đường khớp (sutures) ở hộp sọ, do mô sợi liên kết nhau đóng chặt các khe hình răng cưa không cho khớp di động. Khớp xương chày và xương mác cũng là dạng khớp sợi (syndesmosis). Khớp sụn (cartilagionus joints) nằm ở đầu khớp được cấu tạo bằng chất sụn (cartilage), loại này có khớp bán động xương mu (pubic symphysis) ở khung chậu và các khớp gian đốt sống (intervertebral joints) ở cột sống lưng. Khớp hoại dịch (synovial joints), trong mỗi đầu khớp có chứa chất lỏng hoạt dịch với cấu trúc gồm 4 đặc điểm: Sụn khớp (articular cartilage), sợi bao khớp (fibrous articular capsule), ổ khớp (joint cavity) và dây chằng củng cố (reinforcing ligaments.
3. Tiến hành hóa xương (Process of ossification)
- Xương được thành lập nhờ 2 mô (tissues) mạnh nhất và trợ lực nhiều nhất: Mô sụn (cartilage) và mô xương (bone). Bên trong phôi (embryos), trước nhất, hầu hết xương được làm bằng chất sụn trong suốt (hyaline cartilage) ngoại trừ xương dẹt (flat bones) được làm bằng chất màng sợi (fibrous membranes). Khi tuổi trưởng thành, phần lớn chất sụn nầy được thay thế bằng xương. Số sụn còn lại chỉ được duy trì ở một vài vị trí đặc biệt như sống mũi, bộ phận của sườn và khớp xương.
- Sự hóa xương (ossification) đòi hỏi 2 bước quan trọng: Thứ nhất, qui trình chất sụn trong suốt phải được phủ kín một cách hoàn hảo theo khuôn mẫu của những tế bào tạo xương (bone – forming cells hay osteoblasts). Thứ hai, chất sụn trong suốt được chuyển hóa, tiêu đi và tạo ra ống tủy (medullary cavity) bên trong khối xương mới thành lập.
- Xương là loại mô năng động, luôn luôn sữa chữa và tái cấu trúc khi bị hư hỏng. Phản ứng nầy hoàn hảo hay không tùy thuộc vào 2 nhân tố: Thứ nhất, mức độ của calcium đủ hay thiếu. Thứ hai, sức căng kéo của trọng lực (gravity) và cơ bắp (muscles) tại chỗ.
B. BỆNH XƯƠNG KHỚP
(Bone – Joint Diseases)
1. Gãy xương (Bone fractures)
Nguyên nhân
Gãy xương do nhiều nguyên nhân: tai nạn dụng xe, ngã té, chơi thể thao, bị hành hung bằng vật dụng cứng và nặng. Ngoài ra, gãy xương còn do tình trạng loãng xương (osteoporosis, osteoporotic bones) hay xương yếu ở những người cao tuổi. Gãy xương được chia thành 6 hình thái khác nhau:
- Gãy xương đơn giản còn gọi là gãy xương kín (closed fracture): xương gãy gọn, không đâm thủng mặt da.
- Gãy xương kép còn gọi là gãy xương hở (open fracture): Đầu xương gãy lòi ra khỏi mô mềm (soft tissues) và mặt da.
- Gãy xương vụn (comminuted type): xương gãy thành nhiều mảnh, đoạn to nhỏ khác nhau.
- Móp xương (compression, depressed type): xương bị ép cong lõm hoặc cong lồi. Dạng gãy này thường xảy ra ở xương đầu.
- Gãy xương dao động (impacted, spiral type): Đầu xương gãy tạo ra xung lực mạnh làm gãy thêm một vị trí khác. Ví dụ: một người rơi thẳng đứng, ngoài việc gãy xương hông hay đùi, còn tạo chấn động phản lực làm gãy thêm xương cánh tay cùng bên.
- Gãy xương dạng cong (greenstick type): Xương gãy không hoàn toàn, chỉ cong lại. Dạng gãy này thường xảy ra ở cánh tay ngoài của trẻ con nhờ chất tạo keo (collagen) mềm dẻo và dễ uốn chứa bên trong khối xương.
Hồi phục gãy xương (Repair of bone fractures):
Theo y học hiện đại:
Sự tái tạo xương, thông thường trải qua 4 giai đoạn:
1. Khối tụ máu (hematoma) thành lập. Bởi vì, khi xương gãy, các mạch máu bị vỡ đứt làm gián đoạn
lưu thông và chất dinh dưỡng của tế bào xương cũng bị hủy hoại. Việc máu tụ lại thành khối ở chỗ gãy là điều rất cần thiết để xương chóng cấu trúc lại.
2. Chỗ gãy được phủ dày đặc bằng chất chai xơ sụn (fibrocartilage callus) gồm các thành tố như khuôn sụn (cartilage matrix), khuôn xương (bony matrix) và sợi collagen (collagen fibers). Chất này giúp cho những mao mạch mới (new capillaries) sinh ra bên trong chỗ khối máu tích tụ (giai đoạn 1) đồng thời để các thực bào (phagocytes) loại bỏ đi mô chết.
3. Xương sẽ được sinh sản bằng cách nhiều tế bào tạo xương (osteoblasts) và tế bào hủy xương (osteoclasts) lan rộng khắp nơi để sôi nảy nở thêm lên, xơ sụn (fibrocartilage) dần dần được thay thế bởi chất chai (callus) làm bằng loại xương xốp (spongy bone) còn có tên là chai xương (bony callus).
4. Chất chai xương tái tạo. Sau vài tháng, chất chai xương (bony callus) được tái tạo bằng sự kích thích ứng suất cơ lực (mechanical stresses) tại chỗ. Nhờ đó, nó tạo thành một cái màng vững chắc và vĩnh cửu tại chỗ xương gãy.
b. Theo Đông Y Học:
Đông Y Học xếp gãy xương vào khoa “Trật đả cốt khoa”, là môn ngoại khoa chuyên trị gãy xương, trật khớp và bong gân. Khoa trật đả có một lịch sử lâu dài hằng nghìn năm với nhiều kinh nghiệm và nhiều dược thảo bị gãy xương, bong gân thật kỳ diệu. Tuy nhiên, do thiếu am tường về cơ thể học (anatomy), nhiều thầy thuốc Trật Đả Cốt Khoa đã mắc phải một số khuyết điểm kỹ thuật, tạo không khí trường hợp dị tật vĩnh viễn cho bệnh nhân sau khi chữa lành vết thương. Nếu biết vận dụng, kết hợp giữa khoa X – ray, giải phẩu học của Y học hiện đại với phương pháp và dược thảo cổ truyền, chắc chắn khoa Trật Đả sẽ được tin cậy cao hơn.
Đông y học xác định xương con người bằng những thuật ngữ sau đây:
DANH TỪ THÔNG DỤNG | DANH TỪ TRẬT ĐẢ CỐT KHOA |
Xương vùng đầu Xương đỉnh đầu Thóp đỉnh Xương sau ó Xương trán Mảnh xương trán bên trái Mảnh xương trán bên phải Xương Thái dương Xương hàm trên Xương hàm dưới Xương mũi nối liền xương hàm rảnh xương mũi Xương gò má
Xương sống Các đốt sống cổ Xương sống lonh Xương eo long Xương cụt Xương sườn và xương ngực Đôi sườn cụt
Xương tay chân Xương vai Xương bả vai Xương cánh tay Xương tay quay Xương tay trụ 8 xương cổ tay Xương bàn tay Xương ngón tay Xương chậu Xương đùi Xương chày Xương mác Xương cổ chân (gồm 7 mảnh)
Xương ngón chân | Đầu cốt Đành cốt, Diên đảnh Thiên đình, Thiên linh cái Chẩm cốt, Thọ đài, Ngọc Cẩm Ngạch cốt Thiên hiền cốt Thiên quý cốt Nhiếp cốt Thượng hàm cốt Hạ hàm cốt, Thừa cốt Tỷ giáp cốt Lệ cốt Quyền cốt
Thân cốt Cảnh chùy cốt, Thiên trụ cốt Bối chùy cốt Yêu chùy cốt Vỹ đề cốt, Vỹ lữ cốt Không có thuật ngữ riêng Phù cốt
Thủ túc cốt Tỏa cốt Giáp vai cốt, Kiên ngung cốt Hoằng cốt Nhiêu cốt Xích cốt Uyển cốt Chưởng cốt Chỉ cốt Khoa cốt, Bồn cốt Đại thố cốt Hình cốt Phì cốt Lien hà cốt gồm: Căn cốt, Cự cốt Túc chân cốt, Khế cốt 1 Khế cốt 2, Khế cốt 3 và Đẩu cốt Chỉ cốt |
Ghi chú: Sách Trật Đả Cốt Khoa của tác giả Thượng Trúc ghi: “Toàn thể bộ xương có 208 chiếc và vòm sọ có 6 mảnh (trang 7). “Thực tế, bộ xương người lớn tổng cộng chỉ có 206 chiếc và vòm sọ có tới 8 mảnh.
Chẩn đoán: Trật đả có nặng có nhẹ, chẩn đoán đúng là một bước rất quan trọng trong tiến trình chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp. Người thầy thuốc trật đả thường chẩn đoán nhờ vào óc quan sát và kinh nghiệm.
Các loại thương chứng vùng đầu:
- Hai mắt mất thần, khờ khạo: nặng, khó trị.
- Mắt mở trừng trừng: chết
- Tinh hoàn (dái) đàn ông thụt vào: nguy, chết.
- Đầu vú phụ nữ thụt vào: nguy, chết.
- Sắc móng tay, bấm vào thả ra không thấy tụ huyết: nguy, sắc tím đen: chết.
- Sắc bàn tay và gót chân vàng mét: nguy
- Vỡ xương đầu, óc chảy ra: chết
- Té từ trên cao, mồ hội ra như dầu: chết (vì giao cảm thần kinh ngưng hoạt động).
- Té từ trên cao, trán lạnh như băng: chết (mạch tim tuyệt).
- Môi run giật hoặc tím đen: chết (vì tuần hoàn não ngưng hoạt động).
- Vỡ sơn căn (giữa 2 đầu mày): chết (đại não bị thương).
- Vùng sau tai bị chấn thưưong mà lỗ tai chảy ra chất nước trong: chết.
- Đầu bị chấn thương mà lỗ tai chảy máu hoặc cười luôn: chết.
- Đầu bị chấn thương mà mồm há hốc, thở ra phì phì: nguy.
- Thiên trụ cốt bị lìa: chết.
Các loại thương chứng vùng sườn, tay chân:
- Vùng sườn số 4-5-6 bị thương mà khó thở hoặc thở dốc: nguy, chết.
- Vùng sườn gần vú bị thương mà nấc cục: chết.
- Tay chân bị chấn thương mà mạch đi “Đại – Trì – Hoãn”: chết.
Phân biệt giữa gãy xương và trật khớp.
Phải dùng “Độ cốt pháp”, tức phương pháp đo xương, mới phân biệt rõ ràng giữa gãy xương và trật khớp vì hình thái khá giống nhau: sưng tấy, kích xúc, không vận động được…
Gãy xương:
- Sưng nhức, biến dạng cục bộ, sờ thấy cộm khác thường.
- Nếu gãy lìa: Độ dài xương bị ngắn lại.
- Cầm xương lay động nhẹ phát ra tiếng va chạm.
Trật khớp:
- Sưng tấy cục bộ.
- Hai khớp không liền nhau.
- Có thể cử động được ở một vài bộ phân.
Phương pháp sửa xương (chánh cốt pháp)
Thủ thuật tiếp cốt và trật đả chỉ dành cho các nhà chuyên môn. Tuy nhiên, cũng cần biết rõ để có thể tự chữa trị một số trường hợp nhẹ. Thủ pháp gồm 6 giai đoạn: Mạc (mằn mò), Tiếp (nối lại), Đoan (làm cho đúng vị trí), Đề (nhấc, đưa lên), Án ma (xoa bóp) và Thôi nã (nắn hoàn chỉnh).
- Mạc pháp: Dùng tay kiểm soát ổ gãy để xác định xem xương gãy lìa hay bể nát, trật khớp về phía trước hay phía sau, gân thịt có bị tổn hại không. Mạc pháp là thủ thuật chẩn đoán bệnh lý.
- Tiếp pháp: Thủ pháp sắp xếp xương (chỉnh hình).
- Đoan pháp: Thủ pháp đẩy, ấn xương cho đúng vị trí (cố định ổ gãy).
- Đề pháp: Nhắc xương lên xuống cho hợp với tư thế tự nhiên (hiệu chỉnh).
- Án ma pháp: Xoa bóp nhẹ vùng xương gãy cho huyết dịch lưu thông.
- Thôi nã pháp: Thủ pháp xoa nắn, sắp xương và nẹp bất động (hoàn chỉnh).
Phương dược đơn giản:
a. Trật khớp, bong gân, tụ huyết:
- Cam chín vàng, gọt lấy phần vỏ, ngâm với rượu cho đậm đặc. Trong uống ngoài thoa rất hay.
- Hành tăm, dùng toàn cây, rửa sạch giã nát, trộn với chút mật ong đắp kín chỗ sưng tấy, ngày thay một lần. Bên trong uống bột Quế chi với rượu nhạt, ngày 2-3 lần, mỗi lần 6-8g. Chỉ 1-2 ngày sau là hết sưng, hết đau nhức.
b. Gãy xương, tụ huyết:
- Tạo giáp (quả bồ kết), Trắc bách diệp, Cốt toái bổ (bỏ lông), lượng bằng nhau, giã nát như bột, Gừng tươi, giã lấy nước cốt hòa với bột thuốc cho dẻo như bùn, đắp kín chung quanh chỗ gãy. Mỗi 3 ngày tháo ra, dùng hành hương nấu nước lau rửa vết thương, sau đó lau cho khô rồi thay thuốc mới. Sau 7 ngày mà còn cảm thấy đau, gia thêm vị Mộc dược vào toa thuốc trên.
Phương dược hỗn hợp:
a. Đăng bó gãy xương:
Xuyên ô 08g
Thảo ô 08g
Đại hoàng 16g
Xuyên tục đoạn 12g
Cốt toái bổ 08g
Bạch chỉ 08g
Sơn chi tử 08g
Nhũ hương 06g
Một dược 06g
Huyết kiệt 03g
Lưu ký nô 08g
Xuyên điền thất 04g
Sanh mã tiền tử 12g
Đinh hương 04g
Quế chi 08g
Tự nhiên đồng 08g
Hồng hoa 08g
Gà con 01 con
Cách làm: Gà con nhổ lông, mổ bỏ lòng ruột, không rửa nước. Tất cả giã nát như bùn, bó chỗ xương gãy, ngoài nẹp và băng chặt. Cứ 2-3 ngày thay thuốc 1 lần, độ 4 tuần là lành.
b. Thuốc uống:
Cốt toái bổ 16g
Xuyên tục đoạn 16g
Hải đồng bì 12g
Xuyên điền thất 16g
Nhũ hương 12g
Một dược 12g
Huyết kiệt 16g
Tự nhiên đồng 16g
Hùng đởm (mật gấu) 08g
Hổ phách 16g
Thổ miết trùng 16g
Tam lăng 16g
Nga truật 16g
Bạch chỉ 16g
Đương qui vĩ 16g
Trạch lan diệp 16g
Hương phụ 16g
Phòng phong 16g
Quế chi 16g
Hồng Hoa 16g
Xuyên sơn giáp (Sao) 16g
Can xương 16g
Ô dược 16g
Khương hoạt 16g
Ma hoàng 16g
Sinh địa 16g
Xuyên khung 16g
Cách làm: Tất cả tán bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn với rượu. Thuốc có thể ngâm rượu, không cần tán bột, trong uống ngoài thoa cũng rất công hiệu.
Còn có 1 phương gia truyền tên “Tam cân tiếp cốt thang” của họ Đào, tác dụng cũng thật độc đáo.
Lộc cân (gân nai) 40g
Trư cân (gân heo) 40g
Ngưu cân (gân bò) 40g
Bắc Hoàng kỳ 16g
Hoài Ngưu tất 16g
Đương qui 30g
Xuyên tục đoạn 16g
Cốt toái cổ 12g
Xuyên đỗ trọng 12g
Xuyên gia bì 12g
Cách dùng: Trước hết, đem 3 thứ gân chặt nhỏ ngâm nước ấm cho mềm. Tiếp theo, bỏ gân và thuốc vào siêu hay nồi, đổ 5 chén nước, sắc còn 1 chén, chia uống 2 lần và ăn thêm 3 thứ gân đã nấu chín. Phương thang nầy làm mạnh gân xương, giúp cơ thể vận động nhanh sau thời gian xương lành nhưng đi đứng còn yếu.
2. CHỨNG LOÃNG XƯƠNG (Osteoporosis)
Loãng xương là một tiến trình biến chất về xương mà tỷ lệ xương bị tiêu hủy có tốc độ cao hơn số lượng xương được tạo ra dẫn tới nguy cơ mất xương. Loãng xương được xác định khi xương trở nên rỗ xốp (porous), giòn (brittle) và rất dễ gãy (fracture).
Xương gồm có 2 lớp (layers). Lớp đầu tiên là vỏ xương (cortical bone) được thành lập từ calcium và nhiều chất khoáng (minerals) khác, lớp thứ hai là xương xốp (cancellous bone) tạo ra bởi tế bào xương và sợi tạo keo (fibers of collagen). Vỏ xương thì cứng và đặc, nhưng lớp tạo keo bên trong thì mềm và xốp.
Nguyên nhân:
Loãng xương có thể do hệ quả của một bệnh chính yếu hoặc thứ yếu.
- Loãng xương chính yếu:
Thường do tuổi già (senile osteoporosis) nhất là sau thời kỳ mãn kinh (postmenopausal osteoporosis) của phụ nữ. Khi buồng trứng (ovaries) ngưng sản xuất estrogen, việc duy trì khối xương sẽ bị đe dọa. Có nhiều nguyên nhân:
Chế độ ăn uống thiếu chất calcium và vitamin D. Khi cơ thể không được cung cấp đầy đủ theo nhu cầu, nó sẽ tự động rút lấy calcium từ trong xương.
Do rối loạn hormone, chủ yếu suy thoái chức năng của tuyến nang thượng thận (gonadal adrenal function) hoặc việc chuyển hóa chất đạm không tốt gây thiếu hụt kích thích tố nữ (estrogen deficiency) hay cuộc sống ít vận động (sedentary lifestyle). Tất cả lý do nêu trên dẫn tới mất khối xương xốp.
- Loãng xương thứ yếu:
Bao gồm việc dùng dược phẩm có chứa chất steroids gồm một nhóm hormenes như: Cortisol, corticosterone hay mineralocorticoids hoặc dùng lâu dài heparin, một loại thuốc chống đông trong bệnh huyết khối tắc mạch (thromboembolism).
Tình trạng không sử dụng tới hoạt động của xương như bệnh liệt bán thân (hemiplegia) hoặc tác nhân gián tiếp làm ảnh hưởng đến xương như nghiện rượu (alcoholism), nghiệm thuốc lá , suy dinh dưỡng (malnutrition), hấp thu yếu (malabsorption), bệnh hoại huyết (scurvy), không dung nạp được chất đường sữa (lactose intolerance), cường tuyến giáp trạng (hyperthyroidism) hay do sự tạo xương không hoàn hảo (osteogenesis imperfecta). Các lý do này làm mất cả khối xương xốp và vỏ xương.
Dấu hiệu và triệu chứng:
- Từ 30 đến 70 tuổi, khi cúi xuống kéo một vật lên mà nghe có tiếng kêu “tách” hay “rắc” rồi cảm thấy đau ở vùng xương thắc lưng, là dấu hiệu cột sống lưng đã bị suy sụp (collapse). Đau lưng là biểu thị đặc trưng của hầu hất chứng loãng xương ở người lớn, càng về già mức độ loãng xương càng cao.
- Đến tuổi già, xảy ra hiện tượng gù lưng (kyphosis), là do xương gia tăng sự biến dạng (deformity) làm mất chiều cao.
- Đến tuổi già, xương cổ, xương hông và xương đùi rất dễ gãy sau một va chạm nhẹ, do xương cột sống và các xương giữ nhiệm vụ chống đỡ cơ thể quá yếu, mỏng.
Chẩn đoán:
Đông y học không có khả năng chẩn đoán tiến trình loãng xương, cần nhờ đến kiến thức và phương tiện xét nghiệm của Y học hiên đại. Xét nghiệm chẩn đoán gồm có:
- Chiếu quang tuyến X (X-rays) dò tìm sự thoái hóa (degeneration) ở đốt sống ngực (thoracic vertebrate) và đốt sống thắt lưng (lumbar vertebrae). Xương sống có thể cho kết quả mỏng hơn hoặc dày hơn bình thường.
- Dùng phương pháp thu nạp bức xạ điện từ kép hoặc đơn (dual or single photon absorbptiometry) đo lường khối xương để giúp cho việc lượng định ở các đầu xương, hông và cột sống.
- Thấy tuyến cận giáp (parathyroid hormone) tăng cao trong khi serum calcium, phosphorus và alkaline phosphatase nằm trong giới hạn trung bình.
- Làm sinh thiết xương (bone biopsy) cho thấy mỏng, xốp.
Điều trị:
Theo Y Học hiên đại:
- Dùng hormone thay thế, còn gọi là phương pháp HRT (Hormone replacement therapy), do Bác sĩ chuyên khoa hướng dẫn.
- Dùng thuốc theo toa Bác sĩ
- Dùng thực phẩm chứa nhiều chất calcium để chống lại việc mất xương theo bảng hướng dẫn sau đây:
+ Sữa chua (yogurt): 450mg calcium
+ Cá Sardine cả xương: 370mg calium
+ Nước cam vắt (organge juice): 300mg calium
+ Sữa bò (cow milk): 300mg calium
+ Bơ Thụy Sĩ (swiss cheese): 270mg calium
+ Cá Salmon cả xương: 225mg calium
+ Bơ Cheddar (Cheddar cheese): 205mg calium
+ Cải củ (turnip) tươi: 200mg calium
+ Kem sữa (ice creamlice milk): 175mg calium
+ Đậu hủ (tofu): 115mg calium
+ Cỏ linh lăng (Alfalfa): 7.95g calium
+ Mồng tơi (Spinach): 2.15g calium
+ Cải xoong (watercress): 1.25g calium
+ Rau mùi tây (parsley): 1.65g calium
+ Cải xoăn (kale): 95mg calium
+ Broccoli: 90mg calium
- Dùng calium dạng viên: Nên chọn calium citrate, calium carbonate, calium aspartate, calium chelate: 1.000mg/ngày. Phụ nữ mãn kinh không dùng phương pháp HRT có thể tăng đến 1.500mg/ngày.
- Đi bộ thường xuyên dưới ánh sáng mặt trời, mỗi tuần ít nhất 2-3 lần, mỗi lần từ 45-60 phút để giữ cho xương khỏe mạnh nhờ gia tăng vitamin D tự nhiên.
- Ngưng hút thuốc lá, hạn chế tối đa ăn muối, vì cả 2 vừa gây ra cao huyết áp vừa góp phần làm loãng xương.
Theo Đông Y:
Trong tất cả y thư cổ truyền Đông y không thấy đề cập đến chứng loãng xương ở người già hay phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh, chỉ có chứng “giải lô” (thóp sọ không kín), “Kê hưng” (ngực gồ lên như ức gà), “Qui bối” (lưng gôd lên như mai rùa) hay chứng “Ngũ trì, ngũ nguyễn” (5 chứng chậm, 5 chứng mềm yếu) trong Nhi khoa. Tuy thuật ngữ về chẩn đoán và điều trị của Đông y có khác với Y học hiên đại nhưng ý nghĩa vẫn mô tả hệ quả của chứng yếu xương, nhuyễn xương giống nhau.
- Chẩn đoán: Yếu xương do Khí - Huyết lưỡng hư, Tỳ Thận bất túc.
- Phương trị: ích khí dưỡng huyết kiên Tỳ bổ thận.
- Dược thảo đơn giản:
+ Dùng thành phẩm Horse tail (*): 500mg, ngày 2 lần
+ Dùng thành phẩm Nettle (*): 500mg, ngày 2 lần
Ghi chú:
* Horse tail, tên khoa học Equisetum arvense, thuộc họ Mộc tặc Equisetaceae, Đông dược gọi là Mộc tặc thảo, nguyên là một loại cỏ sống lâu năm, chỉ có cành nhỏ mọc vươn ra từ thân chứ không có lá. Theo nhà thực vật học Andrew Chevallier, mộc tặc thảo xuất hiện trên trái đất cách nay chừng 600 triệu năm. Thành phần hóa học gồm có: Độ 15% silicic acid và silicates, flavonoids, phenolic acids, alkaloids gồm chất nicotine và sterols. Về tác dụng: Mộc tặc thảo có công năng cầm máu rất nhanh, bất luận là vết thương ngoài da hay xuất huyết bên trong đường ruột, bàng quang, niệu quản hay bệnh nhiếp hộ tuyến.
* Nettle, tên khoa học Urtica dioica, thuộc họ Gai Urticaceae, có nhiều loại hình dáng giống như cây gai của Việt Nam, còn Trung Quốc gọi là Trữ ma, tên khoa học Boehmeria nivea. Nettle nguyên là một loại cỏ, mọc rộng rãi trên khắp thế giới, sống theo mùa lá, lá nhỏ, cạnh có răng cưa giống như lá tía tô. Thành phần hóa học, trong thân và lá gồm có: Flavonois chứa quercitin; amines gồm histamine, choline, acetylcholine, serotoin, glucoquinone, minerals gồm calium, potassium, silicic acid và iron. Trong thân rễ có thêm: Plant sterols và phenols. Về tác dụng: Netile có công năng chống viêm, sưng tấy; ngoài ra còn chống được bệnh viêm khớp, giảm sưng nhiếp hộ tuyến, ngăn ngừa bệnh trĩ.
- Dược thảo tổng hợp:
Bài 1:
Thái tử sâm 30g
Tiêu Tam tiên 15g
Hoàng kỳ 12g
Sao Bạch truật 12g
Thục địa 10g
Phục linh 10g
Hoài sơn 10g
Mẫu đơn bì 10g
Đương qui 10g
Bào sơn giáp 10g
Sơn thù nhục 10g
Phòng phong 10g
Hà thủ ô 10g
Hoàng tinh 15g
Sinh Mẫu lệ 20g
Cam thảo 03g
Sắc uống ngày 1 thang hoặc tán bột làm tễ với mật ong, mỗi hoàn nặng 12g. Liều dùng ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn.
Lưu ý: Khi làm thuốc tễ, không dùng vị Mẫu lệ.
Bài 2:
Đảng sâm 30g
Chích Hoàng kỳ 15g
Thục địa 15g
Bạch truật (sao) 12g
Hoài sơn 12g
Đương qui 12g
Bạch thược 12g
Hoàng tinh 12g
Lộc giác giao 10g
Sơn thù nhục 12g
Hồng hoa 03g
Nettle(*) 12g
Mẫu lệ 20g
Sắc uống ngày 1 thang. Nếu làm thuốc tễ, tán thuốc thành bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn nặng 12g. Ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn. Không dùng vị Mẫu lệ trong toa thuốc tễ. Riêng vị Nettle, xem dẫn giải phần Dược thảo đơn giản ở trên.
- Dùng nước rau quả tươi:
Cà rốt (carrot) 08 oz
Rau mồng tơi (spinach) 04 oz
Bồ công anh (dandelion) 03 oz
Cải củ (turnip) 02 oz
Cách làm: Dùng máy xay ly tâm (như máy Juiceman Jr) ép lấy nước cốt. Xay thứ nào trước cũng được, không pha thêm nước lọc. Nên uống ngay lúc đói bụng, chờ khoảng 1 tiếng đồng hồ sau mới ăn.
3. THẤP KHỚP (Rheumatism)
Chúng ta quen gọi tất cả bệnh đau khớp chung là “Phong thấp”. Nghe nói thì hình dung ra được căn bệnh nhưng không đúng lắm. Thực tế, Phong thấp bao gồm nhiều chứng bệnh viêm khớp (fant inflammation) khác nhau được xác định bằng những thuật ngữ chuyên môn khác nhau, cần phân biệt để tránh nhầm lẫn.
Theo Y học hiên đại
Phong thấp, chính xác là bệnh thấp khớp (rheumatism), một thuật ngữ phổ thông nhằm mô tả những sự rối loạn bên trong khớp xương khiến cho cứng bắp thịt, cứng khớp, da sưng đỏ hoặc không sưng, gây cơn đau cấp thời hoặc dai dẳng từ năm này sang năm khác. Thấp khớp bao gồm nhiều thể loại:
- Viêm khớp (arthritis)
- Viêm xương khớp (osteoarthritis)
- Viêm đa khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis)
- Bệnh thoái khớp, thống phong (gout)
- Viêm khớp nhiễm khuẩn (septic arthritis)
Hậu quả chung lag khớp xương bị viêm (joint inflammation). Hơn nữa, thấp khớp không phải là một bệnh đơn thuần hay viêm cục bộ, không chỉ ảnh hưởng đến xương khớp mà còn liên đới đến hơn 100 loại bệnh khác nhau làm di hại cả mạch máu, thận, da, mắt, não và hệ thống miễn nhiễm (immune system)
Tại Hoa Kỳ hiện có trên 50.000.000 (50 triệu) người mắc bệnh thấp khớp, quanh năm phải di chuyển bằng gậy, bằng xe lăn, nằm một chỗ, đau đớn khổ sở, uống thuốc suốt đời vẫn không lành và đôi khi phải giải phẩu. Sau đây là một số bệnh thấp khớp thường gặp nhất:
- Viêm khớp (Arthritis): Là tình trạng khớp xương bị viêm, có đặc điểm dễ nhận là đau, sưng to, cứng khớp và da chỗ đau ửng đỏ. Viêm khớp có thể chỉ xảy ra tại 1 khớp nhưng cũng có khả năng liên hệ đến nhiều khớp khác.
Viêm khớp gây những cơn đau khốc liệt, lâu dần làm biến dạng và hư hoại khớp xương.
- Viêm xương khớp (Osteoarthritis – OA): Do sự thoái hóa khớp xương, là hình thái phổ biến nhất của bệnh viêm khớp. Viêm xương khớp thường xảy ra ở những khớp gánh chịu sức nặng của cơ thể, như ở khớp gối, khớp xương hông, khớp cột sống lưng, khớp xương bàn tay. Lý do: Sụn nơi ấy bị tàn phá mãnh liệt bởi những khối xương lớn, cứng, cử động liên tục và chèn ép nhau. Những chỉ dấu ban đầu của bệnh viêm xương khớp lộ ra khi sáng thức dậy vào lúc thời tiết bên ngoài ẩm ướt, bỗng cảm thấy cứng ở một hoặc vài khớp quan trọng. Tiếp sau đó, cử động thấy đau, càng vận động càng đau nhiều hơn.
Viêm xương khớp là hệ quả của tuổi tác. Vì mỗi 10 năm là một tiến trình thoái hóa khớp xương, mà khả năng tự bù đắp của cơ thể lại yếu kém hơn sự hư hỏng nên khó tránh khỏi bệnh viêm xương khớp. Nghe tiếng kêu cọt kẹt hay lụp cụp trong khớp xương mỗi khi cử động là một xác quyết viêm xương khớp đang hiện diện. Mặc dù bệnh viêm khớp ảnh hưởng ở phụ nữ cao hơn nam giới nhưng một người đàn ông cân nặng trên 20 pounds (khoảng 9 kg) so với trọng lượng trung bình có nguy cơ bị viêm xương khớp ở đầu gối và khớp hông gấp đôi người nhẹ cân hơn.
- Viêm da khớp dạng thấp (Rheumatoid Arthritis – RA): Là một bệnh viêm, sưng, thuộc dạng mãn tính, xảy ra khi tế bào miễn dịch quái ác tấn công màng hoạt dịch (synovial membrance) là chất đóng vai cái đệm trong khớp. Khi chuyện này xảy ra, khớp sẽ bị viêm, sưng lên, lan rộng, làm hư hỏng thêm xương bị phá hỏng. Tiến trình hư hoại thường đi song song với thời gian.
Viêm da khớp dạng thấp cũng còn làm viêm cả mạch máu, lớp niêm mạc ngoài của tim và phổi. Đây là căn bệnh phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt tấn công phụ nữ nhiều gấp 3 lần hơn nam giới. Độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh nhưng từ 35 tới 50 tuổi chiếm tỷ lệ 80%. Tại Hoa Kỳ hiện có trên 6.500.000 (6 triệu 500 nghìn) người bị bệnh viêm đa khớp dạng thấp cần phải chăm sốc, điều trị suốt đời và thường phải mổ. Thực là một gánh nặng cho gia đình và xã hội.
- Thống phong (Gout): Còn gọi bệnh gút, bệnh thoái khớp, bệnh khớp do thoái hóa… Thống phong là loại viêm khớp nhưng ở dạng khớp (gouty arthritis). Nguyên nhân do sự rối loạn chuyển hóa (metabolic disorder) kéo dài khiến cho uric acid, một loại tinh thể có cạnh sắc như mũi kim đọng lại bên trong các mô (tissue) chung quanh khớp xương. Khi uric acid tích lũy quá mức giới hạn, mô bao quanh khớp sẽ bị viêm và các đầu dây thần kinh bị kích xúc gây ra cơn đau triền miên.
Uric acid là gì? Là một phụ phẩm (byproduct) từ sự chuyển hóa chất đạm (protiens) và chất pirines trong cơ thể, phần khác do ăn uống thực phẩm. Cơ thể chúng ta không thể tiêu thụ chất uric acid mà phải bài tiết ra ngoài theo đường tiểu. Nếu thận không lọc nổi và thải bỏ được uric acid, chúng sẽ hòa tan trong máu rồi kết tinh lại và phá hỏng nơi nào chúng hiện diện như gân, thận, mô, đặc biệt ở khớp xương.
- Viêm mủ khớp xương (Bursitis): Là một bệnh viêm khớp, đúng hơn là những túi nhỏ thuộc mô liên kết (connective tissue) nằm bao quanh khớp xương bị viêm. Những túi này, còn gọi là cái đệm (cushions), được xếp thành dãy với màng hoạt dịch (synovia membrances) giữ vai trò làm giảm sự ma sát giữa gân và xương hoặc giữa gân và dây chằng (ligaments) hay những cấu trúc khác, bị tổn thương bởi sự quá tải do căng kéo, áp lực, ma sát, va chạm lâu dài. Hậu quả là những túi hoạt dịch bị viêm và sưng phồng lên trong lúc khớp xương ép chặt, tạo ra cơn đau.
Bệnh viêm mủ khớp xương không có biên giới về tuổi tác. Vấn đề viêm khớp, căng bắp thịt, calium tích tụ cũng góp phần vào việc gây bệnh. Tuy nhiên, sử dụng quá tải cơ quan là một yếu tố rất quan trọng và hầu hết ảnh hưởng lên khơp vai, khớp hông, khớp khuỷu tay và khớp gối. Ví dụ, đối với chuyên viên về máy điện toán ngồi lâu trên ghế, bệnh có nguy cơ ở hông, thợ dệt đứng liên tục nhiều giờ, thường bị viêm mủ ở khớp chân, phần đông học sinh bị viêm mủ khớp khuỷu tay vì thường chống cùi chỏ lên bàn, thợ làm vườn, do cúi gập chăm sóc cây kiểng nên hay bị viêm mủ khớp gối, còn thợ leo đốn cây xanh thì viêm mủ ở kẽ ngón chân cái (bunions).
Theo y học cổ truyền:
Đông y học xếp bệnh thấp khớp vào loại “Tý chứng”. Tý có hàm nghĩa là đau nhức khớp xương. Vì thế Đông y hay dùng một thuật ngữ phổ quát: “Phong thấp”
Thầy thuốc Đông y phân định Tý chứng hay phong thấp dưới 3 thể trạng “Phong, Hàn, Thấp” căn cứ vào từng tác nhân gay bệnh. Trong 3 thể trạng Phong, Hàn, Thấp lại còn chia thành nhiều hình thái riêng biệt, căn cứ vào mạch chứng và triệu chứng (cơn đau) mà đặt tên. Chẳng hạn:
- Phong thắng Hàn, Thấp, thì gọi là Hành tý.
- Hàn thắng Phong, Thấp, thì gọi là Thống tý.
- Thấp thắng Phong, Hàn, thì gọi là Trước tý.
- Nếu thể chất dương thịnh lại nhuốm phải khí Phong, Hàn, Thấp lâu ngày dễ hóa nhiệt (nóng) thì gọi là Nhiệt tý.
Biện chứng Luận trị:
Thực tế, muốn phân định ranh giới giữa Hành tý, Thống tý, Trước tý, Nhiệt tý là điều hết sức khó khăn. Bởi vì, qua lâm sàng, cả 3 hình thái bệnh khá giống nhau, thường quyện vào nhau để thành một tạp bệnh hỗn hợp như: Phong Thấp (Phong có lẫn Thấp), Phong Hàn (Phong có chứa Hàn) hay Hàn Thấp (trong Hàn có Thấp). Vì thế, Y học cổ truyền qui nạp các dạng trên vào 2 thể loại: “phong Hàn Thấp Tý” và “Phong Thấp Nhiệt Tý” hướng điều trị như sau:
- Nếu là “Phong Hàn Thấp Tý” thì ứng dụng phương thức khu phong (đuổi phong), tán hàn (trừ lạnh), lợi thấp (làm mất ẩm ướt). Căn cứ vào tác nhân nào mạnh nhất mà sử phương cho phù hợp.
- Nếu là “Phong Thấp Nhiệt Tý” thì dùng phương thức sơ phong (giải phong), thanh nhiệt (làm giảm sức nóng), hóa thấp (làm mất ẩm ướt) làm căn bản. Bệnh quá lâu, nên phối ngũ giữa thuốc khu tà (trừ bệnh) với thuốc phù chính (bảo vệ nội lực) để vừa trị bệnh vừa nâng cao sức khỏe.
a. Phong Hàn Thấp Tý:
- Triệu chứng: Đau nhức rõ rệt tại những khớp quan yếu như khớp cổ tay, khuỷu tay, khớp lưng, khớp gối. Điểm dễ nhận là khớp đau nhưng không sưng đỏ, cảm giác lạnh và khi chườm nóng thì dễ chịu, giảm đau. Toàn thân cảm thấy nặng nề, khám lưỡi trắng nhớt, mạch đi Khẩn hoặc Huyền, hiếm khi đi Sác.
- Phân tích: Phong Hàn Thấp là loại tà khí (khí độc), xâm nhập vào cơ thể làm bế tắc hoạt dộng của gân, mạch, ngăn trở khí huyết vận hành tới nuôi các khớp. Người xưa dạy: “Thống là bất thông” đau nhức tức là gân mạch bị bế tắc, do vậy khớp sinh đau mỏi. Vì mạch chưa đi Sác tức là Hàn tà thiên thắng và chưa hóa nhiệt nên thân thể cảm thấy lạnh, nặng nề, chườm thấy giảm đau.
- Pháp trị: Khu phong, tán hàn, trừ thấp. Bài thuốc kinh điển là bài “Quyên Tý thang gia giảm” gồm các vị khương hoạt, Độc hoạt, Quế chi, Tân giao, Kê huyết đằng, Tang chi để khu phong, tán hàn, hóa thấp, thông lạc, Đương qui, Mộc hương, Xuyên khung, Nhũ hương để hoạt huyết, lý khí, giảm đau, cam thảo để điều hòa dược lực.
+ Nếu Phong thắng, tàng lượng Khương hoạt, gia thêm vi Phòng phong.
+ Nếu Hàn thắng, gia thêm Xuyên ô, Tế tân.
+ Nếu Thấp thắng, gia thêm Phòng ky, Ý dĩ nhân.
+ Nếu mắc bệnh lâu ngày khí huyết suy, ra mồ hôi, sợ gió, nên gia thêm Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch thược, gừng, táo để điều lý.
+ Kèm thêm lưng gối đau mỏi, co duỗi khó khăn là Can Thận bất túc, gia thêm Đỗ trọng, Tang ký sinh, Ngưu tất.
- Bài thuốc kinh nghiệm:
Bài 1: “Chỉ thống hoạt lạc thang”.
Chích Hoàng kỳ 30g
Sao Bạch truật 20g
Đương qui 20g
Sao Bạch thược 20g
Quế chi 10g
Thục Phụ tử 10g
Nhũ hương 20g
Một nhược 20g
Ô tiêu xà (rắn hổ) 10g
Chế xuyên ô 05g
Chế Thảo ô 05g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước đầu sắc lấy 1 chén, chia uống 2 lần. Nước thứ nhì lấy hơn nửa chén, uống hết 1 lần.
Gia giảm: Hai tay đau nặng hơn, gia Xuyên khung, Khương hoạt, Tang chi. Hai chân đau nhiều hơn, gia Độc hoạt, Ngưu tất. Khớp xương co duỗi khó, gia Lạc thạch đằng. Tê nhiều hơn đau, gia Kê huyết đằng. Hải phong đằng, Uy linh tiên, Cột sống và thắt lưng đau, gia Đỗ trọng, Tục đoạn, Cẩu tích:
Bài 2: “Hoạt huyết dưỡng cốt thang”
Cẩu tích 15g
Độc hoạt 15g
Cốt toái bổ 15g
Đương qui 10g
Diên hồ sách 10g
Trần bì 10g
Uất kim 10g
Tục đoạn 10g
Bạch chỉ 10g
Cân cốt thảo 10g
Quế chi 10g
Phòng phong 10g
Ngũ gia bì 15g
Khương hoạt 15g
Tân giao 10g
Thiên niên kiện 15g
Uy linh tiên 12g
Sắc uống ngày 1 tháng.
Gia giảm: Khí huyết ngưng trệ gia Bạch cương tằm, Huyết kiệt. Hàn Thấp thiên thắng gia Thương truật, thục Phụ tử. Cơ thể suy yếu gia Hoàng kỳ, Bạch truật, Tử hà xa để nâng cao chính khí.
b. Phong Thấp Nhiệt Tý
- Triệu chứng: Đau khớp xương ở 1 khớp hoặc nhiều khớp cùng một lúc. Nơi đau sưng đỏ, cảm giác nóng rát, khó cử động, gặp lạnh dễ chịu hơn. Toàn thân phát sốt, khát nước, bứt rứt không yên. Rêu lưỡi vàng, mạch đi Hoạt Sác.
- Phân tích: Phong thấp giao tranh với nhiệt làm cho khí huyết bế tắc, lan tỏa tới các khớp, gây viêm và đau. Vì tà khí theo nhiệt mà hóa nên cảm thấy nóng rát,vì nhiệt tà cực thịnh nên phát sốt, khát nước, vì huyết ứ mà sưng đỏ. Nên nhớ, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác, đều thuộc chứng thực nhiệt.
- Pháp trị: Thanh nhiệt, giải độc, hóa thấp, sơ phong, thông lạc. Bài thuốc kinh điển là bài “Thạch cao Tri mẫu Quế chi thang gia giảm”, trong đó có Thạch cao, Tri mẫu để thanh nhiệt là: Quế chi để sơ phong thông lạc.
Bài thuốc kinh nghiệm:
Bài 1:
Đương qui 10g
Hồng hoa 06g
Tân giao 10g
Phòng phong 10g
Tang ký sinh 12g
Mộc qua 10g
Ngưu tất 10g
Uy linh tiên 10g
Tỳ giải 10g
Thương truật 10g
Phục linh 10g
Thạch cao 30g
Tri mẫu 12g
Tang chi 30g
Phòng kỷ 15g
Hoàng bá 15g
Ý dĩ nhân 30g
Sắc uống ngày 1 tháng.
Bài 2:
Hy thiêm thảo 30g
Hải đồng bì 30g
Kê huyết đằng 15g
Tang chi 30g
Nhẫn đông bằng 30g
Tần giao 10g
Tri mẫu 10g
Cát căn 10g
Ý dĩ nhân 30g
Phòng kỷ 10g
Thương truật 15g
Hoàng bá 15g
Mộc thông 10g
Tử kinh bì 10g
Bạch tiển bì 10g
Bội lan diệp 15g
Bạch giới tử 15g
Mộc miết tử (giã nát) 01 hạt
Xích tiểu đậu 60g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 3:
Sinh địa 60g
Hoàng bá 10g
Tri mẫu 10g
Thường truất 12g
Ngưu tất 10g
Địa cốt bì 12g
Phục linh 15g
Xa tiên tử 15g
Kim ngân hoa 25g
Xích thược 12g
Sinh Hoàng kỳ 15g
Huyền sâm 15g
Đan sâm 12g
Nhũ hương 06g
Một dược 06g
Phòng kỷ 12g
Thông thảo 12g
Ý dĩ nhân 15g
Tô mộc 10g
Địa long 12g
Bồ công anh 30g
Liên kiều 12g
Cam thảo 05g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 4:
Tang chi 30g
Ý dĩ nhân 30g
Trúc nhự 15g
Ty qua lạc 15g
Lô căn 30g
Hy thiêm thảo 15g
Hoạt thạch 30g
Hoàng bá 05g
Địa cốt bì 12g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 5:
Kim Ngân hoa 60g
Bại tương thảo 30g
Lạc thạch đằng 18g
Thanh phong đằng 60g
Thổ phục linh 20g
Kê huyết đằng 20g
Đan sâm 30g
Hương phụ 15g
Phòng kỹ 10g
Bạch hoa xà thiệt thảo 30g
Sinh Thạch cao 15g
Tri mẫu 12g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bệnh Gout (thống phong)
Bài 1:
Sinh Hoàng kỳ 12g
Phòng kỷ 15g
Chế xuyên ô 10g
Chế Thảo ô 10g
Quế chi 15g
Phòng phong 12g
Đương qui 12g
Bạch truật 10g
Khương hoạt 10g
Độc hoạt 10g
Tân giao 12g
Địa phong bì 20g
Ủy linh tiên 12g
Hoàng đằng 10g
Thổ phục linh 30g
Tang chi 20g
Ngưu tất 10g
Sắc uống ngày 1 thang. Nếu khớp có sưng đỏ, gia Địa cốt bì 20g, Câu đằng 15g.
Bài 2:
Phụ tử 05g
Quế chi 10g
Bạch truật 10g
Phòng phong 10g
Độc hoạt 10g
Phòng kỷ 10g
Hoàng kỳ 10g
Cam thảo 10g
Xích thược 10g
Hồng hoa 10g
Đương qui 10g
Ma hoàng 03g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 3:
Ma hoàng 10g
Quế chi 10g
Thương truật 10g
Thục phụ tử 10g
Phòng phong 10g
Phòng kỷ 10g
Uy linh tiên 10g
Chế Nam tinh 10g
Đào nhân 10g
Hồng hoa 10g
Kê huyết đằng 15g
Toàn yết 05g
Lộ phong phòng 15g
Lôi công đằng 15g
Ý dĩ nhân 30g
Đại phúc bì 12g
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm:
- Đau chi trên nhiều thì tăng Quế chi lên 20-30g, gia Khương hoàng 6g.
- Đau chi dưới nhiều thì gia Mộc qua 10g, Xuyên Ngưu tất 10g.
- Đau toàn thân thì gia Thiên niên kiện 10g, Lạc thạch đằng 15g.
Bài 4: Đau lâu khí huyết suy, các khớp cứng đơ, biến dạng, đau nhức.
Phá cố chỉ 10g
Xích thược 12g
Cốt toái bổ 20g
Quế chi 15g
Bạch thược 12g
Khương hoạt 12g
Phòng kỷ 10g
Thương truật 10g
Thân cân thảo 30g
Chích xuyên sơn giáp 08
Chế phụ tử 10g (sắc trước 10-20 phút)
Thục địa 25g
Xuyên tục đoạn 15g
Toàn yết 08g
Dâm dương hoắc 12g
Tri mẫu 12g
Độc hoạt 12g
Ma hoàng 05g
Uy linh tiên 12g
Ngưu tất 12g
Thấu cốt thảo 20g
Tầm cốt phong 15g
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm:
- Nếu chi trên đau nhiều, gia Khương hoàng 10g.
- Sưng tím khớp, gia Hồng hoa 10g, Tạo giác thích 6g, Nhũ hương 6g, Một dược 6g.
- Lưng đùi đau nhiều, bỏ Thương truật, gia Tang ký sinh 6g, Đỗ trọng 12g, tăng Xuyên Tục Đoạn lên 20g, Phá cố chỉ 12g.
- Khi uống thuốc nên ăn thêm 1-2 nhãn Hồ đào nướng chín.
- Cơ thể, tay chân cứng đơ, bỏ Thương truật, Phòng phong, gia Sinh Ý dĩ nhân 40g, Mộc qua 12g, Phục linh 12g, Bạch cương tằm 10g.
- Cột sống cứng đơ hay đùn lên biến dạng, bỏ Thương Truật, Ngưu tất, gia Cẩu tích 40g, Lộc giác giao hay Lộc giá xương 10g, Bạch cương tằm 2g.
Phương thang này cần uống liên tục tưd 4-6 tuần lễ mới có kết quả. Nếu thấy kiến hiệu, xay thành thuốc bột, uống ngày 2 lần, mỗi lần 4g.
Ăn uống, kiêng cữ:
- Là phương pháp vô cùng cần thiết cho việc trị bệnh.
- Nên ăn nhiều rau xanh, trái cây, hạt, ngũ cốc nhờ có nhiều chất sợi (fiber).
- Tránh ăn cá hồi (salmon), cá mòi (sardine), tuy ngon nhưng tạo ra rất nhiều uric acid nếu không uống đủ nước 6-8ly/ngày.
- Nên uống đủ nước, từ 6-8 ly nước lọc mỗi ngày giúp cơ thể tẩy rửa chất độc.
- Nên ăn dứa hay thơm (pineaple), thứ trái cây có năng lực chống viêm sưng rất hiệu quả nhờ chứa một loại enzyme tên là Bromelin. Trong các cuộc tranh tài thể thao có va chạm mạnh, cầu thủ thường được cho uống nước ép để ngừa đau đớn khi bị chấn thương. Liều dùng từ 200mg – 400mg, ngày 3 lần giữa bữa ăn (không nên dùng khi bụng đói).
- Nên dùng dầu thực vật thay mỡ động vật như: Dầu Phúc bồn tử (black currant seed), dầu borage, dầu cây anh thảo (everning primerose), dầu cá, dầu lanh (flaxseed) là loại acid béo làm tăng mức sản xuất chất prostaglandin, một chất có tính năng tương tự như hormone, giúp chống viêm tấy. Liều dùng từ 500mg – 1.000mg, ngày 2 lần trong vài tuần lễ.
- Uống Glucosamine, một hợp chất giữa đường glucose (sugar glucose) và amino acid glutamine, có tác dụng làm chậm bớt sự phá hủy sụn vừa kích thiức sụn hồi phục. Nhiều cuộc nghiên cứu tại Hoa Kỳ cho thấy chất Glucosamine sulfate có nhiều tác dụng giảm đau khớp và cứng khớp rõ rệt khi được dùng trên 6-8 tuần lễ.
- Uống Methylsulfonylmethane (MSM), nguồn lưu huỳnh (sulfur) thiên nhiên, giúp giảm cơn đau do phong thấp và duy trì sức khỏe các khớp vì sulfur là một thành phần của chất đạm (proteins) cấu tạo ra mô (tissue).
Liều dùng 500 mg, ngày 3-4 lần giữa bữa ăn. Nhiều công ty sản xuất dược thảo thiên nhiên tại Hoa Kỳ hiện nay cho pha trộn giữa Glucosamine và Methylsulfonylmethane thành 1 loại thuốc tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả điều trị.
- Uống cây nha đam (aloe vera) tươi, giúp kích thích nhu động ruột tẩy chất độc trong máu và hệ thống bạch huyết cầu (lymphatic system). Liều dùng 4 muỗng ăn canh, ngày 2-3 lần trong 2 tuần lễ rồi giảm xuống còn 2 muỗng canh.
- Ăn ớt xanh hoặc dùng kem có chất Capsaicin được chiết xuất từ ớt cayenne pepper (capsicum) bôi lên chỗ khớp bị viêm ngày 2 lần, giúp cho da ấm và máu lưu thông tốt hơn.
- Dùng dược thảo Devil’s claw 1.000mg, ngày 2 lần, Feverfew 250 mg, ngày 2 lần, Yucca 1.000mg, ngày 2 lần. Cả 3 loại này đều có tác dụng chống viêm khớp rất tốt.
- Tránh dùng mỡ bảo hòa như mỡ heo, bò, gà, cừu, dầu đã khử (hyđrogenate oils), thực phẩm chứa nhiều mỡ (fatty foods), thực phẩm chiên (fried foods), đường tinh chế (refined sugar) vì những chất này sẽ trở thành acid xâm nhập vào các khớp và tạo ra viêm tấy, gây đau nhức nhiều hơn.
- Tránh những thực phẩm tạo ra bệnh viêm khớp gồm: bột mỳ, thịt xông khói (bacon), thịt heo, thịt bò, trứng, cam, sữa bò, khoai tây và các loại cà như cà chua, cà tím, cà pháo, cà dĩa… Trong quyển sách “Healthy Healing” ấn hành năm 2000, nữ Tiến sĩ Linda Rector Page Hoa Kỳ có khuyến cáo những người bị viêm khớp không nên ăn cà chua (tomatoes) hay cà tím (eggplants, aubergines) vì trong hạt cà có chứa ít nhiều độc tố. Chúng tích tụ ở các khớp hạn chế sự tuần hoàn và làm tăng thêm cơn đau nhức: Điều này phù hợp với câu nói của người xưa: “Ăn 1 quả cà bằng 3 chén thuốc”
- Tránh uống rượu bia, caffeine, vì chúng cũng tạo ra acid, làm hại khớp xương.
Nước rau quả tươi trị liệu:
Nên thường xuyên uống nước cốt các loại rau quả tươi sau đây”
Cà rốt (carrot) 60 ounces
Rau cần tây (celery) 02 oz
Củ dền đỏ (beet) 02 oz
Dưa leo (cucumber) 02 oz
Quả bưởi (grapefruit) 02 oz
Nho tươi (grape) 02 oz
Táo (apple) 02 oz
Dùng máy xay ly tâm (kiểu Juiceman Jr) ép lấy nước cốt từng loại đúng dung lượng qui định, trộn chung với nhau thành một thứ nước bổ dưỡng hỗn hợp, uống hết một lần lúc bụng đói, chờ sau 1 giờ mới ăn được.
Công dụng: Tạo nguồn dinh dưỡng tinh khiết cho cơ thể, lau chùi viêm khớp, tẩy độc. Nên dùng liên tục 3 ngày, sau đó cứ mỗi tuần uống 2-3 lần. Kết quả rất kỳ diệu.
- Uống nước ép quả anh đào đen (black cherry juice), ngày 2 lần, mỗi lần 2 cốc (mỗi cốc gồm khoảng 4 ounces nước ép quả anh đào pha với 4 ounces nước lọc). Nhiều cuộc thử nghiệm cho thấy black cherry trị viêm khớp rất hay nhờ chống sưng và tẩy độc.
4. UNG THƯ XƯƠNG (bone cancer)
Bài đọc thêm:
NẤM HƯƠNG
Nói đến nấm hương, chúng ta liên tưởng ngay đến những tiệc cưới tại các nhà hàng, thực khách thường được thưởng thức món gà nấu nấm đông cô, một loại nấm màu đen có mùi thơm nhập cảng từ Trung Quốc. Vào thời gian trước đây, phải nói rằng nấm đông cô được xếp vào loại cao lương mỹ vị, rất quý, chỉ những người giàu mới dám mua ăn, còn thực khách dự tiệc thì phải nhường nhau mới có được 1 chiếc nấm bằng cỡ 2-3 ngón tay. Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Hiện nay nấm đông cô màu đen sịt được đóng gói từng 1 đến 5 pounds chất cao như núi trong các chợ, giá rẻ như bèo mà chẳng có bao nhiêu người ghé mắt. Tại sao có hiện tượng “chê” thứ nấm mà có thời kỳ được tôn vinh là “sơn hào hải vị”? Nói cho cùng, mọi sự vật hễ nhiều quá, thừa mức quá, thì mất tính quý trọng và cái gì kém giá trị thì ít người chiếu cố. Đó là qui luật của đời sống, và số phận của nấm đông cô màu đen nằm trong qui luật này.
“Nấm hương”, một loại nấm khá kỳ đặc, tuy có họ hàng với nấm đông cô nhưng về mặt dinh dưỡng, nhất là trong lãnh vực y học, nó có giá trị rất cao, rất quý. Nấm hương còn gọi là nấm hương hoa hay nấm đông cô Nhật Bản, tiếng Anh gọi là Shiitake, tiếng La tinh Lentinus edodes, thuộc họ nấm tán Polyporaceae.
- Sở dĩ được đặt tên nấm hương là vì nó có 2 đặc tính:
- Đặc tính thứ nhất, nấm hương luôn tiết ra một mùi thơm đặc quánh giữa mùi trầm pha lẫn mùi mật ong, nhưng khi kê gần sát mũi thì lại có hương thơm đậm đà của mùi hoa chamomile, 1 loài hoa mà người Việt chúng ta ít biết tới, được các nước Châu Âu dùng làm thuốc trị bệnh viêm da, phụ nữ đau bụng kinh, viêm loét dạ dày và chứng cảm lạnh. Hoa chamomile vốn là dược thảo cổ truyền của dân tộc Slovakia, nằm gần nước Đức, nhưng có lịch sử trớ trêu là Đức thấy chamomile quá quý, nhân là nước lớn lân bang nên nhận bừa là đặc sản của mình. Chuyện này không khác gì chuyện thuốc Bắc ở Trung Quốc. Xưa nay chúng ta có thói quen, hễ mua thuốc Đông y là kỳ kèo cho được thuốc Bắc mà quên rằng thuốc Nam cũng có cái hay riêng của nó. Hơn nữa, nói thuốc Bắc thuốcNam là nói về địa lý giữa nước ta với nước Tàu chứ không phải nói về tính được như chúng ta thường nghĩ. Ví dụ như vị Sơn tra, Hoài sơn, Phụ tử, quan quế, trầm hương (còn gọi là kỳ nam), vốn là dược liệu quý của nước ta, là thuốc Nam chính hiệu. Nước Tàu, do điều kiện thổ nhưỡng, không thể có những loại dược liệu vừa kể. Trong quá khưs cũng như hiện tại, người Tàu thường sang nước ta tìm mua một số thuốc Nam đem về chế biến, gọt dũa đôi chút cho dễ coi rồi bán lại cho dân ta dưới danh vị “thuốc Bắc”.Thế là tư tưởng chúng ta bị đầu độc. Không mấy ai ngờ rằng khách vào nhà mình bằng cửa sau gạ mua gia sản với giá rẻ mạt rồi vác ra cửa trước bán lại cho ta với giá cắt cổ. Vậy mà vẫn có người khen đồ tốt, bán mắc cũng mua. Điều đó nói lên cái gì? Nói lên cái hệ luỵ bởi 1.000 năm nô lệ, chúng ta tự đánh mất bản sắc và tính tự hào dân tộc. Thầy Tàu thầy Việt, thuốc Bắc thuốc Nam, mỗi người mỗi thứ đều có cái hay cái dở riêng, không thể dựa vào yếu tố địa phương hay đa số mà kết luận vội. Điều quan trọng là giỏi nghề, giàu kinh nghiệm, sử dụng thuốc đúng, có khoa học tính là đạt yêu cầu. “Thuốc Nam cho người Việt Nam”, câu nói của danh y Hải Thượng Lãn Ông quả thật chí lý.
- Đặc tính thứ hai, nấm hương còn có màu trắng bẩn, chân và táng nấm có hương Nhật Bản là nhằm xác định 2 chi tiết:
a. Xác định loại nấm hương có màu trắng bẩn, chân và táng nấm có những vằn hình răng lược, đặc biệt mặt trên mũ nấm có nhiều rãnh nứt cạn tạo thành các khung to nhỏ không đều, trông giống như cánh hoa đang nở, nên mới đặt tên nấm hương hoa. Thực tế, nó giống như mặt ruộng vào mùa khô hạn.
b. Xác định quê quán. Nguồn gốc của loại nấm này ở Nhật Bản. Đây là điểm quan trọng nhầm phân biệt với 2 loại nấm của Trung Quốc là nấm đông cô màu đen và nấm hương hoa của Trung Quốc cũng có màu sắc và các đặc tính tương tự như nấm hương Nhật Bản.
Xét về lịch sử, cuộn chỉ rối quanh nấm hương hoa giữa hai dân tộc Nhật và Trung Quốc đều thấy có dùng vị nấm hương hoa để làmthuốc bổgia tăng sức lực, điều hoà khí huyết, chống mệt mỏi, trị các bệnh phong thấp, cảm lạnh, bệnh sởi trẻ em, viêm phế quản, chứng sưng phù, bệnh khý sinh trùng đường ruột, bệnh đậu mùa (smallpox) và cả trường hợp trúng độc do ăn các loại nấm khác đã được ghi chép vào y văn cách đây hằng nghìn năm. Các thầy thuốc thời cổ đại của Nhật cũng như Trung Quốc còn dùng nấm hương để bảo dưỡng nhan sắc, kéo dài tuổi thanh xuân, cải lão hoàn đồng.Nhưng theo một tài liệu của Nhật cho biết, sở dĩ có tên Shiitake là do 1 loài nấm hương hoang dã mọc trên thân gỗ Shiia nên người Nhật đặt tên Shiitake, mạc dù loại nấm này còn thấy mọc trên các loại gỗ có táng rộng khác như: Gỗ cây dẻ (chestnut), sồi (beech), phong (maple), hồ đào (walnut) hay gỗ cây dâu(mulberry). Nhật nói “của tôi”. Tàu nói “của tôi”. Ai là sở hữu chân chính món quà quý giá từ Thượng Đế? Càng hỏi càng mệt trí!
- Về phương diện y học: Nấm Shiitake, tức nấm hương hoa, đã từng được các Trung tâm nghiên cứu ở Đức, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản đưa vào khảo sát trên nhiều lãnh vực như: Tính năng miễn dịch, di truyền học, kháng sinh… Nhiều cuộc thí nghiệm qui mô đã tiến hành liên tiếp trong nhiều năm. Sở dĩ nấm hương Shiitake được giới khoa học đặc biệt quan tâm làm nhắm vào các tính năng sinh học và hoá học tự nhiên để điều trị các chứng cảm lạnh, viêm mũi dị ứng, hen suyễn, viêm gan siêu vi B, viêm loét dạ dày, cholesterol huyết cao, viêmthận, bệnh dời leo (herpes), các chứng viêm tấy ngoài da, hội chứng mệt mỏi, bệnh HIV/AIDS và đặc biệt trị được cả bệnh ung thư (cancer) do ứng dụng từ kinh nghiệm dân gian.
Một trong những cuộc nghiên cứu đáng ý chú nhất là các nhà khoa học Nhật dùng bào tử của giống nấm hương Lentinus edodes, tức nấm hương Nhật Bản đem gieo trồng. Theo dõi một thời gian, chờ cho đến khi các phôi tạo hình nụ nấm, tức vào giai đoạn chưa mọc ra chân nấm hay tán nấm, họ liền thu hoạch và đưa vào chiết xuất lấy ra một hoạt chất ở thể lỏng có tên là “Lentinan”. Quý vị có biết chất Lentinan để làm gì và giá bán trên thị trường thế giới ra sao không? Chất Lentinan là một trong 8 loại thuốc trụ ung thư nổi tiếng nhất Nhật Bản hiện nay. Giá bán thật kinh hoàng, 1 lọ chứa 5cm3 Lentinan có lúc bán đến $2.500Mỹ kim hoặc hơn trên thị trường chợ đen. Do nhu cầu tiêu dùng quá lớn, người ta lấy luôn cả loại nấm hương đã tạo hình chân nấm và tán nấm để chế thuốc bán mà giá cả vẫn treo lơ lửng trên trời. Nhiều người biết đây là trò bá đạo, thừa nước đục thả câu, nhưng thị trường là thị trường, hễ còn người mua là còn sản xuất.
- Về phương diện lâm sàng: Đối với nền y học cổ trueyèn, nấm hương đã được sử dụng làm thuốc ít nhất 2-3 nghìn năm trước Công Nguyên. Nhưng về khoa học thực nghiệm, nấm hương chỉ mới được các khoa học Nhật Bản mang ra thử nghiệm trên con người từ năm 1980. Họ cho tiêm chất Lentinan vào cơ thể để điều trị bệnh ung thư.
* Loại thử nghiệm đầu tiên với 264 bệnh nhân mắc bệnh ung thư dạ dày (stomach cancer), được chia thành 2 nhóm: Nhóm thứ nhất 132 người trị liệu bằng cách kết hợp giữa chemotherapy với Lentinan, trong khi nhóm thứ hai 132 bệnh nhân chỉ dùng chemotherapy đơn thuần. Kết quả, tỷ lệ bệnh nhân thuộc nhóm 1 sống lâu hơn nhóm 2 trung bình 4 năm. Cuộc thử nghiệm đối với bệnh ung thư tuỵ tạng (pancreatic cancer) cũng cho một kết quả tương tự. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa hiểu rõ tại sao chất Lentinan chỉ có tác dụng lên khối u hay kháng lại tế bào ung thư mà không ảnh hưởng gì tới các tế bào lành mạnh. Họ ghi nhận một điều quan trọng là chất Lentinan trong nấm hương giúp nâng cao hệ thống miễn dịch.
* Các nhà nghiên cứu cho tiến hành thêm 2 cuộc thí nghiệm về Lentinan với người đã có dấu hiệu bị nhiễm HIV/AIDS cho thấy kết quả như sau:
- Trong ca thứ nhất, sau khi sử dụng Lentinan trong vòng 8 tuần lễ cho 39 bệnh nhân, đo đếm lại lympho bào T4 là loại tế bào chuyên trách kháng sinh thì thấy chất Lentinan kích hoạt hệ thống miễn dịch đạt tới 30%.
- Trong ca thứ hai, dùng phương pháp Placebo, tức phương pháp giả hay phương pháp trấn an, với 100 người bị nhiễm HIV thì thấy kết quả như sau: Bệnh nhân nào dùng chất Lentinan phối hợp với thuốc Didanosine (tên thật nhưng thuốc giả) thì hệ thống miễn dịch tăng cao hơn những người chỉ dùng độc vị Didanosine.
Từ kết quả đầy khích lệ này, các nhà khoa học đang xem xét tới vấn đề đưa chất Lentinan vào phạm vi y dược, chế thành thuốc trị bệnh AIDS. Nếu thành công, nó có 2 điều lợi: Một là giá thành rẻ hằng chục lần hơn so với thuốc Zidovudine (còn gọi biệt dược AZT) hoặc Didanosine đang sử dụng quá mắc. Hai là giảm được rất nhiều phản ứng phụ dẫn tới tình trạng kém hiệu quả điều trị trong khi chất Lentinan đầy hứa hẹn và đạt được cả 3 ưu điểm: vừa rẻ, hiệu quả vừa an toàn. Nên nhớ rằng virus HIV và nhiễm trùng cơ hội là 2 nguyên nhân chính dẫn tới cái chết trên 95% những người bị bệnh AIDS.
* Chưa dừng lại ở đây, các nhà nghiên cứu còn dùng chất Lentinan để trị hội chứng mệt mỏi kinh niên với dấu hiệu sốt, mệt nhọc, uể oải, cơ bắp đau mỏi triền miên mà không tìm ra được bệnh gì. Nhiều người mắc phải hội chứng kỳ quái này và thường bị qui kết vào loại bệnh tà, bị bùa ngải trù ếm. Sau khi dùng Lentinan, sức khoẻ hồi phục, mất hẳn chứng sốt và mệt mỏi lâu ngày.
* Các nhà khoa học thử cho dùng nấm Shiitake theo dạng thực phẩm, cũng thấy một số tác dụng tốt đối với bệnh tim mạch và bệnh gan. Nấm Shiitake dùng tươi hay khô cũng giúp làm giảm mức cholesterol trong máu. Có 3 ca bệnh viêm gan siêu vi được thử nghiệm với hoạt chất Lentinan, thấy men gan giảm rõ rệt, các triệu chứng đau hông, đầy bụng, mệt mỏi được cải thiện dần dần. Ở đây cũng xin nói thêm một chuyện, trong thời gian qua, các nhà y học Trung Quốc có dùng vị Minh Đảng Sâm để điều trị bệnh viêm gan siêu vi (hepatitis virus) thì thấy có kết quả tốt và có phổ biến cho giới nghiên cứu Hoa Kỳ biết. Cùng thời gianđó, nhóm chuyên gia y tế Hoa Kỳ đã cho thử nghiệm dùng chất Lentinan và Minh đảng sâm để trị 72 ca bệnh viêm gan siêu vi B thì thấy nhóm dùng Lentinan có tác dụng mạnh hơn, nhanh hơn, đạt hiệu quả cao hơn, nhóm bệnh nhân dùng Minh đảng sâm. Qua đó, cả hai nhóm nghiên cứu y học đã chia xẻ kinh nghiệm và đồng thuận quan điểm về tính năng kháng thể của chất Lentinan. Hiện nay, chất Lentinan dùng ở 2 dạng tiêm vào tĩnh mạch và uống giọt được bán khá phổ thông nhưng giá thành rẻ hơn trong khi tác dụng không thua kém Lentinan bao nhiêu.
- Tuy nhiên, nếu không có tiền mua Lentinan hoặc sợ chế phẩm Shiitake là đồ dỏm, chúng tôi xin cống hiến quý vị một phương pháp trị bệnh ung thư và nhiều chứng bệnh khác có nấm hương Shiitake theo công thức sau đây:
Linh chi thảo 1 phần
Nấm Shiitake 2 phần
Bạch hoa xà thiệt thảo 3 phần
Bán chi liên 2 phần
Tổng cộng 4 vị, mua về sắc uống hoặc nấu nước uống hàng ngày thay trà, cũng có thể tự mình xay ra bột mịn làm viên uống, ngày 2-3 lần, mỗi ngày 12-15g. Bài thuốc này, về lâm sàng, có tác dụng kháng tế bào ung thư, trị viêm gan, đau tim, giúp hạ cholesterol không kém gì chất Lentinan, giá lại rất rẻ, thích hợp cho mọi người, đặc biệt cho người nghèo.
Bây giờ tới vấn đề thắc mắc: Vậy nấm Shiitake và chất Lentinan tác dụng như thế nào? Theo các nhà nghiên cứu giải thích, nấm Shiikate hoạt động dưới hình thái nâng cao hệ thống miễn dịch trong cơ thể, gia tăng sức đề kháng hơn là trực tiếp tấn công vào khối u, vi trùng hoặc các tác nhân lạ như vi khuẩn HIV. Điều đó giống như hậu phương tiếp tế đầy đủ quân số, lương thực, vũ khí cho lực lượng tác chiến mà tế bào T4 chính là lực lượng chiến đấu chuyên nghiệp. Hậu phương mạnh, bổ sung đầy đủ nhu cầu thì việc giải quyết chiến trường chỉ còn là thời gian. Điều đáng quan tâm là vi khuẩn HIV có khả năng làm quen với lympho bào T4, coi như người nhà, nên tế bào T4 bị vi khuẩn HIV ám toán tiêu diệt theo kiểu “đâm sau lưng chiến sĩ”. Vì mất lực lượng bảo vệ, cơ thể bị hằng loạt bệnh khác tấn công, kiệt sức mà chết. Xét về phương diện hóa lý, trong nấm hương Shiitake có chứa thành phần Polysaccharides, đặc biệt là chất Lentinan, eritadenine, tyrosinase và chất sợi thường thấy trong các loại nấm gỗ. Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ ghi nhận một hiện tượng kỳ lạ là nếu đặt nấm Shiitake ngoài chỗ có ánh nắng mặt trời trong vòng 3 tiếng đồng hồ sau khi thu hoạch thì thấy hàm lượng Vitamin D tăng lên gấp 5 lần, mùi hương cũng thơm hơn, thành phần amino acid cũng gia tăng nên rất có lợi cho trẻ em và người lớn bị suy nhược hoặc cần bổ sung thêm nguồn vitamin D.
- Về liều dùng: Trước hết, có lẽ các bà nội trợ đã biết mặt nấm hương hoa hết rồi phải không? Cứ ra chợ thấy loại nấm đông cô nào màu trắng đục, trên mặt tai nấm có nhiều lằn nứt, điểm đốm màu xám tro, ngưởi có mùi thơm lừng là đúng nấm shiitake. Không nên mua loại nấm hương màu đen do Trung Quốc sản xuất, tuy giá rẻ hơn nhưng chất lượng kém, ăn vô đầy bụng, khó tiêu.
Nếu hằng ngày dùng nấu ăn như: Nấu canh, nấu súp, xào hay kho nấm shiitake, chỉ cần tối đa 100g nấm là đủ mặc dù các nhà nghiên cứu y học chưa ghi nhận một phản ứng phụ đáng quan ngại nào khi dùng nhiều hơn.
- Nếu dùng loại capsule thì ngày 2 lần, mỗi lần 1 viên (400mg)
- Nếu dùng dạng thuốc giọt thì ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 1 giọt.
- Còn uống thuốc thang hay thuốc tể thì dùng công thức mà chúng tôi vừa giới thiệu ở trên, gồm 4 vị: Linh chi thảo, nấm shiitake, Bạch hoa xà thiệt thảo, Bán chi liên, có thể gia Hoàng kỳ, Đảng sâm và Ngũ vị tử vào cho sức thuốc mạnh thêm. Công thức này có năng lực cải thiện nhiều chứng bệnh mãn tính khó trị như: Lây nhiễm HIV/AIDS, ung thư vú, tử cung, ung thư gan, viêm gan, ung thư dạ dày, viêm loét dạ dày, bệnh tim mạch, cao cholesterol bag hội chứng suy nhược cơ thể. Nói chung, người khỏe uống khỏe thêm, người có bệnh có nhiều cơ may hồi phục sức khỏe lâu dài.
Hy vọng nấm hương giúp ích cho mọi người. Biết thêm một loại nấm ăn, ngoài giá trị dinh dưỡng thơm ngon, còn có công dụng to lớn về lãnh vực y học mà nếu không nhờ nghiên cứu sẽ không thể biết được ngay trước mặt chúng ta có vô số dược liệu quý nằm ẩn tàng bên trong các loại thực phẩm xem chừng rất tầm thường.
Đông Y Sĩ CẢNH THIÊN
CHƯƠNG 3
HỆ THỐNG CƠ BẮP
(Muscular System)
Chữ Muscle, dịch sang tiếng Việt gọi là cơ bắp hay bắp thịt, có nguồn gốc từ chữ “mus” của tiếng Latin, có nghĩa là “con chuột nhắt – little mouse”. Bởi vì trong cơ thể, bắp thịt có lúc nổi cao có lúc ẩn khuất theo nhịp co duỗi, giống như con chuột trốn chạy dưới da.
Nhiệm vụ trọng yếu của cơ bắp là co (contraction), tức là rút lại (shortening). Với khả năng đặc biệt này, cơ bắp có trách nhiệm làm cho cơ thể chuyển động như cái máy.
TỔNG QUÁT
1. CÁC LOẠI CƠ BẮP (Muscle types):
Cơ được hình thành bởi mô (tissue). Có 3 loại mô cơ (muscle tissue):
- Cơ xương (skeletal muscle)
- Cơ tim (cardiac muscle)
- Cơ trơn (smooth muscle)
Chúng khác nhau tùy theo cấu trúc của tế bào, vị trí và sự co rút do kích thích.
- Cơ xương (Skeletal muscle): Gồm nhiều sợi cơ (muscle fibers) hợp lại, lưu trứ trong cơ quan bằng cách gán dính vào xương, hình dáng thon ở hai đầu như điếu thuốc xì gà hay bắp chuối, dài nhất khoảng 1 foot (30 cm).
Cơ xương là loại cơ sọc (striated muscle) vì sợi cơ có hình sọc dài và thuộc dạng cơ chủ động (voluntary muscle) vì là loại cơ day nhất làm việc có sự điều khiển, kiểm soát. Tuy nhiên, cơ xương cũng hoạt động theo năng lực phản xạ cực nhanh cực mạnh mà không cần ra lệnh, có điều rất dễ mỏi cần được nghỉ ngơi chốc lát sau mỗi chu kỳ co cơ.
Cơ xương mềm và mảnh dẻ, không nên căng kéo quá sức. Sở dĩ chúng không bị xé rời là nhờ hằng nghìn sợi cơ được bó chặt vào nhau bằng mô liên kết (connective tissue). Mỗi sợi cơ lại được bọc bằng thứ màng (sheath) liên kết thật tinh vi gọi là mô bọc sợi cơ (endomysium). Cứ vài ba sợi cơ có màng bọc thì được “cuộn” bằng một màng sợi thô bên ngoài gọi là bao ngoài cơ vân (epimysium). Đầu cơ vân giống như sợi dây thừng, có sức mạnh gọi là gân (tendons), hình tướng giống như phiến lá nên còn gọi là mạc (aponeuroses), như mạc bụng (abdominal aponeurosis), mạc đùi (femoral aponeurosis)… Cơ vân gắn dính cơ bắp lên xương, lên sụn hoặc lên mô liên kết bao bọc quanh chúng.
- Cơ tim (cardiac muscle): Đây là loại cơ độc nhất chỉ được tìm thấy ở tim mà thôi. Tim phục vụ bằng 1 cái bơm (pump), đẩy máu vào mạch máu (blood vessels) đi khắp các mô (tissues) trong cơ thể. Cơ tim có sọc như cơ xương nhưng làm việc không chủ động, không ý thức và không có kiểm soát giống như cơ trơn.
Cơ tim được bọc lót bằng mô liên kết thật mịn và xoắn theo hình số 8. Khi tim hoạt động, các ngăn (chambers) bên trong trở nên hẹp lại, ép máu vào động mạch chủ (large arteries) thoát ra khỏi tim. Cơ tim là loại cơ sợi gồm những tế bào phân nhánh, được nối kết hết sức đặc biệt gọi là dĩa xen kẽ (intercalated disks). Có hai cấu trúc đặc trưng: Tế bào phân nhánh và xoắn theo hình số 8, giúp cho tim hoạt động nhịp nhàng, đều đặn. Tuy nhiên, tim cũng có thể bị kích động bởi hệ thống thần kinh (nervous system) làm cho gia tăng tần số nhịp đập khi ta chạy đua hay bị rượt đuổi.
- Cơ trơn (smooth muscle): Không có sọc như cơ xương hay cơ tim và làm việc không chủ động, nghĩa là ta không điều khiển hay kiểm soát nó được. Cơ trơn hiện diện bên trong thành, vách các cơ quan tạng phủ, như thành dạ dày (stomach), vách ống bàng quang (urinary bladder), ống khí quản (respiratory passages).
Cơ trơn được xếp thành nhiều tầng hoặc nhiều lớp nhưng hầu hết thường có 2 lớp: 1 chuyển động theo chiều dài. Chúng tự thay đổi kích cỡ cho phù hợp với từng cơ quan, luân phiên nhau làm việc và nghỉ ngơi. Cơ trơn vận chuyển thức ăn qua ống tiêu hóa (digestive tract), cai quản việc tống khứ những chất lắng đọng trong bàng quang (bladder) và đường ruột (bowel). Sự vận hành của cơ trơn chậm và nhẫn nhục. Nếu so sánh cơ xương như chiếc xe chạy cực nhanh lại chắp thêm đôi cánh đang lao xuống dốc thì cơ trơn giống như cỗ máy nặng nề đang ì ạch leo lên dốc một cách kiên trì không hề mệt mỏi.
2. CHỨC NĂNG CỦA CƠ BẮP (Muscle functions)
Cơ bắp giữu bốn vai trò quan trọng trong cơ thể:
- Truyền động (Producing movement): Tất cả sự chuyển động cửa cơ thể như đi, bơi lội, ngồi, xoay trở, cầm nắm… là do cơ bắp làm việc, đúng hơn là sự phản ánh hành động của cơ xương. Nó có khả năng cho chúng ta sự thay đổi hoạt động cực nhanh khi môi trường bên ngoài thay đổi. Đối với cơ trơn nằm trong thành mạch máu và trong cơ tim, chúng cùng hoạt động với nhau để vận chuyển máu và duy trì huyết áp, còn bên trong các cơ quan khác thì bài tiết chất lỏng như nước tiểu, nước mật hay thúc đẩy chất khác trôi qua ống tiêu hóa như thực phẩm…
- Duy trì tư thế (Maintaining posture): Cơ xương giữ vai trò duy trì tư thế cho cơ thể một cách lâu dài nếu cần, như đứng thẳng hay ngồi yên. Khi có một sự thay đổi nhỏ, cơ xương tự động điều chỉnh lại ngay.
- Cố định khớp xương (Stabilizing joints): Nhờ cơ xương kéo xương cử động nên cơ thể mới di chuyển được. Ngoài ra, cơ xương còn giữ cho khớp nằm yên trong vị trí và tăng cường sức bám chặt giữa các khớp bằng những cơ gân (muscle tendons). Nhờ vậy, mọi sự chuyển động, căng kéo quá tải, khớp xương vẫn được bảo vệ an toàn.
- Tạo nhiệt (Generating heat): Tạo nhiệt là tác động phụ của cơ bắp, dùng để duy trì nhiệt lượng bình thường cho cơ thể. Cơ xương chiếm ít nhất 40% tỷ lệ trọng lượng cơ thể. Vấn đề cơ bắp tạo ra nhiệt năng để tự chăm sóc lấy mình là điều tất yếu nhưng thật kỳ diệu.
3. CHUYỂN ĐỘNG (Movements)
Có hơn 600 cơ xương và mỗi cơ xương bám vào xương ít nhất 2 chỗ bằng loại mô liên kết. Một đầu cơ thuộc dạng gốc (origin), được gắn vào xương bất động hay ít bất động. Một đầu kia thuộc dạng cài đặt (insertion) gắn vào xương di động. Khi cơ bắp làm việc, đầu cơ cài đặt di chuyển về hướng đầu cơ gốc. Khi cơ thể chuyển động, tức là các cơ làm việc, truyền lực qua xương và tùy thuộc vào tính năng của khớp với cơ bắp tại nơi liên hệ theo mô hình sau đây:
1. Các thế truyền động của cơ bắp (Muscle movements):
- Động tác uống cong (Flexion): Đây là sự chuyển động gập khớp tạo ra một góc hẹp nhất giữa 2 xương. Ví dụ: Cúi đầu, co gối, giơ tay lên đầu.
- Động tác duỗi thẳng (Extension): Là sự chuyển động ngược lại thế uốn cong, tức là mở rộng góc khớp xương. Ví dụ: Ngước cổ, đưa cánh tay ra sau, duỗi chân.
- Động tác dang rộng (Adduction): Là sự chuyển động phần tay chân ra xa với tư thế chính. Ví dụ: Dang cánh tay ra khỏi hông, xòe ngón tay hay ngón chân.
- Động tác khép lại (Adduction): Là sự chuyển động ngược chiều với thế dang rộng, tức là khép xương vào sát với trọng tâm cơ thể. Ví dụ: khép 2 chân, 2 tay.
- Động tác xoay vòng (Rotation): Là sự chuyển động 1 cái xương chung quanh trục đốt xương cổ thứ 2 (axis) của nó. Ví dụ: Lắc đầu qua trái hay qua phải.
- Động tác xoay tròn (Circumduction): Là sự chuyển động liên hợp giữ động tác uốn gập, duỗi thẳng, dang rộng và khép lại. Ví dụ: Xoay tròn cánh tay qua trục xương vai.
- Động tác qua sấp (Pronation): Là sự chuyển động ngược chiều với quay sấp. Ví dụ: Xoa bàn tay ngược chiều kin đồng hồ.
- Động tác lật vào (Inversion): Là sự chuyển động bàn chân gập vào trong.
-Động tác lật ra (Eversion): Là sự chuyển động bàn chân lật ra ngoài.
- Động tác gập lên (Dorsiflexion):Là sự chuyển động mu bàn chân hướng lên đầu.
- Đông tác gập xuống (Plantar flexion):Là sự chuyển động gập mu bàn chân hướng xuống đất.
2. Hoạt động (Activity):
- Kích thích và làm co tế bào cơ xương. Tế bào cơ bắp có bài quyền hạn rất đặc biệt. Thứ nhất, khả năng dễ bị kích thích (irrtability) nhằm đáp ứng sự kích thích. Thứ hai (contractility) là khả năng làm cho cơ ngắn lại khi nhận được sự kích thích.
- Thần kinh kích thích và năng lực hoạt động. Tế bào cơ xương phải có sự kích thích của tế bào thần kinh vận động (motor neuron) mới có thể hoạt động được. Mỗi tế bào thần kinh có khả năng kích thích vài hoặc cả trăm tế bào cơ bắp.
- Đáp ứng nhanh. Khi các cơ sợi (musle fibers) được tác động bởi hệ thống thần kinh, nhiều tiến trình vật lý và hóa học diễn ra rất nhanh, nhịp nhàng bên trong cơ bắp để tạo ra sức mạnh, cắt hay nối chỉnh trong vòng vài phần nghìn giây.
- Co cơ mang tính toàn diện. Cơ xương là cơ quan gồm cả hàng nghìn tế bào cơ bắp và chúng đáp ứng sự kích thích bằng phản ứng có giới hạn theo 2 cách: 1 là thay đổi vận tốc (speed) kích thích cơ và 2 là thay đổi số lượng tế bào cơ được kích thích.
- Mỏi cơ và thiếu dưỡng khí. Khi cơ làm việc quá sức trong một thời gian dài, tình trạng mỏi cơ (muscle fatigue) sẽ xảy ra. Khi cơ mỏi, nó không thể co cho dù vẫn được kích thích. Nếu không được nghỉ ngơi, sức co cơ sẽ yếu và rồi ngưng hẳn hoạt động cho đến khi nào có sự kích thích chấm dứt. Lý do mỏi cơ là do hệ quả của việc thiếu dưỡng khí (oxygen debt) trong quá trình cơ bắp hoạt động không kịp cung ứng đủ số lượng theo yêu cầu.
- Hiệu ứng của cơ bắp qua tập thể dục. Khối lượng thao tác của mỗi cơ bắp tự nó phản ánh những thay đổi. Tập thể dục bình thưùơng sẽ làm gia tăng kích cở, sức mạnh và sự chịu đựng (endurance). Tuy vậy, không phải kiểu tập nào cúngản sinh ra được kết quả tốt mà tùy thuộc vào những lợi ích quan trọng khác nhau về kỹ thuật tập luyện. Chẳng hạn Aerobic là môn tập chịu đựng. Thực tế, aerobic có lợi ích lớn nhất cho xương và cơ xương. Aerobic cho hệ số co cơ lớn hơn, tăng lực chịu đựng cao hơn nhờ lưu lượng máu vận chuyển đến cơ bắp đầy đủ. Nó còn cải thiện được hệ thống tiêu hóa, bài tiết chất cặn bã, nâng cao sự phối vị thần kinh cơ (neuromuscular coordination), giúp cho xương khỏe hơn, cơ tim nở rộng. Nhờ vậy muốn được bơm ra tràn đầy sau mỗi nhịp đập, mở bám trong thành mạch máu bị quét sạch, năng lực buồng phổi khỏe hơn nhờ trao đổi khí mới. Có điều aerobic không phải là môn thể dục giúp tăng trưởng cơ bắp cho dù tiếp tục tập luyện trong nhiều giờ, cho nên muốn nở nang cần chọn một phương pháp khác.
3. Các loại cơ bắp (Types of muscles)
- Khi một cơ hoặc một nhóm cơ làm việc thì một nhóm cơ khác lại hoạt động đối cực (reverse) hay ngược chiều.
- Cơ bắp nào có trách nhiệm chính tạo ra chuyển động gọi là cơ chủ yếu prime mover), còn cơ chuyển động đối lập (antagonists).
- Khi cơ chủ yếu làm việc thì cơ đối lập duỗi ra và nghỉ ngơi. Tuy nhiên, cơ đối lập có thể là cơ chủ yếu theo quy luật riêng của nó. Ví dụ: Cơ nhị đầu (biceps) ở cánh tay vốn là cơ chủ yếu ở thế uốn gập, bị đối kháng bởi cơ tam đầu (biceps) cũng ở cánh tay vốn là cơ chủ yếu ở thế duỗi thẳng.
- Cơ chuyển động đồng thời với cơ chủ yếu hoặc giúp đỡ cơ chủ yếu hoặc phản lực hay không cần thiết thì gọi là cơ bổ trợ (synergists).
- Cơ giữ tư thế, làm cho vững vàng cột sống lưng là cơ nhiễm thể (fixators).
- Cơ tùy theo kích cở mà đặt tên, như cơ to nhất (maximus), cơ nhỏnhất minimus), cơ dài (longus).
- Cơ tùy theo vị trí mà đặt tên, như cơ thái dương (temporalis) hay cơ trán (frontalis) vì 2 cơ bắp nầy nằm trên xương thái dương (temporal bone) và xương trán (frontal bone).
- Cơ tùy vào số lượng cơ nguyên thủy mà đặt tên, như cơ nhị đầu (biceps), cơ tam đầu (triceps) hoặc cơ tứ đầu (quadriceps).
- Cơ tùy theo vị trí cơ nguyên thủy và cơ gắn vào (insertion) mà đặt tên, như cơ xương ức chũm có cơ nguyên thủy trên xương ức (sternum) thì gọi là cơ ức (sterno), trên xương đòn (clavicle) thì gọi là cơ đòn (cleido) và cơ dài trên xương thái dương thì gọi là cơ chũm (mastoid).
- Cơ tùy theo hình dạng mà đặt tên, như cơ hình tam giác thì gọi là cơ delta (deltoid).
- Cơ tùy theo hành động mà đặt tên, như cơ co hay gấp xương lại gọi là cơ gấp (flexor), cơ duỗi (extensor), cơ khép (adductor).
TỔN THƯƠNG CƠ VÀ ĐIỀU TRỊ
(Muscle injuries and Treatments)
Có nhiều nguyên nhân bên trong lẫn bên ngoài gây thương tổn cho cơ bắp dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là bị tàn phế suốt đời hay chết.
1. Thương tổn do nội thân
a. Bệnh nhược cơ (Muscular dystrophy)
- Môt tả: Nhược cơ hay loạn dưỡng cơ do một nhóm bệnh mang tính di truyền (inheritance) gây ra với đặc tính chung là phá hủy. Sau một thời gian phát triển, chúng xâm thực và làm hư hỏng luôn những nhóm cơ lành mạnh bằng cách tăng trưởng mỡ, lắng đọng mô liên kết, trong khi mô sợi lại bị thoái hóa (degenerate) và teo (atrophy).
- Triệu chứng:Nhiều cơ xương đang phát triển bình thường bỗng mất dần bắp thịt, teo nhỏ. Bệnh nhân mất hoàn toàn khả năng đi đứng, phải ngồi xe lăn vì liệt cơ xương.
- Chẩn đoán: Triệu chứng và tiền sử gia đình (tính di truyền) là 2 yếu tố quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh nhược cơ. Dùng phương pháp phát sinh thiết (biopsy) cơ bị bệnh, qua kính hiển vi, các nhà nghiên cứu ghi nhận những cơ sợi (muscle fibers) bị thoái hóa (degeneration) một cách rõ rệt.
Theo y học hiện đại, chữa trị bệnh loạn dưỡng cơ không có kết quả. Phương pháp phục hồi gồm có tập kéo dãn (stretching exercises) và phẫu thuật (surgery) cơ bắp nhầm làm nhẹ bớt phần nào tình trạng gân, cơ bị teo rút. Tuy nhiên hiệu quả rất thấp gần như số không.
Theo Đông Y học, bệnh loạn dưỡng cơ thuộc thể bệnh “Nuy chứng”, tức bệnh gân thịt co rủn trong Y học cổ truyền. Đông y luận giải rằng, chân tay mềm yếu vô lực, cơ bắp nhão, không còn khả năng đứng lên hay cầm nắm đồ vật và trở thành tàn phế có thể do hỏa đốt cháy nội tạng làm cho thận thủy khô cạn hoặc do khí huyết lưỡng hư, thận bại dương suy sinh ra. Pháp trị bệnh gồm giáng Vị hỏa và bổ Thận thủy hoặc ích khí bổ thận trợ dương, dưỡng huyết mạnh Tỳ (vì Tỳ chủ cơ nhục) thì rất nhiều cơ may phục hồi cân cơ.
- Phương dược
Bài số 1: “Giáng bổ thang” của danh y Phó Thanh Chủ, sống bào triều đại vua Khang Hy nhà Thanh Trung Quốc.
Thục địa 30g
Huyền sâm 30g
Mạch môn 30g
Cam cúc hoa 15g
Sinh địa 15g
Bắc sa sâm 15g
Địa cốt bì 15g
Nhân sâm 09g
Xa tiền tử 06g
Bài số 2: (Khởi ni chí thần thang) cũng của danh y Phó Thanh Chủ.
Thục địa 30g
Huyền sâm 30g
Hoài sơn 30g
Cúc hoa 30g
Đương quy 15g
Bạch thược (sao) 15g
Nhân sâm 15g
Bạch giới tử 09g
Thần khúc 06g
Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 30 thang có thể phục hồi.
Bài số 3: “Mao thị nghiêm trọng cơ vô lực thang” của Y sĩ Mao Hữu Phong, Trung Quốc.
Chích Hoàng kỳ 120g
Phòng Đảng sâm 60g
Thục địa 30g
Đương quy 15g
Bạch thược (sao) 15g
Bạch truật (sao) 15g
Bạch phục linh 15g
Xuyên khung 06g
Ba kích nhục 12g
Bắc sài hồ 09g
Chế phụ tử 09g
Quế chi 09g
Cam thảo 06g
Trần bì 06g
Thăng mạ 06g
Gia giảm: Nếu liệt hai chân, gia Bắc đỗ trọng 15g, Ngưu tất 15g.
Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 10 thang là một liệu trình.
Bài số 4: “Lý thị kiện Tỳ bổ Thânh trị nuy thang” của Y sĩ Lý Tế Nhân, Trung Quốc.
Sinh ý dĩ nhân 30g
Ý dĩ nhân (sao) 30g
Kê huyết đằng 25g
Thân cân đằng 25g
Thục địa 20g
Hoài sơn 20g
Câu kỷ tử 15g
Bắc đỗ trọng (sao) 15g
Nhục thung dung 15g
Tỏa dương 15g
Tiên linh tỳ 15g
Tiên mao 15g
Xuyên mộc qua 12g
Ngưu tất 12g
Bạch truật (sao) 12g
Thương truật 09g
Bào xuyên sơn giáp 09g
Sắc uống ngày 1 thang. Cứ 30 ngày là 1 liệu trình.
b. Bệnh nhược cơ kiểu Duchenne (Duchenne’s muscular dystrophy)
Trong 4 kiểu loạn dưỡng cơ thường gặp trên lâm sàng, Duchenne’s muscle dystrophy là kiểu loạn dưỡng phổ biến nhất, tỷ lệ chiếm tới 50%. Đa số xảy ra ở trẻ em trai, từ 2 – 6 tuổi và thường chết ở tuổi dưới 20.
Thoạt đầu, cơ chân và cơ khung chậu hoặc cơ đầu hay cơ ngực bị yếu dần rồi liệt cơ không còn cử động được nữa. Đa số các em chết trước tuổi 12, cếu còn sống đều phải đi xe lăn, tàn tật vĩnh viễn. Nguyên nhân xẩy ra do cơ sợi thiếu chất đạm (protein) để giúp duy trì màng sợi cơ vân (sarcolemma). Chưa có thuốc chữa.
c. Bệnh nhược cơ năng (myasthenia gravis)
Là một bệnh có đặc tính sụp mí mắt trên (eyelids) gây khó khăn khi nuốt và nói chuyện vì cơ không hoạt động. Nguyên nhân do tế bào cơ không được kích thích đúng mức rồi suy yếu luôn. Người bệnh thường chết vì nghẽn đường hô hấp (tespiratory failure).
d. Chứng vọp bẻ, chột rút (Muscle cramps, Spasms, Twitchs).
Chột rút còn gọi là vọp bẻ, vặn bắp thịt, giật gân (Muscle cramps,Spasms, Twitchs and Tics). Hiện tượng nầy thường xẩy ra trên 600 vị trí của cơ sợi, trong đó gân vùng đùi và cẳng chân tiếm tỷ lệ cao nhất, kế đến là cơ gân cánh tay.
Triệu chứng
- Bất ngờ không điều khiển được cơ bắp
- Cơ bắp bị co rút hay xoắn lại mãnh liệt
- Căng kéo 1 phần cơ, gân vùng liên hệ
- Gây đau đớn, bất động tạm thời.
- Thời gian xẩy ra thường vào ban đêm hoặc gặp lạnh đột ngột.
Nguyên nhân
a. Theo Y học hiện đại
- Thường do thiếu hoặc mất cân bằng sinh tố (vitamins) như B 6, C,D,E và chất khoáng (mineral) gồm calcium, magnesium, potassium, iodine.
- Thường xảy ra vào ban đêm vì chất khoáng di chuyển giữa các thành phần máu, cơ bắp và xương, khiến cho sự trao đổi chất mất cân đối.
- Do ăn uống quá nhiều đường tinh chế (refined sugar) hoặc mất cân bằng sodium gây xáo trộn hàm lượng muối khoáng trong cơ thể.
- Do dùng thuốc lợi tiểu trong chứng cao huyết áp hay rối loạn tim mạch.
b. Theo Đông y học
- Chuột rút thuộc chứng “Cân túc” trong Đông y học, Phàm lệ, gân được thư hòa là nhờ huyết hòa, còn mạch được lưu lợi là nhờ khí thịnh. Nay trước, huyết đủ thì khí thịnh, chứng chuột rút sẽ không xẩy ra.
- Thuốc bổ huyết căn bản của Đông y là bài Tứ vật.
Điều trị
*. Chế độ ăn uống
- Nên ăn nhiều thực phẩm VitaminC như: chanh tươi, ớt xanh, rau có màu xanh đậm, brocoli, tomatoes.
- Nên ăn nhiều thực phẩm giàu chất potassium và iodine như: chuối chín, brocoli, hạt hướng dương, đậu non, ngũ cốc, hạt khô, rong biển (seaweeds).
*. Dùng dược thảo
Đương quy 30g
Sao bạch thược 15g
Sao ý dĩ nhân 15g
Sinh địa 15g
Huyền sâm 15g
Bắc sài hồ 15g
Sắc uống ngày 1 thang.
Luận giải bài thuốc: Can thủ về gân, nói cách khác can là gốc, gân là ngọn. Chuột rút tuy do can huyết bế tắc nhưng cũng do can khí uất. Trong toa đại bổ huyết nầy có thêm vị Sài hồ nhầm thư tán khí uất cho gan. Khi huyết hòa, can thư thái thì chứng chuột rút tự lui. Một phương dược rất hay của Đông y.
e. Chứng đau cơ xương (Fibromyalgia).
Chứng đau cơ xương có liên hệ đến thời kỳ tuổi già, do cơ bắp và khớp xương hay đau dai dẳng mà không thể nhận thức từ đâu ra.Chữ Fibro ám chỉ mô liên kết dùng để lót cho êm khớp, còn chữ myalgia chỉ cơn đau ở cơ bắp.
- Triệu chứng: Dấu hiệu đầu tiên của chứng đau cơ xương gồm: cứng khớp, đau khớp, đau cơ và nóng bỏng hoặc đau như bị đánh đập mạnh tại những vị trí rõ rệt và rất nhạy cảm khi sờ tới. Trên cơ thể, chổ bị đau thường là những cơ vùng đầu, cổ, vai trên, cơ lưng, sườn thứ hai, quanh khuỷu tay, mông, đùi, quanh gối. Cơn đau tê hại nhất thường diễn ra vào buối sáng sớm và kéo dài có khi suốt ngày. Một số bệnh nhân cảm thấy thêm triệu chứng đau đầu, mất ngủ, tim đập nhanh, chóng mặt, bồn chồn, mất trí nhớ và chán đời. Đối với phụ nữ còn bị hội chứng đau bụng kinh và thường bị vọp bẻ trong thời gian hành kinh.
- Nguyên nhân
Vẫn chưa biết rõ.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng do hệ thống miễn dịch không hoàn hảo.
Một số nhà khoa học dẫn chứng có sự xáo trộn bên trong bộ não.
Một số nghiên cứu khác cho rằng do nấm (candida) xâm nhập và lan tràn khắp cơ thể gây viêm.
Các học thuyết các lại nói do nhiễm độc thủy ngân (mercury poisoning) chủ yếu từ chất amlgam dùng trong kỹ thuật trám răng của ngành nha khoa, dị ứng bởi hóa chất và thực phẩm, nhiễm độc kim loại nặng, do ký sinh trùng đường ruột (intestinal parasites), giảm glucoza huyết (hypoglycemia), giảm năng tuyến giáp (hypothyroidism), chứng thiếu máu (anemia), nhiễm khuẩn (viral infection) và hội chứng mệt mỏi kinh niên.
2. Thương tổn do bên ngoài
a. Căng cơ và rách cơ (Muscle strains and tears)
- Căng cơ (Muscle strains)là tình trạng hư hỏng cơ sợi (muscle fibers) và gân (tendons), thường do kéo giật, vặn tréo hay găng sức quá mức (overxertion) trong một hành động bất chợt hay thường xuyên khiến chảy máu bên trong và làm cho cơ trở nên mềm nhão, sưng lên, kèm theo những cơn đau thắt (painful spasms). Điều dễ nhận có thể là vết bầm tím lộ ra ở chổ cơ hay gân bị tổn thương.
- Rách cơ (Muscle tears)cũng là tình trạng hư hỏng cơ sợi như trường hợp căng cơ nhưng đau khủng khiếp hơn và sưng nặng hơn. Máu chảy bên trong cơ thường đóng thành cục máu đông (blood clot) và Bác sĩ pahỉ sử dụng đến kim hoặc phẫu thuật để rút máu tích tụ ra.
Điều trị
- Cấp thời
Chườm một túi nước đá (ice pack) hoặc một miếng vải ướp lạnh vào vết thương, nâng cao vết thương lên và tiếp tục giữ bất động cho đến khi gặp Bác sĩ điều trị.Công dụng là ngăn chặn sự chảy máu, giảm sưng và giảm đau tạm thời. Đối với những người không thể hoặc không đi Bác sĩ, sau 24 giờ chườm lạnh, đổi sang chườm nước nóng. Phương pháp này nhằm gia tăng lưu lượng tuần hoàn của máu, thư giãn cơ bắp hay khớp xương đã bị đông cứng và đau. Nó cũng cải thiện tình trạng hoạt động thêm hoàn mỹ hơn.
Đắp hỗn hợp củ hành tây (Otion – Allium cepa) và Comfrey (Symphytum officinale) lên vết thương ít nhất một tiếng đồng hồ. Cách làm như sau: Dùng một lượng củ hành tây và Comfrey bằng nhau, giã nát như cám. Đun một nồi nước, miệng nồi bịt kín bằng một miếng vải sạch, trải thuốc lên mặt vải. Chờ nước gần sôi, trộn thuốc cho đều trong vài phút để thuốc hút lấy hơi nước ấm dần lên, đem đặt vào chổ bị thương. Củ hành tây và Comfrey đều có công dụng giảm sưng, giảm đau, ngằn ngừa vết thương nung mủ.
- Phục hồi
Uống đủ nước, từ 6 – 8 ly mỗi ngày để tẩy rửa chất độc (toxins)
Ăn đầy đủ chất bổ dưỡng, nhất là chất đạm (protein), vì chất đạm cần cho việc sửa chữa và tái tạo mô (tissue).
Uống Bromelain, một loại enzyme chiết xuất từ quả dứa hay khóm (pineapple) có khả năng kháng viêm, chống sưng, giảm đau và chóng lành. Liều dùng 250-500 mg, ngày 3 lần giữa bữa ăn cho đến khi hết sưng.
Uống calcium và Magnesium hỗn hợp để phục hồi mô liên kết (connective tissue). Liều dùng 500-1.000 mg calcium và 250-500mg magnesium, ngày 1-2 lần.
Dùng thêm Vitamin C giúp cải thiện mô hư hỏng và chống viêm. Thêm Zinc 25mg, ngày 2 lần trong vòng 2 tuần lễ để vết thương chóng lành. Nên uống Zinc giữa bữa ăn để tránh xáo trộn dạ dày và nếu dùng liều trên 30mg/ngày liên tục từ 1 – 2 tháng cần phải uống thêm Copper 1-2mg/ngày để duy trì chất khoáng (mineral) không bị thu hút mất.
- Dược thảo trị liệu
Bài 1
Sinh địa 30g
Sao Đại hoàng 09g
Xích thược 09g
Đương quy vĩ 15g
Sao chỉ xác 15g
Quy bản (sao giấm) 09g
Mẫu đơn bì 03g
Đào nhân 02g (sao, giã nát)
Lấy nước sắc uống mỗi ngày 1 thang liên tục 3 – 5 tháng.
Bài 2
Đào nhân 06g
Hồng hoa 06g
Tô mộc 09g
Xích thược 09g
Trạch lan 06g
Đương quy vĩ 09g
Chế hương phụ 06g
Mộc hương 03g
Khương hoàng 06
Chế mộc dược 03g
Huyết kiệt 09g
Chỉ xác 06g
Sinh địa 09g
Sắc uống ngày 1 thang liên tục 5-7 thang.
- Viêm gân và rách gân (Tendinitis and tears):
Gân (tendons) là những sợi nhỏ do mô sợi (fibrous tissue) hợp thành, gắn liền với bắp vào xương. Gân rất mạnh và rất dẻo nhưng không thể kéo dãn ra được. Tình trạng bị viêm gân thương do sự gắng sức quá mức trong các động tác và thể thao hoặc những tai nạn bất ngờ. Khi sự căng kéo quá mức, gân sẽ bị viêm, tét và sưng lên, gây đau buốt cục bộ, làm cho dân và cả cơ trở nên yếu di. Chẳng hạn chứng tennis elbow là loại viêm gân cánh tay ngoài do chơi môn quần vợt, golfer’s elbow là loại viêm gân cách tay trong do chơi mốn đánh golf, còn đấu thủ quần vợt thường bị viêm gân bả vai (painful arc syndrome)…
Điều trị
Cấp thời: Ứng dụng theo chỉ dẫn ở mục Căng cơ và rách cơ.
Dược thảo
Bài 1: Bổ cân hoàn
Ngũ gia bì 30g
Xà sàng tử 30g
Trầm hương 30g
Đinh hương 30g
Xuyên ngưu tất 30g
Bạch phục linh 30g
Liên tu (nhụy sen) 30g
Nhục thung dung 30g
Thỏ ty tử 30g
Thục địa 30g
Mẫu đơn bì 30g
Mộc qua 30g
Sơn dược 24g
Mộc hương 09g
Kiết lâm sâm 09g
Đương quy 30g
Cách làm: Ngâm rượu uống hoặc tán bột mịn trộn với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g, uống với rượu.
Liều lượng:Ngày hai lần, mỗi lần 1 cốc nhỏ rượu hay 1 hoàn tễ nặng 12g.
Công dụng: Bổ gân, phục hồi gân bị tổn thương do sưng bâm, tét, viêm gân.
Bài 2:Chỉ uống bổ cân hoàn
Thục địa 60g
Sao bạch thược 60g
Trần bì 60g
Đương quy 30g
Hồng hoa 30g
Nhũ hương 30g
Bạch phục linh 30g
Cốt toái bổ 30g
Đinh hương 15g
Một dược 03g
Xuyên điền thất 09g
Lưu ký nô 09g
Diên hồ sách 06g
Hương phụ 06g
Mẫu đơn bì 09g
Cách làm: Tán bột mịn trộn với mật ong làm hoàn 12g
Liều dùng: Ngày nhai 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn với rượu.
Công dụng:Bổ gân, chống sưng, tụ máu, tét gân. Tác dụng chống đau, nhức mạnh hơn bài 1.
U cơ (Muscular tumors, Myomas, Fibromyomas):
U cơ tên gọi chung một loại u lành tính của cơ trơn (smooth muscle), không thuộc dạng ung thư (noncancerous tumor). Loại u cơ nầy phần lớn phát triển bên trong thành tử cung (uterus) hoặc cổ tử cung (cervix) của phụ nữ mặc dù cũng thấy xuất hiện ở mô liên kết (connective tissue), trên dây chằng tròn (round ligament) hay dây chằng rộng (broad ligament).
Theo thống kê, phụ nữ bị u cơ hay u xơ – cơ chiếm tỷ lệ 20-30% ở độ tuổi trên 30, nhiều nhất từ 35-50 tuổi. Rất hiếm dưới 20 tuổi.
Nguyên nhân
- Do rối loạn chức năng buồng trứng.
- Do chiết xuất quá nhiều steroid hormones, gồm kích thích tố estrogen và progesterone.
- Do sự tăng trưởng của biểu bì (epidermis) làm phát triển u cơ trơn (leimyoma). U cơ trơn có đặc điểm xuất hiện ngay sau khi phụ nữ bắt đầu có kinh nguyệt (menarche) và teo lại sau thời kỳ mãn kinh (menopause).
Dấu hiệu và triệu chứng
- Hầu hết u cơ hay u xơ – cơ không có dấu hiệu và triệu chứng rõ rệt vào thời kỳ đầu, tức giai đoạn tạo thành.
- Khi u cơ phát triển, xâm thực vào xiêm mạc tử cung hay cổ tử cung sẽ gây ra chảy máu nặng vào giữa chu kỳ kinh nguyệt (menstrual periods) lâu dần sẽ dẫn tới tình trạng thiếu máu. Mặt khác, u cơ còn làm tăng độ cảm ứng âm đạo khiến cho phụ nữ thấy đau và chảy máu giữa lúc hay sau khi giao hợp. Với u cơ to vừa sẽ thấy đau ở vùng bụng dưới.
- Những u cơ khá to có thể tạo áp suất lên bàng quang (bladder) làm cho việc tiểu tiện khó khăn. Nếu khu trú ở đường ruột thì gây ra táo bón hoặc đau lưng, thậm chí có nhiều trường hợp làm nghẽn cả thận (kidney obstruction).
- U cơ phát triển to làm cho tử cung phụ nữ bị vặn vẹo. Nếu cả ống dẫn trứng (fallobian) cũng bị ảnh hưởng thì khó mang thai.
Điều trị
Theo Y học hiện đại
- Dùng thuốc hormone nhân tạo: Progesterone hay androgen.
- Phẫu thuật cắt bỏ u cơ hoặc tử cung.
- Một kỹ thuật mới của trung tâm y khoa Trường Đại học Los Angeles, Tiểu bang Califonia Hoa Kỳ: Rạch một đường rất ngắn ở vùng kẹt háng (groin) rồi luồn một ống thông (catheter) xuyên qua động mạch vào tới vị trí u cơ hình thành trong tử cung với sự trợ giúp của máy quang tuyến (X-ray). Sau đó, cho một số hạt chất dẻo (plastic particles) vô ống thông chèn đúng vào chỗ mạch máu nuôi u cơ. Mục đích là cắt đứt nguồn máu nuôi u cơ, chúng sẽ chết. Việc thực hiện ca tiểu phẫu có gây tê cục bộ (local anesthesia) chỉ mất khoảng một giờ, bệnh nhân hồi sức nhanh, an toàn hơn mổ lớn mặc dù kết quả thành công lâu dài chưa được thống kê đầy đủ.
Theo Đông y học
Đông Yhọc xếp u cơ, đặc trưng là u cơ tử cung (fibroid), vào chứng “Huyết trừng” trong thể bệnh “Trừng Hà tích tụ”.
- Trừng có nghĩa là trong bụng sinh ra vật cứng rắn, ấn vào không tan, không dời đổi vị trí.
- Hà chỉ tình trạng huyết ngưng kết thành khối, thành hòn, tác động bởi khí uất không thông. Tuy nhiên Hà có đặc điểm khác Trừng là ấn vào thì thường chuyển dịch qua lại.
- Chứng Trừng chia thành “Thực Trừng” và “Huyết Trừng”. Thực trừng thường do hậu quả ăn uống không tiết độ, lao thương, khí nghịch kết tụ mà thành hòn cục ngày một to dần không chuyển dịch. Trong khi huyết trừng sinh ra là do tử cung người phụ nữ không điều hòa, huyết ngưng tụ lâu ngày không tan thành hòn cục, không dời đổi vị trí.
Điều trị
1. Ăn uống đúng cách.
- Nên ăn thực phẩm có nhiều chất xơ (fiber) như: trái cây tươi, rau xanh, spinach, kale, brocoli và rong biển. Rong biển (seaweed) vốn dồi dào iodine là chất cần thiết giúp cho tuyến giáp trạng (thyroid) được khỏe mạnh, vì tuyến giám trạng suy yếu cũng là nhân tố tạo ra u cơ tử cung.
- Nên thường xuyên ăn đậu nành (soybeans) hoặc sản phẩm làm từ đậu nành như: đậu hủ, tương, chao, sữa đậu nành …vì trong đậu nành có chứa thành phần kích thích tố nữ (estrogene) tự nhiên,giúp điều chỉnh hormone rối loạn dẫn tới u cơ tử cung.
- Tránh ăn những thực phẩm chiên, xào bằng mỡ động vật. Thịt động vật có nhiều mỡ cũng không tốt vì rất khó tiêu hóa. Việc đình trễ chất cặn bã trong cơ thể là đầu mối của bệnh tật, trong đó có bệnh u cơ tử cung.
- Tránh ăn đường tinh chế (refined sugars), đồ hộp (canned foods), thực phẩm hay đồ uống có gas, caffeine, rượu vì chất khó chuyển hóa. Nên uống nước lọc, mỗi ngày ít nhất 1 lít nước để cơ thể lọc rửa chất độc.
2. Dược thảo đơn giản
- Uống ngày 3 – 4 lần, mỗi lần 500mg Bromelain giữa bữa ăn. Bromelain là một chất Enzyme được chiết xuất từ quả dứa, còn gọi là quả thơm (pineapple), có công dụng làm teo nhỏ chứng viêm tấy (inflammation).
- Uống Vitamin E (chọn loại có trộn thêm chất Tocopherols) và dầu Evening Primrose oil. Đây là hai loại thảo dược thiên nhiên có công năng chống viêm và làm teo u xơ cơ mạnh. Tuy nhiên, đối với người bị huyết áp cao (hypertension), chỉ nên dùng Vitamin E ở liều lượng 400 IU/ngày và với người đang dùng thuốc chống đông máu (anticoagulant), nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng Vitamin E.
3. Dược thảo tổng hợp
- Bài thuốc “Lăng quế thang” gia giảm.
Quế chi 08g
Phục linh 12g
Miết giáp (sao giấm) 20g
Sinh mẫu lệ 20g
Đào nhân 12g
Xích nhược 12g
Mẫu đơn bì 12g
Hải tảo 15g
Côn bố 15g
Hạ khô thảo 15g
Quất hạch 12g
Mộc hương 06g
Chỉ xác 06g
Đinh hương 06g
Tam lăng 06g
Nga truật 06g
Thanh bì 06g
Xuyên huyệt tử 06g
Tiểu hồi 06g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài thuốc “Giáp lệ Đơn Kỳ thang”
Thục địa 20g
Tục đoan 12g
Đảng sâm 15g
Xích nhược 12g
Sinh mẫu lệ 30g
Sa nhân 03g
Phục linh 15g
Sinh Hoàng kỳ 15g
Đan sâm 15g
Từ trường liễu 15g
Diên hồ sách 10g
Uất kim 10g
Sơn tra 15g
Bạch hoa xà thiệt thảo 30g
Bán chi liên 15g
Đương quy 15g
Hạ khô thảo 15g
Sắc uống ngày 1 thang.
Ghi chú: Thường xuyên nấu độc vị Sơn tra 15-30g lấy nước uống thay nước lọc hàng ngày. Sơn tra có khả năng làm tiêu u cơ tử cung trong vài tháng.
TỎI (Garlic)
Hiện nay một số khám phá liên quan đến món gia vị mà khi nói tên ai cũng biết hoặc từng nhai nuốt một đôi lần, đó là Tỏi.
Tỏi, Đông y gọi là Đại toán, tiếng Anh gọi là Garlic, tên khoa học Allium sativum, thuộc họ hành tỏi Liliaceae. Về phương diện y học, tỏi được sử dụng khá phổ biến, dưới nhiều hình thái khác nhau. Sau đây xin giới thiệu một số bài thuốc kinh nghiệm xưa nay về tỏi.
1. Tỏi tươi trị chứng phát bối
Phát bối là bệnh u nhọt, trên sống lưu nổi lên một khối cứng khá to bằng cở đầu ngón tay, màu đỏ, có cảm giác rất đau, gây nóng sốt nhiều ngày.
- Theo Y học hiện đại, đây là chứng viêm (Inflammation), có khả năng nang mủ, cần phải phẫu thuật và dùng kháng sinh trị mới có thể trị lành được.
- Theo Đông y, các thầy thuốc y học cổ truyền thường dùng thủ thuật đơn giản như sau: Lấy một mảnh giấy thấm nước cho ướt đắp lên vết thương. Chờ độ 1-2 phút, nhìn thấy chổ nào kho trước ấy là đỉnh vết thương. Người thầy thuốc liền khoét 1 lỗ nhỏ trên tờ giấy, đúng chổ khô, cho vết thương lộ ra. Tiếp theo lột 10 tép tỏi sống hợp với nửa chén Đạm đậu xị (mua ở hiệu thuốc bắc) giã cho nát nhừ. Mỗi lần lấy một chút bột thuốc nắn thành cái bánh đắp lên đỉnh vết thương rồi dùng cây nhang lớn hay cây ngải cứu đốt cháy đỏ nở lên mặt nước, Khi nào chổ đau phát ngứa thì đổi thuốc khác tiếp tục hơ nữa cho đến khi cảm giác đau thì bệnh sẽ lành. Thao tác cứu đốt nầy kéo dài hằng tiếng đồng hồ, thay đổi bằng chục miếng bột tỏi mới xong, kết quả trị liệu rất hay.
- Nhớ rằng bệnh phát bối, nếu không điều trị sớm thì máu sẽ bị nhiễm độc, còn gọi là chứng “nhiễm trùng huyết”, có thể làm chết người, không nên coi thường.
2.Tỏi trị bệnh viêm quầng
- Viêm quầng là một bệnh đơn độc, có màu sắc đỏ sậm hay hồng, nổi từng đám, tạo thành quầng trên mặt da như miếng cơm cháy trông giống bệnh dời leo (Herpes, Zona) nhưng do nhiệt độc gây ra chứ không phải do virus. Bệnh có triệu chứng hơi ngứa nhưng đau nhức thì rõ rệt hơn. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh sẽ lây lan rất nhanh.
- Cách trị đơn giản nhưng có kết quả là dùng tỏi tươi, giã nát nư bùn, đắp kín vết thương, khô thì thay cái mới. Làm như thế cho đến khi vết thương tự lành thì thôi.
3. Tỏi trị chứng bí đại tiểu tiện
- Gặp một người bị chứng “bỉ tích”, bụng căng đầy, vừa bí tiểu tiện, vừa bí đại tiện. Đây là chứng nguy cấp.
- Hãy nướng ngay 1-2 tép tỏi cho chín, lột bỏ vỏ, dùng vải thưa bọc tỏi nhét vào hậu môn, chẳng bao lâu sẽ đi cầu ra hằng đống phân hôi thối. Tất nhiên hễ đường đại tiện thông suốt thì tình trạng đi tiểu cũng thông, bệnh khỏi.
4. Tỏi trị chứng hoắc loạn
- Hoắc loạn còn gọi là chứng thổ tả, bệnh phát đột ngột, có đặc điểm dễ nhận biết vừa nôn ói lại vừa đi tiêu chảy liên miên, tiếp theo có hiện tượng vọp bẻ cơ bắp từng cơn. Nguyên nhân do ăn uống thiếu vệ sinh bị nhiễm khuẩn đường ruột.
- Có thể giã nát 1 củ tỏi rịt dưới 2 lòng bàn chân, chỗ lõm chính giữa bàn chân, ít lâu chứng hoắc loạn sẽ ngưng.
5. Tỏi chữa sốt rét
- Nếu bị sốt rét nên nướng tỏi cho chín, nghiền nát, uống mỗi lần một muỗng cà phê tỏi với chút rượu trước lúc lên cơn 1 giờ. Mỗi ngày làm 1 lần, liên tục 1 tuần sẽ cắt được cơn sốt rét.
- Một phương nữa chữa sốt rét cũng rất hay. Ngậm trong miệng một miếng Quan quế, còn gọi là Quế nhục, cở bằng ngón tay trước cữ sốy rét độ 1 giờ. Theo kinh nghiệm, cơn sốt rét sẽ qua đi không còn thấy triệu chứng ớn lạnh hoặc sốt nữa và bệnh khỏi. Lý do: Ký sinh trùng sốt rét thường sinh sản theo chu kỳ, mỗi ngày hoặc vài ngày 1 lần và hay tạo phản ứng ớn lạnh trước rồi nóng sau. Quan quế có tính nhiệt. Khi uống ước, quan quế vào thì cơ thể tăng nhiệt, ấm lên. Vì thân nhiệt không đổi, ký sinh trùng sốt rét mất định hướng và ngưng sinh sản; nhờ đó, bạch huyết cầu có cơ hội tấn công tiêu diệt ký sinh trùng sốt rét nên bệnh khỏi.
- Mẹo vặt nầy đã ứng dụng điều trị cho hằng trăm bà con nghèo sống tại những vùng rừng núi thường bị sốt rét kinh niên, kết quả đạt tỷ lệ cao. Ai bảo thuốc nam không hay!.
6. Tỏi trị chứng đi tiểu ra máu
- Đi tiểu ra máu có nhiều nguyên nhân: Xuất huyết đường tiêu hóa, viêm ruột già, bị nhiễm độc, trĩ nội, trĩ ngoại …
- Dùng nguyên một củ tỏi to, nướng cho chín, quết chung với vị Hoàng liên (mua ở tiệm thuốc bắc), liều lượng bằng nhau. Sau khi giã cho nhuyễn vò viên bằng hột bắp, phơi khô hay sấy khô để dùng dần.
- Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4- 6 hoàn, uống với nước cơm. Chỉ 2 – 3 ngày sau thì có thể cầm ngay chứng tiên huyết.
7. Tỏi trị chảy máu cam
- Tỏi 1 củ, lột bỏ vỏ, giã nát như bùn, nặn thành 1 cái bánh dày, đường kính cỡ đồng 25 cent (USD) hoặc to hơn ngón tay cái một chút.
- Nếu chảy máu cam ở cánh mũi bên trái thì dán bột tỏi vào lòng bàn chân bên trái, tức cùng bên. Còn chảy máu cam ở cánh mũi bên phải thì dán vào lòng bàn chân bên phải. Trường hợp chảy máu cả hai bên mũi thì dán cả 2 bên. Xong dán băng keo cho thuốc đừng rớt ra. Vài phút sau máu cam sẽ ngưng chảy.
8. Toit trị mắc xươngi
- Ăn cá mắc xương trong cổ họng, nuốt thì đau, khạc không ra.
- Hãy lột một tép tỏi nhét vào một lỗ mũi, phút chốc mảnh xương cá sẽ văng ra.
- Còn một phương nữa cũng rất hay: Nấu một lượng (35-40g) sơn tra phiến (mua ở tiệm thuốc bắc) cho đặc rồi lấy nước ngậm từng ngụm, lâu lâu nuốt xuống. Làm vài lần mảnh xương sẽ mềm như bún rồi tiêu mất.
9. Tỏi trị chứng chảy mũi nước
- Do chứng allergy, mũi thường chảy nước trong, có khi chảy ròng ròng không ngưng.
- Hãy giã tỏi đắp vào 2 lòng bàn chân và băng kín lại, ngày làm 1-2 lần. Kinh nghiệm ghi nhận, chứng chảy mũi nước sẽ ngưng.
Tỏi còn rất nhiều công dụng không thể kể hết. Sau đây là một số thông tin mới nhất về tỏi do các nhà nghiên cứu khoa học phổ cập. Qua đó, chúng ta sẽ hiểu tỏi tác dụng ra sao về mặt hóa – lý dẫn tới những thành quả không thể phủ nhận.
10. Tỏi làm hạ huyết áp
- Vào năm 1994, một số nhà chuyên khoa về tim mạch Hoa Kỳ có thực hiện một cuộc nghiên cứu với 416 bệnh nhân bị chứng huyết áp cao bằng cách cho họ dùng tỏi để khảo sát tình trạng huyết áp thay đổi ra sao.
- Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm 208 người. Nhóm A dùng mỗi ngày 600-900mg tỏi chiết xuất có chứa 1.3% chất alliin theo tiêu chuẩn quốc tế; còn nhóm B thì dùng tỏi ở dạng placebom, tức không có tỏi. Sau 4 tuần sẽ khảo sát, các nhà nghiên cứu ghi nhận 78% bệnh nhân thuộc nhóm A có đấu hiệu giảm huyết áp rõ rệt, trong khi nhóm B chỉ giảm có 2.6%.
11. Tỏi chống oxy hóa
- Tỏi vốn là một chất chống oxy hóa (antioxidant), có tác dụng ngăn ngừa chất béo trong máu kết cấu với nhau để thành lập chất vữa (plaque) tạo chứng xơ cứng động mạch, gây chứng đau tim.
- Nhiều cuộc thử nghệm cho thấy tỏi có tác dụng làm tan loãng chất mỡ trong máu. Trong 1 cuộc nghiên cứu 10 người mạnh khỏe tình nguyện, mỗi ngày uống 600mg bột tỏi nén thành viên. Sau 2 tuần lễ, đo thấy nồng độ Cholesterol toàn phần trong máu hạ xuống trung bình 34%. Điểm đáng chú ý là chỉ có mỡ xấu (LDL) giảm, còn mỡ tốt (HDL) vẫn giữ nguyên mức cũ.
13.Tỏi trị bệnh ung thư
- Tại Trung Quốc, một nhóm chuyên gia thực hiện một cuộc nghiên cứu quy mô với hằng chục nghìn người có tiền sử ung thư dạ dày tham gia để xem tỏi có tác dụng gì không. Sau thời gian 3 tháng cho dùng tỏi tươi và củ thành tây trong bữa ăn, kiểm tra lại thấy tỷ lệ tế bào ung thư dạ dày ngưng không phát triển chiếm 35%. Tới 6 tháng, tỷ lệ nầy tăng lên 38,7%.
- Vào năm 1994, một số chuyên viên y khoa Hoa Kỳ có mở cuộc nghiên cứu tỏi với 41.000 phụ nữ Hoa Kỳ tình nguyện tham gia. Sau khi còn dùng tỏi 3-4 lần/tuần, liên tiếp trong 3 tháng, thấy tỷ lệ ung thư ruột già giảm 35%.
14. Tỏi trị chứng cao cholesterol
- Cũng năm 1994, Hoa kỳ làm 16 cuộc nghiên cứu về tỏi với chứng cao cholesterol toàn phần. Sau 3 tháng, các nhà nghiên cứu thấy mức cholesterol hạ xuống trung bình 12%, trong đó mỡ tốt (HDL) có phần tăng thêm, riêng loại mỡ xấu triglycerides giảm 13%.
- Ngoài ra, qua phân tích các nhà nghiên cứu thấy tỏi còn trị được nhiều chứng bệnh khác như: làm chậm tình trạng lão hóa do tuổi già, mất trí nhớ, viêm mũi dị ứng, cảm lạnh, bệnh viêm họng, viêm phế quản, cơn đau thắt ngực, bệnh phong thấp, bệnh tiểu đường, viêm tai, chống táo bón, nhiễm trùng do vi khuẩn HIV tác động, viêm loét dạ dày và nhiều bệnh khác nữa.
- Nhưng câu hỏi đặt ra: Chất gì trong tỏi có công năng lớn lao như thế?. Theo các nhà nghiên cứu cho biết, tỏi có hàng trăm hợp chất rất phức tạp, trong đó phải kể đến tinh dầu tỏi chứa ba thành tố quan trọng gồm chất: Allicin là chất kháng sinh rất mạnh, chất alliinase và chất alliin. Chỉ 3 chất này không thôi cũng đủ giúp chúng ta chống lại nhiều chứng bệnh ngoại cảm và nội thương rồi.
- Tại Việt Nam, trước cũng như sau năm 1975, có phong trào sử dụng “cồn tỏi, rượu tỏi” được xem như là thần trị dược bá bịnh. Thực tế như thế nào?
a/ Theo nhận xét của Dược sĩ Dorvault người Pháp cho biết, cồn tỏi hay rượu tỏi ở tỷ lệ 1/5 có tác dụng trừ giun, sát trùng, làm giãn mạch.
b/ Bác sĩ Henri Le Clerc, Pháp, xác nhận dùng cồn tỏi để chống cúm khi có biến chứng đường hô hấp rất tốt.
c/ Trong khi ở Nga, dược sĩ Zakusov dùng tỏi chế ra 1 sản phẩm mang tên là “Allochol” để trị viêm gan mãn tính, viêm túi mật, viêm ống dẫn mật. Kết quả rất thành công nhờ tác dụng cải thiện hoạt động của tim, làm giãn mạch, ức chế quá trình lên men đầy hơi ở ruột, giúp gia tăng tiết dịch ở dạ dày và sức co bóp cơ trơn của ruột. Đây là điều có thật.
- Riêng về bài thuốc “Cồn tỏi” được coi là “Thần dược Tây Tạng” hay thuốc “cãi lão hoàn đồng” được phổ biến rầm rộ tại Việt Nam vào khoảng năm 1991-1992, công thức như sau:
Lấy 350 gram tỏi sống, bóc bỏ vỏ, xắt thành từng khoanh nhỏ, cho vào 1 cối bằng sành. Dùng chày bằng sành sứ nghiền cho nát nhừ rồi chọn lấy 200 gram bột tỏi mịn có nhiều nhựa nhất, đổ vào 1 bình thủy tinh có chứa sẵn 200gram cồn 900, đóng kín nút lại và để nơi râm mát. Chờ đúng 10 ngày sau, dùng vải thưa lọc lấy cồn tỏi, bỏ phần xác. Dung dịch nầy lại phải giữ nguyên trạng, ủ thêm 3 ngày nữa mới bắt đầu sử dụng.
Cách dùng như sau: Trước bữa ăn 15-20 phút, uống một lượng cồn tỏi theo bảng hướng dẫn dưới đây với ¼ cốc sữa tươi.
- Ngày thứ 1: sáng uống 2 giọt, trưa 2 giọt, tối 3 giọt
- Ngày thứ 2: sáng uống 4 giọt, trưa 4 giọt, tối 6 giọt
- Ngày thứ 3: Sáng 7 giọt, trưa 8 giọt, tối 9 giọt.
- Ngày thứ 4: Sáng 10 giọt, trưa 11 giọt, tối 12 giọt.
- Ngày thứ 5: sáng 13 giọt, trưa 14 giọt, tối 15 giọt
- Ngày thứ 6: sáng 15 giọt, trưa 14 giọt, tối 13 giọt (liều lượng bắt đầu giảm dần).
- Ngày thứ 7: sáng uống 12 giọt, trưa 11 giọt, tối 10 giọt.
- Ngày thứ 8: sáng uống 9 giọt, trưa 8 giọt, tối 7 giọt.
- Ngày thứ 9: sáng uống 6 giọt, trưa 5 giọt, tối 4 giọt.
- Ngày thứ 10: sáng uống 3 giọt, trưa 2 giọt, tối 1 giọt
Ngày thứ 11: cũng là ngày chót sang, trưa, chiều đều 25giọt.
Theo hướng dẫn sau một đợt điều trị phải ngưng 6 năm mới có thể dùng lại đợt thứ hai. Lý do nào phải ngưng lâu như vậy vẫn còn là điều đáng gây tranh luận, chưa có câu trả lời thuyết phục. Tuy nhiên, có lời khuyên quan trọng là những người vốn có bệnh viêm thận thì không nên dùng cồn tỏi. Hơn nữa, dùng không đúng cách sẽ làm hỏng giá trị của tỏi. Ví dụ: tỏi nên dùng tươi. Nấu chín tỏi chỉ còn lại hương vị mà thôi.
- Về liều dùng: Theo Bác sĩ Andrew Weil Hoa Kỳ hướng dẫn, nếu là bột tỏi vô viên capsule hay viên nén, mỗi ngày dùng từ 600-900mg. Nếu dạng nước cốt tỏi, uống 4ml/ngày. Nếu là dầu tỏi, dùng 10mg/ngày. Riêng tỏi tươi, mỗi ngày có thể ăn từ 3-4 g.
Chương 4
HỆ THỐNG TUẦN HOÀN
(Cardiovascular System – The Heart)
Hệ thống tuần hoàn gồm có: Tim (heart), các động mạch (arteries), các tĩnh mạch (veins) và vô số chi nhánh mạch máu (blood vessels) lớn nhỏ nối kết với nhau thành một mạng lưới dày đặc, trùm phủ khắp cơ thể. Tổng số chiều dài của mạch máu đo được khoảng 150.000 km, tương đương với 93.000 dặm Anh (milis).
Hệ thống tuần hoàn đóng vai trò vận chuyển máu và các chất bổ dưỡng (nutrients), dưỡng khí (oxygen) đến khắp cơ quan trong cơ thể, đồng thời còn giữ nhiệm vụ tống xuất những chất cặn bã ra ngoài. Đây là hệ thống đứng đầu việc gìn giữ sự sống cho con người trong từng giây, từng phút, ngày lẫn đêm, âm thầm, chính xác và bền bỉ. Chỉ một trục trặc nhỏ trong hệ thống tuần hoàn cũng đủ đe dọa đến sinh lực và sinh mạng con người.
TIM (The heart)
MÔ TẢ
- Tim là một cái bơm bằng cơ hay bắp thịt (muscle) rất mạnh, to bằng nắm tay người lớn, hình nón, đáy ở trên, đỉnh ở dưới chếch sang thành ngực trái, nằm bên trong xương ngực (bony thorax), trên cơ hoành (diaphragm),hai bên được bao che bởi 2 lá phổi (lungs).
- Tim của đàn ông cân nặng từ 280 – 340 g, của phụ nữ nặng từ 230-280g, dài khoảng 12 cm, rộng khoảng 8cm, dày khoảng 6cm, đập trung bình 70 lần/phút.
CẤU TRÚC
- Tim được bọc lót bởi 2 lớp thanh mạc, là loại màng làm bằng huyết thanh (serous membrane) rất dẻo, ôm chặt mặt ngoài như một cái túi bằng lụa mỏng gọi là lá tạng màng ngoài tim hay tâm bào (pericardium). Tim hoạt động hai chiều.
- Bên trong tim được kiến tạo bằng nhiều lớp màng rất mịn gọi là màng trong tim (endocardium) gồm có 4 buồng (chambers) riêng biệt, 2 buồng trên là tâm nhĩ (atrium), 2 buồng dưới có thành dày hơn là tâm thất (ventricles). Một vách ngăn (septum) dày nằm ở giữa chia tim làm 2 phần theo chiều dọc, tạo nữa phần bên trái và nữa phần bên phải.
Tim có 4 van (valves) hình chữ thập, chỉ cho phép máu lưu thông một chiều và ra khỏi buồng tim theo những hướng định sẵn.
- Vì tim cần cung cấp nguồn dưỡng khí dồi dào: do đó nó cũng cần được cung ứng một khối lượng máu dồi dào tương đương để đáp ứng cho não (brain), nơi đòi hòi nhiều nhất. Máu được bơm qua buồng tim chứ không thể thấm quá tế bào cơ (muscle cells), cho nên cơ tim có mạch máu mạng lưới chuyên biệt gọi là hệ thống mạch vành (coronary system) với các động mạch vành (coronary arteries), tĩnh mạch vành (coronary veins), các tiểu động mạch (arterial branches) và vô số mao mạch (capillaries).
- Nhiều mạch máu lớn xuất hiện ở trên mặt và quanh quả tim như: Động mạch chủ (aorta), tĩnh mạch chủ (veine cave), động mạch phổi (pulmonary artery), tĩnh mạch phổi (pulmonary veins), các tiểu động mạch (arterioles) và tiểu tĩnh mạch (venules). Chúng liên kết với nhau bằng những mao mạch cực nhỏ. Hệ thống nầy dài khoảng 150.000 km (tươngd dương với 93.000 miles), giữ vai trò phân phối máu vào tâm nhĩ hoặc đẩy máu được bơm từ tâm thất ra để cung cấp nhu cầu cho toàn bộ mô, tế bào.
NHIỆM VỤ
- Tim có chức năng như một cái bơm động lực (dynamic pump), thúc đẩy máu cho lưu khắp cơ thể qua mạng lưới mạch máu to nhỏ và dày đặc như mạng nhện. Chiều dài mạch máu, nếu nối lại với nhau, dài 2,5 lần chu vi trái đất.
- Sức mạnh đích thực của tim xuất phát từ các tâm thất (ventricles) nhờ thành cơ (muscar walls) dày nên bơm máu ào ạt vào các động mạch. Tác động bơm được lập đi lập lại một cách tự động bằng nhịp đập và khối lượng máu đẩy ra, tăng hay giảm phụ thuộc vào tình trạng cơ thể ứng suất (stress) hay sử dụng.
- Bình thường, nhịp đập của tim được duy trì bởi xung động điện (electrical impulses) phát sinh bên trong nút xoang – tâm nhĩ (sinoatrial node) là nơi điều nhịp tự nhiên của cơ thể. Những xung động truyền qua động mạch, kích thích sự co bóp của nút tâm nhĩ - thất (atrioventricalar node). Sau một cái ngưng nắgn ở nút tâm nhĩ - thất, các xung động truyền theo các cơ sợi đặc biệt tới các tâm thất (ventricles). Đây là động lực tạo ra co bóp và bất kỳ sự biến đổi nào so với trình tự nhiên nầy đều có thể xem là sự rối loạn về tim.
VÒNG TUẦN HOÀN
- Tim có 4 van (valves), chỉ cho phép máu di chuyển qua các buồng tim (heart chambers) theo hướng một chiều, gồm 2-3 vạt (flaps) hay lá (cusps) bằng chất mô sợi (fibrous tissue) có hình bán nguyệt và đính vào vách tim. Các lá van mở ra khi máu chảy đúng hướng nhưng sẽ đóng kín nhằm ngăn cản bất kỳ sự chuyển động nào ngược lại.
- Chu kỳ nhịp tim (cycle heartbeat) chia thành 3 pha (phases) tạo một vòng tương ứng với mỗi nhịp đập của tim. Các pha này gọi là tâm trương (diastole), tâm thu nhĩ (atrial systole) và tâm thu thất (ventricular systole) tim giãn ra và trữ đầy máu ở giai đoạn thứ nhất được tiếp theo sau bởi nhiều giai đoạn co bóp và nén (squeeze). Bình thường, toàn bộ chu kỳ nhịp tim chỉ xảy ra trong vòng 4-5 giây đồng hồ, nhưng khi vận động, hay tập luyện mãnh liệt, tốc độ có thể gia tăng gấp 2 lần.
- Hai phần tâm nhĩ và tâm thất tim liên kết với nhau hoạt động rất nhịp nhàng. Máu có màu xanh thẫm, do các mô sử dụng và khử oxy (deoxygeneted blood), được bơm vào nữa phần bên phải tim theo đường tĩnh mạch chủ dưới (inferior vena cava) hoặc tĩnh mạch chủ trên (superior vena cava) theo tâm nhĩ phải (right atrium) rồi xuống tâm thất phải (right ventricle); sau đó được bơm vào động mạch phổi trái (left pulmonary) để vào phổi. Tại đây tuần hoàn phổi (pulmonary circulation) giúp máu hấp thu dưỡng khí (oxygen). Khi được tái oxy hóa (reoxy – genated blood) nữa phần bên trái tim nhận máu chứa dưỡng khí (oxygeneted blood) có màu đỏ tươi từ phổi do tĩnh mạch phổi dẫn vào tâm nhĩ trái (left atrium) rồi truyền qua tâm thất trái (left ventricle) và bơm đi khắp các mô trong cơ thể.
- Muốn cho hoạt động đạt hiệu quả, tất cả các cơ phận của tim phải phối hợp thật chặt chẽ với nhau bằng những động tác thúc đẩy tự động xuất phát từ nút xoang tâm nhĩ (sinoatrial node) là bộ phận điều nhịp (spacemaker) riêng của tim lắp ở bên trên tâm nhĩ phải. Sự thúc đẩy tự động được truyền lực một phần nhờ cơ tim, một phần nhờ các sợi thần kinh (nerve fibers).
- Để tránh đình trệ hay bế tắc về tuần hoàn huyết, thể tích bơm mỗi nhịp của cả hai phần tim phải cân bằng nhau. Tuy nhiên, lực cản khi máu khởi động tuần hoàn thường lớn hơn lực cản khi chảy về phổi; điều này có nghĩa là phần nữa bên trái của tim bắt buộc phải co bóp mạnh hơn nữa phần bên phải. Bởi lẽ đó, kích cỡ (bulk) cơ bắp nữa phần bên trái của mình to hơn nữa phần bên phải.
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHỊP TIM
- Tỷ lệ nhịp đập và số lượng máu bơm ra trong mỗi lần tim co bóp có thể thay đổi thùy thuộc vào nhu cầu của các cơ chứa dưỡng khí và máu. Lúc nghỉ ngơi, tim đập từ 60-80 lần/phút; lúc hoạt động cực độ, tim đập tới 200 lần/phút và bơm tới 50 lít máu (tương ứng với 100 pints) mỗi phút.
- Sự thay đổi nhịp tim và bơm máu có ảnh hưởng tới cơ tim. Thứ nhất, tim đáp ứng một cách tự động bất kỳ sự gia tăng nào về khối lượng máu hồi quy dành cho hành động gia tăng co bóp lúc bơm máu nên xảy ra hiện tượng tăng tốc nhịp tim do tác động bởi hai bộ thần kinh: Thần kinh đối giao cảm (parasympathetic) và thần kinh giao cảm (sympathetic) hoạt động dưới sự kiểm soát bởi trung tâm tim, có tác dụng đổi chiều.
MẠCH MÁU VÀ MÁU
- Hệ thống tuần hòan phức hợp đóng vai trò thúc đẩy máu thực hiện, nhiều chức năng khác nhau. Máu vận chuyển dưỡng khí, chất dinh dưỡng và tẩy rửa những sản phẩm do các tế bào loại bỏ, giúp điều hòa dung lượng nước trong cơ thể, nhiệt độ và cân bằng chất acid – alkali. Chất đạm và tế bào chuyên trách của máu có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại sự nhiễm trùng hoặc mất máu do hậu quả của sự thương tổn.
- Khi thiếu dưỡng khí, tất cả tế bào trong cơ thể sẽ bị chết rất nhanh. Máu, sau khi được oxy hóa từ phổi, chảy vào các động mạch vận chuyển tới những mạch máu nhỏ hơn gọi là tiểu động mạch (arterioles) và kết thúc ở mau mạch (capillaries).
- Đời sống của tế bào hồng cầu (red blood cells, erythrocytes) chỉ kéo dài từ 80 – 120 ngày. Cứ mỗi giây có khoảng hai triệu (2.000.000) hồng cầu chết nhưng chúng lại được tủy xương đỏ (red bone marrow) trong tiến trình gọi là tạo hồng cầu (erythropoiesis) sản sinh thay thế ngay số lượng hồng cầu mới cùng một tỷ lệ thời gian. Tiến trình nầy đảm bảo rằng việc cung cấp nguồn dưỡng khí thiết yếu mang tính vĩnh cửu và biệt đãi dành cho đời sống và nhiệm vụ của tế bào là điều tự nhiên, không cần nhắc nhở hay thúc bách.
- Huyết cầu tố (hemoglobin) trong tế bào hồng cầu được hình thành trong hem (hem), một chất sắt (iron) màu đỏ và chất globin - chuỗi chất đạm (protein chains) có hình dạng giống như mảnh lụa. Dưỡng khí từ những túi không khí nhỏ trong phổi tiếp nhận tế bào hồng cầu và hóa hợp với chất sắt để tạo oxyhemoglobin và vận chuyển khắp cơ thể. Sau đó, nó giảm dần ở các mau mạch, cuối cùng lưu trú trong dịch mô (tissua fuid). Tế bào tiêu thụ sự hóa hợp nầy như là thành tố thiết yếu cho sự sống nhằm sản xuất ra năng lượng (energy).
BỆNH TIM MẠCH
(Cardiocvascular Disease)
Bệnh tim mạch thuộc khoa nội thương, rất da dạng và phức tạp. Đây là bộ môn sở trường của Y học hiện đại, chỉ có Bác sĩ hoặc các chuyên viên về tim mạch học (cardio – angiology) mới hiểu một cách thấu đáo. Đông y học không có mấy kinh nghiệm về bệnh tim mạch. Chứng cứ là trong các y văn cổ truyền nổi tiếng của Trung Quốc và Việt Nam, bệnh tim mạch được môtả dưới tên gọi “Hung tý” và “Quyết tâm thống” cũng chỉ đề cập rất sơ sài trong một vài trang sách, khiến cho hàng hậu học khó lãnh hội. Chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm về bệnh tim mạch từ y học hiện đại, trước làm quen với một số thuật ngữ chuyên môn mới lạ, sau nâng cao kiến thức giúp cho việc chẩn đoán được chính xác.
KHÁI NIỆM
Hệ thống tuần hoàn (cardiovascular system) gồm có tim (hear) và mạch máu (blood vessels). Tim có nhiệm vụ bơm máu và vận chuyển máu đến khắp cơ thể xuyên qua vô số mạch máu to nhỏ khác nhau. Tim hoạt động tự động, liên tục 24/24 giờ nhằm cung cấp đầy đủ nhu liệu cần thiết cho các cơ quan; đồng thời duy trì sự sống. Tuy nhiên, tim và mạch máu cũng có nhiều chứng bệnh tự nó phát sinh hoặc do những tác nhân khác.
Các nhà khoa học Hoa Kỳ lượng định, tim và mạch máu đứng đầu các vấn đề liên quan đến sức khỏe, trong đó gây chết người đứng hàng đầu, mỗi năm cướp đi hơn 1 triệu công dân Hoa Kỳ. Theo bác sĩ James Balch, giáo sư khoa tim mạch của Trường Đại học Y khoa Tiểu bang Indiana Hoa Kỳ cho biết hiện nay có 50 triệu người Mỹ bị rắc rối về bệnh tim mạch mặc dù đa số những người nầy không hề hay biết, bởi vì nó không báo trước một dấu hiệu đặc trưng nào.
Trong số các bệnh về tim mạch, những chứng bệnh sau đây được xếp vào loại phổ biến nhất, nghiêm trọng nhất mà con người cần phải quan tâm.
- Cao huyết áp (high blood pressure, hypertension)
- Tai biến mạch máu não (cerebrovascular disese)
- Chứng đau thắt ngực (angor pectoris)
- Nhồi máu cơ tim (myocardial infarction)
- Suy tim (heart – failure)
- Loạn nhịp tim (cardiac arrhythmia)
- Bệnh thấp tim (rheumatism of the heart)
- Xơ vữa động mạch (atherosclerosis)
- Bệnh mạch vành tim (coronary heart disease)
- Block tim hay chẹn tim (heart –block)
Theo thống kê, Hoa Kỳ là quốc gia dẫn đầu thế giới về tim mạch. Mỗi năm có trên 40 triệu người Mỹ được khám và điều trị về các bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong luôn luôn đứng đầu trong các bệnh nguy hiểm chết người. Dưới đây là một số bệnh tim mạch khá phổ biến và có thể được cải thiện bằng Đông dược hoặc dược thảo thiên nhiên.
1. BỆNH MẠCH VÀNH (Coronary heart disease)
Định nghĩa: Bất cứ sự rối loạn nào thuộc chức năng của tim làm suy giảm mức cung cấp máu cho cơ tim (heart muscle) thì gọi là bệnh mạch vành (coronary heart disease) hay động mạch vành (coronary artery disease – CAD)
Tác nhân ảnh hưởng đến bệnh mạch vành là do mất dưỡng khí (oxygen) và chất dưỡng khí (nutrients)tới mô cơ tim (myocardial tissue) vì lượng máu chảy vào mạch vành giảm bớt. Bệnh nầy gần như là bệnh dịch tại thế giới Phương Tây CAD thường xẩy ra ở đàn ông nhiều hơn là phụ nữ, đa số thuộc sắc dân da trắng, trong lứa tuổi trung niên, từ 40 -55 tuổi. Trước kia bệnh trở nên phổ biến trong giới phụ nữ vì có ảnh hưởng đến vấn đề rối loạn tiền mãn kinh (premnopausal) nhưng vấn đề này không kéo dài vì ngày nay phụ nữ nhờ dùng thuốc ngừa thai (contraceptives) nên đã giảm thiểu một cách đáng kể.
Nguyên nhân
Vữa xơ động mạch (atherosclerosis) là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn tới bệnh mạch vành. Ở thể nầy, những mảnh xơ chất béo (fatty,fibrous plaques) bám bên trong lòng ống (lumen) động mạch vành làm chúng hẹp lại khiến lưu lượng máu không thể chảy qua đầy đủ và dẫn tới chứng thiếu máu cục bộ cơ tim (myocardial ischemia). Sự hình thành mảnh xơ cũng đưa đến chứng huyết khối (thrombosis), chúng có thể kích động chứng nhồi máu cơ tim (myocardial infarction – MI, cardiac infarct).
- Vữa xơ động mạch thường phát triển thành huyết áp động mạch cao (high – pressure arteries) ở tim, não, thận và động mạch chủ (aorta), đặc biệt là tại những điểm phân nhánh (bifurcation points). Nó còn liên kết với nhiều nhân tố nguy hiểm khác như: Lịch sử gia đình, cao huyết áp (hypertension), tiểu đường (diabetes mellitus), mập phì (obesity), hút thuốc lá, căng thẳng thần kinh (stress), đời sống ngồi một chỗ (sedentary lifestyle), mức huyết thanh cholesterol (serum cholesterol) và triglyceride cao.
- Những nguyên nhân khác cũng làm giảm lưu lượng máu chảy qua động mạch gồm có: phình mạch tách (dissecting – aneurysms), viêm mạch do nhiễm khuẩn (infectious vasculitis), bệnh giang mai (syphilis), và bị khuyết tật bẩm sinh (congenital defects) về hệ thống động mạch vành.
Dấu hiệu và triệu chứng
- Dấu hiệu thông thường về CAD là đơn đau thắt ngực (angina), hệ quả trực tiếp do cung cấp không đủ dưỡng khí cho cơ tim. Cảm giác rõ nhất là nóng bỏng (burning), cảm thấy bị ép chặt, căng cứng ở phía dưới xương ức hay vùng ngực trước tim (precordial chest) và lan tỏa tới cằm, quai hàm và cánh tay trái.
- Đặc biệt, khi cơn đau xảy ra, bệnh nhân hay siết chặt nắm tay, ôm ngực hoặc chà xát từ ngực tới cánh tay trái. Nó còn gây buồn nôn, ói mửa, mệt lả, vả mồ hôi và lạnh các đầu ngón tay và ngón chân.
- Phân lớn cơn đau thắt ngực thường theo sau những cử động gắng sức nhưng cũng có thể xuất phát từ sự kích động tâm thần, nhiễm lạnh hoặc do bội thực.
- Cơn đau thắt ngực có 3 hình thái chính.
Cơn đau thắt ngực ổn định (stable angina) là cơn đau có thể dự đoán trước về tần số (frequency), thời gian hạn định (duration) và có thể giảm nhẹ khi dùng thuốc hoặc nghỉ ngơi.
Cơn đau thắt ngực không ổn định (unstable angina) là cơn đau làm gia tăng về tần số và thời hạn định. Kiểu đau nầy tạo rất nhiều nguy cơ rủi ro cho người bệnh.
Cơn đau thắt ngực Prinzmetal (prinzmetal’s angina) còn gọi là đau ngực co cứng, một dạng hiếm có, thường xẩy ra lúc nghỉ ngơi hơn là lúc hoạt động. Nó chẹn cứng hoặc co thắt động mạch vành mà không dự báo trước.
Chẩn đoán
- Lịch sử của bệnh nhân gồm có: Tần số và thời gian gây từng cơn đau thắt ngực, tình trạng hiện đại. Đây là những nhân tố chủ yếu để lượng định bệnh mạch vạch (CAD). Theo y học hiện đại, có 4 phương pháp chẩn đoán chính.
Pháp tâm điện ký (Electrocardiography – ECG): Nếu được thực hiện giữa lúc xảy ra cơn đau thắt ngực thì thấy ngay tình trạng thiếu máu cục bộ (ischemia) hay là loạn nhịp (arrhythmias) như ngoại tâm thu thất (premature ventricular contraction). Pháp tâm điện ký (ECG) có khuynh hướng bình thường nếu người bệnh hết đau.
Pháp đạp xe (Treadmill bicycle exercise test): Dùng để kích thích cơn đau ngực và trên tâm điện ký (ECG) xuất hiện thiếu máu cơ tim cục bộ (myocardial ischemia), tức là đoạn ST lõm (ST – segment depression).
Pháp chụp X-Ray mạch vành (Coronary angioraphy): nhằm khám phá động mạch vành hẹp hoặc bị vít lấp với sự tuần hoàn bàng hệ, còn gọi là tuần hoàn nhánh bên (colateral circulation).
Pháp ảnh dịch truyền (Myocardial perfusion imaging): Dùng chất thalium – 201 hoặc cardilite truyền vào mạch máu giữa lúc cho bệnh nhân đạp xe đạp (treadmill) để nhìn thấy qua màn ảnh những nơi cơ tim bị thiếu máu cục bộ.
Điều trị bằng dược thảo
1. Dược thảo đơn giản
- Hawthorn (Crataegus oxycantha): Còn có nhiều tên khác như: English Hawthorm, May bush, May tree, Quikset, Thorm – apple tree, Whitethorn.
Hawthorm có hơn 300 loài khác nhau, xuất xứ từ Anh Quốc rồi lan qua Châu Âu, Bắc Mỹ và Á Châu. Ở Châu Âu thường dùng 2 loài Crataegus oxyacantha hoặc Crataegus sanguinea. Tại Việt Nam thầy thuốc Đông y gọi Hawthorn dưới tên Bắc Sơn tra nhưng phải nhập từ Trung Quốc qua các loài: Crataegus pinnatifida, Crataegus cuneata, scabrifolia, Crataegus hupehensis, Crataegus wattiana. Hiện nay, cả Trung Quốc và Việt Nam có bán một loại dược liệu mang tên Sơn tra nhưng không thuộc chi Cratagus, cần tránh nhầm lẫn.
Mô tả: Hawthorn (Crataegus oxyacantha) là loài cây nhỡ, mọc thành bụi. Ở Anh, người ta trồng hawthorn làm hàng rào quanh nhà giống như trồng dâm bụt ở Việt Nam, thân gỗ cứng, vỏ màu xám, cành nhánh có nhiều gai, lá nhỏ và sáng bóng, đàu lá có màu xanh đậm, mặt dưới lá xanh nhạt, có 3 thùy không đều, mép hình răng cưa. Hoa có 5 cánh, tròn, thường nở vào cuối tháng năm (may) sang tháng sáu (june). Quả mọng như quả táo, ở ngoài có màu đỏ tươi, bên trong màu vàng nhạt có chứa 2 -3 hạt nhỏ.
Bộ phận dùng làm thuốc: Hoa, lá và quả đều được dùng làm thuốc nhưng chủ yếu là quả chín mọng.
Công dụng: Chống co thắt (atispasmodic), trợ tim (cardiac), giảm đau (sedative), giãn mạch máu (vasodilator). Một số kinh nghiệm khác xác định hawthorn có khả năng điều hòa huyết áp, làm giảm áp suất máu, giúp tim đập chậm lại. Nó giúp cho cơ tim yếu bởi tuổi già được khỏe hơn, bệnh viêm cơ tim (myocarditis), bệnh xơ cứng động mạch (arteriosclerosis) và thần kinh tim bị tổn thương.
Cách dùng: Thường được dùng ở dạng trà. Pha một muỗng canh bột hoa hawthorn với nửa ly nước sôi, ngày dùng 1 đến 1 muỗng rưỡi. Có thể thêm đường hay mật ong tùy thích.
Khella (Ammi visnaga): Một dược thảo cổ truyền của Ai Cập (Egypt) và các quốc gia vùng Địa Trung Hải, Trung Cận Đông. Nó còn nhiều tên khác như: Ammi, Bishop’s, weed, khellin, Visnaga và Visnagin, Khella thuộc họ carrot.
Bộ phận dùng làm thuốc: Quả và hạt.
Theo Y học cổ truyền, Khella được dùng trị bệnh đau tim, đúng hơn là trị bệnh đau thắt động mạch vành nhờ hoạt chất Khellin tác dụng lên cơ tim. Khella được các nhà khoa học nghiên cứu từ năm 1940, thấy chất khellin có khả năng làm giảm lâu dài những triệu chứng đau thắt ngực, tác dụng giống như thuốc chẹn calcium (calcium – channel – blocking drugs) của Tây y, giúp giãn nở mạch máu nhờ khóa ngõ vào của calcium tràn vào tế bào mạch máu sẽ dẫn tới sự co thắt và khi chẹn kín được thì ống mạch máu sẽ nở to, mạch vành được cung cấp máu đầy đủ.
Cách dùng: Với khella chiết xuất ở tỷ lệ 20%, mỗi ngày dùng từ 250-300mg. Nếu khellin nguyên chất (pure), chỉ nên dùng liều 20-30mg/ngày. Khi dùng liều cao từ 120-150 mg/ngày, có thể bị tác dụng phụ với các triệu chứng: Biếng ăn, buồn nôn, chóng mặt. Nếu khella được tổng hợp với Hawthorn chiết xuất thì tác dụng cao hơn nhiều.
CoenzymeQ10 (CoQ10): Còn gọi là Ubiquinone, một chất dinh dưỡng, có mặt trong hầu hết tế bào vật thể sống bằng oxygen, bao gồm cây cỏ, con người và loài vật. Trong cơ thể, Coenzyme Q10 hiện diện caonhats ở tim và gan. Ngoài thiên nhiên, Coenzyme Q10 được tìm thấy trong rau mồng tơi Mỹ (spinach), bông cải xanh (broccoli), một số loài vật như dầu đậu tương (soybean oils), dầu hạt nho (grapeseed oils), hạt vừng (sesame seeds), hạt hồ đào (walnuts), thịt và cá, đặc biệt trong cá sardines.
Coenzyme Q10 đóng vai trò chính cung cấp năng lực, bổ trợ cho các vận động viên sử dụng nhiều sức nhờ khả năng chống oxy hóa (antioxidant) rất mạnh, giúp trao đổi phản ứng trong mô. Theo kết quả nhiều cuộc nghiên cứu. Coenzyme Q10 có khả năng trị liệu cơn đau thắt ngực (angina pectoris), cao huyết áp (hypertension), suy tim sưng huyết (congestive heart failure). Sử dụng rất an toàn.
Thiếu Coenzyme Q10 dễ dẫn đến tình trạng đau tim mạch. Trong các cuộc thử nghiệm sinh thiết (biopsies) mô tim ở một số bệnh nhân mắc bệnh về tim mạch, thấy rằng từ 50-75% trường hợp thiếu CoQ10 trầm trọng. Một cuộc nghiên cứu khác với 12 bệnh nhân bị chứng đau thắt ngực, cho điều trị bằng CoQ10 với liều 150mg/ngày trong 4 tuần lễ, ghi nhận cơ đau giảm đến 53% so với các bệnh nhân cho dùng thuốc trấn an (placebo). Khi CoQ10 được kết hợp với Vitamin E, selenium và beta carotene, có tác dụng làm giảm nguy cơ hư hoại tế bào gan,thận và mô tim bởi gốc tự do (free radical).
Một lợi ích khác nữa đối với bệnh ung thư vú (breast cancers), qua khảo sát 32 bệnh nhân bị ung thư vú cho dùng CoQ10 với liều 90 mg/ngày trong 2 năm, được biết tất cả đều sống sót, trong đó 6 người thuyên giảm rõ rệt nhờ CoQ10 làm gia tăng tác động của đại thực bào (macrophage). Các nhà nghiên cứu thử cho 1 người dùng CoQ10 tăng đến 390 mg/ngày trong vòng 3 tháng, thấy khối u (tumor) hoàn toàn biến mất. Khi cho một bệnh nhân dùng CoQ10 với liều 300mg/ngày trong 3 tháng, không thấy bướu phát triển thêm hoặc di căn (metastasis).
2. Dược thảo tổng hợp
Theo Đông y học, cơn đau thắt ngực thuộc phạm trù hung tý và quyết tâm thống.
- Nguyên nhân do khí trệ, huyết ứ, khí huyết lưỡng hư.
- Pháp trị gồm hành khí hoạt huyết, thông dương hóa trọc.
Sau đây là các bài thuốc hiệu nghiệm.
Bài 1:
Qua lâu nhân 12g
Đào nhân 16g
Phỉ bạch (củ hẹ) 08g
Trần bì 08g
Xuyên khung 12g
Kiết cánh 08g
Sinh địa 12g
Bắc sài hồ 12g
Đương quy 12g
Xích thược 12g
Hồng hoa 12g
Chỉ xác 08g
Cam thảo 06g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 chén sắc còn 8/10 chén, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 2 chén nước, sắc còn nửa chén, uống 1 lần.
Bài 2:
Sinh bồ hoàng 15g
Ngũ linh chi 15g
Diên hồ sách 15g
Sinh sơn tra 25g
Đan sâm 25g
Qua lâu bì 15g
Cát căn 15g
Chỉ xác 15g
Uất kim 30g
Bạch chỉ 15g
Ngưu tất 15g
Thất ly tán 01 túi (gói riêng chia làm 2 lần uống với nước thuốc)
Sắc uống ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Một phụ nữ 49 tuổi, sáng thức dậy bỗng thấy đau nhói vùng trước tim, đau lan ra khắp vùng sau vai trái, chân tay lạnh toát, mặt xanh tái,tiền sử có bệnh mạch vành 3 năm. Sau khi uống 4 thang,triệu chứng đau thắt ngực giảm hẳn, chân tay ấm, sắc mặt hồng nhuận. Cho uống thêm 3 thang nữa, đau nhói ngực hết hẳn, mạch đập 110 lần/phút. Xét nghiệm máu và kiểm tra điện tâm đồ bình thường. Cho uống tiếp 4 thang nữa, giảm lượng Diên hồ sách, cát căn, bạch chỉ; Gia thêm bán hạ 15g, thần khúc 15g, Đảng sâm 15g. Kiểm tra lại tim mạch vẫn tốt. Theo dõi 6 tháng, chưa thấy tái phát.
Bài 3:
Hồng sâm 50g
Đan sâm 100g
Giáng hương 100g
Trầm hương 50g
Xuyên điền thất 50g
Huyết kiệt hoa 50g
Hổ phách 50g
Chu sa 30g (gói riêng)
Cách làm:Đem thuốc tán thành bột mịn, ngào với mật ong viên thành hoàn 06g, ngoài lấy chu sa làm áo. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín.
Kinh nghiệm lâm sàng: Nguyễn Thanh Tú 54 tuổi, vốn có bệnh cao huyết áp, cảm thấy ngực trái đau thắt, lan sang cả vai trái, mạch đi Trầm Huyền mà kết. Xem điện tâm đồ thấy nhịp sớm tâm thất, nhánh chuyển máu trái bế tắc, thiếu máu. Thử máu, mức cholesterol cao 300mg%, triglycerid 160mg%,chẩn đoán là xơ động mạch vành thể nhũn, nhịp thất sớm. Cho dùng bài số 3, hết 1 liều, bệnh yên tĩnh. Cho uống tiếp liều thứ 2, bệnh không còn vãng lai. Nữa năm sau kiểm tra lại điện tâm đồ, thấy mọi việc ổn định.
Bài 4:
Bạch phục linh 15g
Chế bán hạ 10g
Trần bì 10g
Trúc nhự 10g
Chỉ thực 12g
Qua lâu bì 30g
Giáng hương 10g
Đan sâm 15g
Xuyên khung 15g
Hồng hoa 10g
Quế chi 10g
Sao bạch truật 15g
Giới bạch (củ kiệu) 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Trần nghị 60 tuổi, gần 1 tháng qua, cứ làm việc nặng nhọc thì thấy đau nhói vùng ngực trái kiểu đè nặng, mỗi lần kéo dài hơn 10 phút vừa ho vừa vã mồ hôi lạnh. Kiểm tra điện tâm đồ thấy nhịp tim thể hang, động mạch vành không cung cấp đủ máu cấp tính. Đông y chẩn đoán mạch Huyền Hoạt, viêm phế quản mãn tính, hung dương bế tắc, đờm trọc ngưng tụ. Cho uống bài số 3 được 3 thang, hết đau ngực. Cho dùng nguyên phương thêm 3 thang, căn bản yên tĩnh. Tiếp tục gia giảm để củng cố tim mạch sau 3 tháng chưa thấy tái phát.
Phương cách phòng bệnh
Một vài nguyên nhân chính gây ra bệnh đau thắt ngực là do ăn uống không đúng cách. Dưới đây là vài lời khuyên hữu ích.
- Nên ăn nhiều rau quả nhiều chất magnesium và potassium: rau xanh, rong biển (seaweed), trái cây chín, trà xanh, rượu nho, gạo lức, đậu tương, ngũ cốc, tỏi, củ hành tây.
- Giảm tối đa lượng mỡ bảo hòa (saturated fat) trong bữa ăn hàng ngày, đặc biệt là mỡ động vật và dầu ăn đã khử hydro còn gọi là hydrogenated oils.
- Tránh ăn thịt đỏ (red meats) như thịt bò và đồ uống có caffein, đường tinh chế, chất béo, muối, thịt cá muối, thực phẩm chiên xào, nước ngọt các loại.
- Tuân thủ chế độ ăn uống hằng ngày thích hợp: chỉ dung nạp 70% nhiệt lượng (calories) chất đường bọt (carbohydrates) từ nguồn rau quả tươi và hạt ngũ cốc và 20% nhiệt lượng từ nguồn chất đạm (protein) ít mỡ.
- Ăn ít hơm 100mg cholesterol/ngày. Cố giữ mức cholesterol dưới 160 mg.
- Nên uống nhiều nước ít nhất 6 ly lớn/ngày. Phương pháp này rất có ích cho việc lọc máu, làm khỏe tím.
- Rượu nho cũng giúp trợ tim. Dùng 1 hoặc 2 cốc rượu nho vào bữa cơm chiều sẽ giúp giảm sự căng thẳng thần kinh và gia tăng lượng cholesterol tốt (HDL) lên.
- Chấm dứt việc hút thuốc lá, bởi vì chất nicotin trong thuốc lá làm co thắt động mạch chủ và là nguyên nhân dẫn tới chứng huyết áp tăng cao đột đột. Nhiều nhà nghiên cứu Hoa Kỳ tiên lượng, nếu số người đau tim mà bỏ hút thuốc lá, tử suất mỗi năm sẽ giảm hơn 150.000 người.
- Siêng năng tập thể dục,tập thở sâu hằng ngày, giúp cho cơ thể thu nạp đầy đủ dưỡng khí (oxygen), một loại thuốc cực quý cho bệnh tim mạch mà không mất tiền.
3. Phương pháp chữa trị cấp thời
- Ngay khi lên cơ đau thắt ngực, hãy bình tĩnh dùng đầu ngón tay trỏ bấm mạnh vào 1 trong 2 điểm.
Thứ nhất: dưới lòng bàn chân phải, điểm nằm giữa hai xương ngón chân cái và ngón kế,cách đầu khe chân độ 3cm (ngang chổ lồi cao nhất).
Thứ hai: trong lòng bàn chân phải, vị trí đầu trong khớp xương thứ 3 của ngón giữa, cách khe ngón tay độ 3 cm.
Bấm 2 điểm này ngăn chặn được chứng đột quỵ (heart attack).
- Nhúng một chiếc khăn trong nước nóng, vắt ráo nước, chườm lên vùng ngực trái và xoa nhẹ nhiều lượt, có tác dụng làm dịu cơn đau tim.
- Nhai ngày 1 viên aspirin khi cảm thấy đau thắt ngực. Nó có khả năng giảm cơn đau đồng thời còn giảm nguy cơ bị nghẽn động mạch vành máu loãng ra và lưu thông dễ dàng hơn.
- Dùng phương pháp tắm nước nóng rồi dội nước lạnh, thay nhau nhiều lần giữa nóng và lạnh trong thời gian cực ngắn. Cách này làm gia tăng sự lưu thông của máu cũng có khả năng giảm cơn đau tim.
2. VỮA XƠ ĐỘNG MẠCH (Atherosclerosis)
Là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh mạch vành. Ở thể nầy, những mảnh xơ chất béo (fatty, fibrous plaques) bám bên trong lòng ống động mạch vành làm cho khẩu độ mạch máu bị hu hẹp, cứng, mất tính đàn hồi, khiến lưu lượng máu không thể chảy qua đầy đủ dẫn tới chứng thiếu máu cục bộ cơ tim (myocardial ischemia). Sự hình thành mảng xơ cũng đưa đến chứng huyết khối (thrombosis) kích động thành chứng nhồi máu cơ tim (myocardial infarction MI cardiac infarct).
Vữa động mạch thường phát triển thành huyết áp động mạch cao (high – pressure arteries) ở tim, não, thận và động mạch chủ (aorta), đặc biệt tại những điểm phân nhánh (bifurcation paints). Chứng tai biến mạch máu não, còn gọi là rối loạn tuần hoàn não hay vỡ mạch máu não (strokes) là một trong những hậu quả do tình trạng xơ vữa động mạch lâu ngày.
3. NHỒI MÁU CƠ TIM (Heart attack , Mycardial infarction – MI)
Hiểu theo nghĩa thông thường, nhồi máu cơ tìm là tình trạng động mạch tim bị nghẽn khiến một phần cơ tim bị chết đột ngột.
Nguyên nhân do một loại vật chất hóa cứng bên trong động mạch,gọi là vữa xơ động mạch (atherosclerosis) hoặc do cục máu đông (blood clot) gây ra.
Chứng vữa xơ động mạch diễn biến âm thầm bên trong động mạch vành (coronary arteries), chèn ép nguồn máu đỏ giàu dưỡng khí tới nuôi cơ tim, cho đến một ngày làm chết cả cả khu vực mô cơ tim và sau cùng tim chết theo.
Triệu chứng và dấu hiệu
- Thông thường, khi lượng máu cung cấp cho tim giảm xuống, tim sẽ phản ứng bằng một vài triệu chứng báo trước như là: lảo đảo, đau thắt ngực,đau lan xuống cổ, đau dọc xuống vai và cánh tay trái, đôi khi cảm thấy giống như chứng khó tiêu hay viêm túi mật.
- Người bệnh trở nên hoảng loạn, hơi thở ngắn, mệt lả, da mặt xanh mét, ướt đẫm mồ hôi, có cảm giác cái chết gần kề.
- Dấu hiệu đặc trưng nhất là nhịp tim nhanh, loạn nhịp, trong khi huyết áp lại sụt giảm đáng kể.
Nhân tố tác hại
- Nhiều nhân tố không thể kiểm soát: Lịch sử gia đình có bệnh về tim mạch, do tuổi già và phái tính (đàn ông, phụ nữ).
- Thói quen hút thuốc lá, tích lũy độc tố nicotin, một chất làm tăng nguy cơ chết đột ngột cho những người bị vữa xơ động mạch.
- Cao huyết áp là nhân tố chính. Nguy cơ làm gia tăng áp suất trong máu giữa lúc thành mạch bị nghẽn tắc, dễ tạo sức chấn động làm vỡ mạch máu.
- Vữa xơ động mạch và bệnh mạch vành làm gia tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và cho những ai có trọng lượng cao hơn mức bình thường từ 30% trở lên.
- Ăn uống nhiều chất béo, nhất là mỡ động vật, nhân tố nguy hiểm là gia tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim. vấn đề nầy đôi khi còn do khuynh hướng di truyền (genetic tendency), khiến cholesterol huyết tăng lên một cách tự nhiên.
- Thiếu hoạt động, lười biếng tập thể dục, cũng là một nhân tố nguy hiểm.
Tử suất (tỷ lệ tử vong)
- Khi chứng nhồi máu cơ tim tấn công, sinh mệnh nạn nhân được quyết định trong vòng 20 ngày đầu và số tử vong chiếm 33%.
- Nạn nhân chết từ ngày thứ 20 đến 1 năm khoảng 2-12%.
- Từ 1 năm đến 10 năm chiếm khoảng 25 – 35%.
- Nhồi máu cơ tim là một tác nhân nghiêm trọng,xảy ra đột ngột không dễ tiên lượng. Tại Hoa Kỳ, mỗi năm khoảng 1 triệu (1.000.000) người bị chứng nhồi máu cơ tim và đã chết hơn 550.000 người. Con số này vẫn chưa có dấu hiệu giảm xuống.
Điều trị
Thuốc men, dược thảo, không phải là thánh dược hay phẩm vật có khả năng bách giải, tức là trừ khử được cả trăm thứ bệnh. Nó chỉ đóng vai trò bổ trợ, làm giảm cường độ tấn công và hữu ích nhất là phòng ngừa. Nếu nghi ngờ sắp bị nhồi máu cơ tim, tốt hơn hết nên gọi ngay xe cứu thương (ở Hoa Kỳ bấm điện thoại số 911). Sau nguy biến, hoặc muốn ngăn ngừa tai biên có thể dùng các loại dược thảo dưới đây.
Dược thảo đơn giản
- Lá và rễ Artichoke tinh chế (extract) ngày 3lần mỗi lần từ 250-300 mg. Người Việt gọi artichoke là actiso (artichaut), thường trồng ở vùng Đà Lạt, yên gọi khoa học Cynara scolymus, thuộc họ cúc (asteraceae). Hoa được thái mỏng ăn sống như rau xanh, ít khi dùng trị bệnh. Riêng lá và rễ artichoke có tác dụng thông mật (cholagogue), lợi tiểu (diuretic), bảo vệ gan là một chất chống oxy hóa (antioxidant) và ức chế oxy hóa cholesterol huyết, nhân tố gây chứng nhồi máu cơ tim.
- Cat’s claw tinh chế, ngày 3 lần, mỗi lần 500mg. Theo nhiều cuộc nghiên cứu tại Hoa Kỳ cho biết, Cat’s claw có chứa phytochemicals, một trong những hợp chất có khả năng ngăn chặn tiến trình hình thành cục máu đông (blood clots). Nhờ thúc đẩy sức lưu thông của máu, cat’s claw giúp làm giảm tai biến mạch máu, cat’s claw là một dược thảo qúy ở Phi Châu,trong vùng rừng Amazon. Có hơn 20 loài cat’s claw, trong đó một số có chứa chất độc, phải chọn đúng loài Uncaria tomentosa hay Uncaria guianensis mới dùng được. Tại Việt Nam, cat’s claw được nhận diện là cây “câu đằng”, tên khoa học Uncaria rhynchophylla, thuộc họ cà phê Rubiaceae, công dụng trị cao huyết áp. Không rõ câu đằng có phải là 1 trong 20 loài cat’s claw hay không.
- Hà thủ ô đỏ, còn gọi là xích thủ ô, người Hoa Kỳ gọi là Fo ti, thuộc họ rau răm, tên khoa học Polygonum multiflorum, dễ dùng làm thuốc. Hà thủ ô đỏ có khả năng hạ huyết áp, giảm mức cholesterol trong máu, giảm trương lực mạch máu và giảm vữa xơ động mạch. Nhiều cuộc thí nghiệm cho thấy Hà thủ ô đỏ con giúp nâng cao hệ thống miễn nhiễm (immune system), thành lập tế bào hồng huyết cầu và chống nhiễm khuẩn. Liều dùng từ 500 – 1.000 mg, ngày 2 lần.
- Bạch quả hay gân hạnh, thuộc họ bạch quả, tên khoa học Ginkgo biloba. Người Trung Hoa và Việt Nam thường dùng nhân Bạch quả để nấu chè ăn và trị bệnh suyễn, ho và có đàm. Tại Hoa Kỳ, các viện bào chế dược thảo thiên nhiên chuyên dùng lá bạch quả để sản xuất thuốc trị bệnh. Lá bạch quả có khả năng chống oxy hóa (antioxidant) gia tăng sự tuần hoàn máu nên ngăn ngừa được vữa xơ động mạch. Lá bạch quả còn trị bệnh mất trí nhớ, tức bệnh lú lẫn (Alzheimer), suy tim, đau nữa đầu (migraine headaches). Ngoài ra lá bạch quả còn trị được bệnh trầm cảm (depresssion), tiểu đường (diabetes), viêm thoái hóa điểm vàng về mắt (macular degeneration) và liệt dương ở nam giới (impotence).
- Hồ nhân đào, còn gọi là quả óc chó (walnut). Nhiều cuộc nghiên cứu tại Hoa Kỳ cho thấy hồ đào nhân có ảnh hưởng tốt lên hệ tuần hoàn, làm giảm mạnh nguy cơ nhồi máu cơ tim. Nếu ăn mỗi ngày 7 nhân hạt (tương đương 1 ounce) sẽ giảm nhồi máu cơ tim đến 10%.
- Trà xanh (green tea): Nhiều cuộc nghiên cứu xác nhận trà xanh là chất chống oxy hóa cực mạnh. Uống ngày 10 – 20 cốc trà xanh có khả năng chống lại bệnh đau tim, ung thư và nhiều bệnh khác nữa.
Dược thảo tổng hợp
Bài 1 (Thể khí trệ huyết ứ)
Qua lâu nhân 20g
Đan sâm 12g
Uất kim 12g
Tam thất 05g
Bồ hoàng 10g
Ngũ linh chi 06g
Giáng hương 05g
Hổ phách 01g (hòa nước thuốc)
Hoàng kỳ 15g
Bạch truật 12g
Hoàng tinh 12g
Diên hồ sách 12g
Nga truật 12g
Xuyên khung 10g
Chích cam thảo 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2 (Thể đờm trọc huyết ứ)
Bạch phục linh 20g
Quất hồng bì 12g
Bán hạ 12g
Thủy xương bồ 12g
Uất kim 12g
Đan sâm 12g
Hà thủ ô đỏ 12g
Hoàng tinh 12g
Câu kỷ tử 12g
Thảo quyết minh 12g
Trạch tả 12g
Sơn tra 12g
Bồ hoàng 10g
Ngũ linh chi 05g
Bạch giới tử 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 3: (Huyết ứ - nghẽn mạch)
Mang trùng 6-12g
Trần bì 12g
Gia giảm- Nếu khí suy thêm Đảng sâm 30g
- Nếu dương suy thêm Dâm dương hoắc diệp 12g.
- Nếu huyết suy thêm ngọc trúc 15g
- Nếu huyết hư thêm Sinh địa 20g
Sắc uống ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Đã dùng bài số 3 điều trị15 ca đau thắt động mạch vành ngăn ngừa chứng nhồi máu cơ tim, thấy hết đau thắt ngực. Trong bài có mang trùng, vị đắng, tính hơi hàn, có tác dụng trục ứ phá tích, thông hơi huyết mạch, trị đau động mạch vành rất hay. Nếu chỉ dùng độc vị Mang trùng cũng có kết quả, giảm đau nhanh chóng. Uống Mang trùng liên tục hơn 1 năm vẫn không thấy phản ứng phụ.
Dinh dưỡng
- Choline và Inositol: Liều dùng 1.000 mg/ngày. Chất này dùng trong cấp cứu, giúp tống xuất lượng mỡ tích lũy trong gan và trong mạch máu.
- Coenzyme Q10: Liều dùng 100ng/ngày rồi tăng lên 800 IU/ngày. Nếu có dùng thuốc chống đông máu anicoagulant drug, không nên dùng hơn 400 IU/ngày hoặc hỏi ý kiến bác sĩ điều trị. Đây là chất chống oxy hóa rất mạnh, giúp cải thiện tình trạng thiếu máu, thúc đẩy lưu lượng máu tăng hơn và còn làm giảm nguy cơ nghẽn mạch.
- Selenium: Liều dùng 300 mcg/ngày/ Thiếu seleium coi như là nhân tố gây nên bệnh tim mạch, nhất là chứng nhồi máu cơ tim.
- Grape seed (hạt nho) tinh chế. Liều dùng từ 150-300 mg/ngày.Cũng là chất chống oxy hóa mạnh. Nếu được tổng hợp với chất phosphatidyl choline (một hợp chất lecithin thiên nhiên) thì tác dụng sẽ cao hơn.
Phòng ngừa.
- Nếu ăn nhiều rau quả, ngũ cốc như hạnh đào (almond), men bia (yeast), gạo (grains), hạt vừng (sesame seeds) nhờ có chứa chất sợi, giúp cho thành mạch máu sạch và sức đàn hồi tốt hơn. Ăn rong biển (seaweed) như kelp chlorella, spirulina cũng chứ nhiều sinh tố và chất khoáng hữu ích cho tim mạch.
- Tránh ăn thịt đỏ (red meat) như thịt bò, đồ gia vị quá kích thích, muối, đường tinh chế (refined sugars). Hạn chế tối đa việc dùng thực phẩm chiên,rán (fried foods), coffe. Không nên uống rượu bia, hút thuốc lá, vì độc tố của chúng tác động trực tiếp lên tim. Chỉ nên uống nước lọc tinh chế đun sôi để nguội là tốt nhất.
- Về thân thể, nên tập thể dục nhẹ như đi bộ, bơi lội, không nên chạy nhanh hay tập những dụng cụ nặng. Về tinh thần cố gắng giảm căng thẳng thần kinh, không để cho cơn nóng giận có cơ hội bùng phát bằng cách tập tĩnh tâm, thiền quán nhằm thư giãn đầu óc. Trong phòng ngủ nên nhỏ vài giọt tinh dầu gỗ đàn hương (sandalwood oil) hay cây oải hương (lavender oil) để cho mùi thơm lan tỏa, tạo bầu không khí nhẹ nhàng êm dịu.
4. SUY TIM (Heart failure)
Suy tim là một hội chứng có đặc điểm rối loạn chức năng cơ tim (myocardial đysfunction) dẫn tới hậu quả làm suy yếu hiệu suất bơm máu. Điều cần phân biệt la suy tim khác với chứng nhồi máu cơ tim (myocardial infarction). Suy tim là do tim không cung cấp đủ máu cho cơ thể. Ngược lại, nhồi máu cơ tim là do tim không nhận đủ lượng máu theo nhu cầu cần dùng. Tuy nhiên, chứng nhồi máu cơ tim có nguy cơ dẫn tới suy tim.
Suy tim thường xảy ra việc hư hỏng ở thất trái (left ventricle) hơn là ở thất phải (right ventricle) nhưng có một số trường hợp khởi đầu từ thất phải, vài trường hợp khác do cả hai thất trái và phải cùng hư hỏng một lượt. Mặc dù suy tim có thể là hiệu ứng cấp tính, gây hậu quả trực tiếp đến chứng nhồi máu cơ tim nhưng thường là rối loạn mãn tính có liên quan tới việc duy trì chất sodium và nước trong thận.
Nguyên nhân
- Do rối loạn cơ tim (heart muscle), như chứng nhồi máu (infarction), khiến cho chu kỳ bơm máu của cơ tim bị thiếu dẫn tới bệnh đau động mạch vành (cornary artery disease) hoặc bệnh cơ tim (cardiomyopathy).
- Do rối loạn cơ lực (mechanicle disturbances) trong tâm thất khiến cho lượng máu cung cấp quá ít không đủ bơm giữa lúc tim ở vị trí tâm trương (diastole), chẳng hạn như hẹp lỗ van 2 lá thứ phát (mitral stenosis secondary) trong bệnh thấp tim (rheumatic heart disease) hoặc là viêm màng ngoài tim thắt (constrictive pericarditis) và rung tâm nhĩ (atrial fibrillation).
- Do huyết động lực tâm thu rối loạn (systolic hemodynamic disturbances), như trường hợp tim làm việc quá sức vào chu kỳ trương lực cơ tim giãn hết mức, hoặc chịu một áp suất quá tải, vượt khỏi khả năng hoạt động có giới hạn của tim.
Những nguyên nhân gây rối loạn nêu trên có thể do hở lỗ van động mạch chủ hoặc bệnh hở lỗ van 2 lá (aoric or mitral insufficency) khiến cho dung lượng máu tiếp nhận quá mức. Mặt khác, tình trạng hẹp lỗ động mạch chủ (aortic stenosis) hoặc cao huyết áp toàn thân (systemic hypertension) cũng là lý do làm tăng lực cản tới tâm thất đang trống rỗng (thiếu máu).
Dấu hiệu và triệu chứng
- Nếu suy tim bên thất trái, chủ yếu do hệ thống thuộc mạch phổi, dấu hiệu lâm sàng gồm có: Khó thở, khó thở khi nằm, có tiếng răng rắc (cracles) trong ngực, hơi thở khò khè, giảm lượng oxy nạp vào, nhiễm acid hô hấp (respiratory acidosis), ho, hiện ra chứng xanh tím hay tái nhợt, đánh trống ngực, chứng loạn nhịp tim (arrhythmias), huyết áp lên cao và mạch so le (pulsus alternans).
- Suy tim bên thất phải, thường bao gồm các nguyên nhân: phù ngoại biên (peripheral edema),gan to, lách to, căng tĩnh mạch cổ, hiện tượng cổ trướng (ascites), giảm cân nhanh, loạn nhịp (arrhythmias), căng ổ bụng (abdominal distention), buồn nôn, ói mửa, biếng ăn, yếu mệt, hoa mắt và ngất (syncope).
- Những dấu hiệu và triệu chứng đặc trưng nêu trên bao gồm chứng phù phổi (pulmonary edema), ứ tĩnh mạch (venostasia) với khuynh hướng bệnh huyết khối tắc mạch (thromboembolism), suy não (cerbral insufficiency) và suy thận (renal insufficiency). Được coi là suy tim khi có kết quả kiểm nghiệm sau đây.
- Trên tâm điện ký (electrocardiography) phản ánh tình trạng cơ tim bị căng quá mức, phì đại và thiếu máu cục bộ (ischemia). Cũng có chỉ dấu hang tâm nhĩ nở rộng, nhịp tim nhanh (tachycardia) và ngoại tâm thu (extrasystole).
- Chụp quang tuyến ngực (chest X-ray) thấy dấu mạch phổi tăng lên, kẽ (là khoảng cách giữa hai mô) bị phù (interstitial edema), tràn dịch màng phổi (pleural effusion) và tim to (cardiomegaly).
- Qua máy monitoring (pulmonary artery monitoring) thấy động mạch phổi nâng lên và tăng áp suất ở góc nhọn, nâng cao tâm thất trái ở đoạn cuối thâm trương thuộc trái và nâng cao động mạch phải hay trung tâm áp suất tĩnh mạch ở thất phải.
- Trên siêu âm tâm ký (echocardiography) thấy rõ tâm thất trái loạn chức năng (dysfunction) với phân đoạn đẩy ra bị giảm.
Điều trị
Dược thảo đơn giản
- Xem phần điều trị mục nhồi máu cơ tim
- Coenzyme Q10: ngày 3 lần mỗi lần 50-200 mg.
- Trà xanh 10g, lá bạch quả 10g. Hà thủ ô đỏ 10g, Hồng linh chi thảo 10g. Nấu với 2 lít nước, chờ sôi 10 phút, chiết lấy nước uống dần thay nước lọc. Đây là toa thuốc trị nhồi máu cơ tim và suy tim rất hay, đã trị trên 100 ca đạt kết quả 87%.
Dược thảo tổng hợp
Bài số 1
Đan sâm 30g
Hà thủ ô đỏ 30g
Đảng sâm 30g
Câu kỷ tử 15g
Qua lâu nhân 20g
Uất kim 10g
Giáng hương 08g
Diên hồ sách 10g
Xuyên điền thất phấn 3-6 g (uống với nước thuốc)
Hồng hoa 6-10g
Ngũ linh chi 10-15g
Bồ hoàng 06g
Xích nhược 8-10g
Gia giảm
- Nếu bệnh thuộc âm hư, gia thêm Ngọc trúc 30g, Mạch môn 10g, bạch thược (sao rượu) 12g, Cam cúc hoa 15g, Sinh địa 15g, thay Đảng sâm bằng Thái tử sâm 30g.
- Nếu bệnh thuộc dương hư, bỏ Thái tử sâm, thêm Hồng nhục sâm 15g.
- Mất ngủ thêm hắc táo nhân 12g, Bá tử nhân 12g, liên tâm 12g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Nữ bệnh nhân Emelia Johnson 54 tuổi, ở Houston Texas Hoa Kỳ, vốn bị cao huyết áp, thường cảm thấy ngực trái căng tức, tim đạp mạnh, hồi hộp, hay chóng mặt, giấc ngủ chập chờn. Đã điều trị theo y học hiện đại suốt 8 năm nhưng không thấy khá hơn. Khám chẩn đoán do suy tim. Cho uống bài thuốc số 1 liền 7 thang, bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, ngủ ngon, tim đập tương đối hòa hoãn. Cho uống tiếp tổng cộng 21 thang, các chứng biến mất, sức khỏe tốt. Ngưng thuốc, khuyên dùng Coenzyme Q10 để củng cố gần 1 năm sau hỏi lại vẫn bình thường. Bày nầy có thể trị được cả chứng rung tâm nhĩ.
Bài số 2
Đan sâm 15g
Đảng sâm 15g
Sinh mẫu lệ 15g
Hắc táo nhân 15g
Long cốt 15g
Hà thủ ô 15g
Linh chi thảo 15g
Hương phụ 12g
Phật thủ 10g
Chính viễn chí 10g
Bá tử nhân 10g
Chu sa 02g
Hổ phách 02g (uống với nước thuốc)
Sắc 2 nước gạn lấy 1 chén, bỏ Chu sa và Hổ phách vào hòa tan chia uống 2 lần, mỗi lần uống kèm 1 viên capsule Coenzyme Q10 loại 100 mg.
Kinh nghiệm lâm sàng: Nam bệnh nhân Roshan Jivani 66 tuổi, ở Houston Texas Hoa Kỳ, thường bị chứng hồi hộp, ngực căng tức khó chịu, sợ chết không giám ngủ, sức khởe suy sụp, buồn giận vô cớ. Khám thấy tim đập nhanh, không đều. Chẩn đoán suy tim. Cho dùng bài số 2 liền 10 thang, người bệnh cảm thấy khỏe hẳn, đêm ngủ được 4-5 tiếng đồng hồ. Cho uống tiếp 20 thang nữa, sức khỏe gần như bình thường. Ngưng thuốc khuyên uống Coenzyme Q10, thay đổi lối sống, năng tập thể dục, 6 tháng sau gặp lại vẫn ổn định.
Dưỡng sinh
Bệnh tim mạch nói chung, suy tim nói riêng, là loại bệnh nguy hiểm giết người, không nên xem thường. Thay đổi thói quen ăn uống hằng ngày là một trong những phương pháp dưỡng sinh rất quan trọng, có khả năng cải thiện tình trạng sức khỏe, phục hồi sinh lực, tránh được tai họa.
- Nên chọn rau quả tươi, nhiều chất sợi (fiber).
- Nếu muốn tăng chất đạm có nguồn gốc động vật, nên chọn cá và thịt gà hơn là thịt heo hay thịt bò nhờ ít mỡ.
- Tỏi tươi (fresh garlic) và củ hành tây (onion) là hai loại thực vật có năng lực làm giảm cholesterol huyết trong khi coffee, thuốc lá, rượu bia chocolete, đường tinh chế, mỡ, bơ (butter), nước giải khát (soft drink), đồ gia vị (spicy foods), đồ chiên (fried foods) là những thực phẩm có hại cho tim mạch.
- Thẳng tay loại trừ tất cả thực phẩm hay nước uống nào có chứa sodium hoặc trên nhãn hiệu thương mại ghi chữ “Natri” hoặc “Soda” bởi vì chúng đều có chứa sodium. Cũng nên tránh một số thực phẩm ghi “không có muối- salt – free”) bên ngoài nhãn hiệu nhưng lại pha trộn nhiều chất không tốt sau đây.
+ Monosodium glutamate (MSG)
+ Baking soda
+ Rau cải đóng hộp (canned vegetables)
+ Thực phẩm ăn liền (prepared foods)
+ Nước thải không tăng cân (diet soft drinks)
+ Thực phẩm dự trữ (foods with preservatives)
+ Chất làm cho thịt mềm (meat tenderizerz)
+ Đường hóa học (saccharin)
- Giữ cho thân thể cân đối, tránh béo phì, bởi vì béo phì là nhân tố gây nguy cơ về chứng nhồi máu cơ tim, cao huyết áp và suy tim.
- Năng tập thể dục với những phương pháp thích hợp dành cho người bị bệnh về tim mạch.
- Xem thêm chỉ dẫn ở mục “Nhồi máu cơ tim”.
5. BỆNH THẤP TIM (Rheumatic heart disease)
Thấp tim, hiểu đơn giản là bệnh tim do phong thấp gây ra. Hiểu khoa học hơn, bệnh thấp tim có liên quan đến bệnh thấp khớp cấp tính (acute rheumatic fever) tấn công cơ thể trong một thời gian dài gây chứng viêm (imflammatory) khiến cho van (vales) tim có sẹo, thô cứng, biến dạng, không còn nguyên trạng như trước.
Bệnh thấp tim thường xẩy ra với trẻ em, tái phát nhiều lần, được xếp vào loại viêm liên cầu khuẩn tan máu bê –ta thuộc nhóm A (group A betahemolutic streptococcal infection). Bệnh nầy bao gồm viêm toàn tim (pancarditis) với nhiều dạng như: Viêm cơ tim (myocarditis), viêm màng ngoài tim (endocarditis) ngay trong giai đoạn cấp tính; sau đó trở thành bệnh van tim ở thời kỳ mãn tính.
Theo thống kê tại Hoa Kỳ, bệnh thấp tim gây tử vong rất nhanh, cho dù sống sót sau giai đoạn cấp tính thì tỷ lệ người chết trong vòng 10 năm cũng lên đến 20%.
Nguyên nhân
- Thấp khớp cấp xuất hiện trước là do tăng phản ứng nhạy cảm của viêm liên cầu khuẩn tan máu bê –ta nhóm A trong khi kháng thể (antibodies) sản xuất chất kháng sinh chống lại phản ứng của liên cầu khuẩn tạo ra những thương tổn cho mô, đặc điệt ở tim và khớp.
- Thấp tim xuất hiện sau là do nhiều nhiên tố gây ra, trong đó có yếu tố gia đình và chủng tộc. Ví dụ nhóm trẻ em tuổi từ 5-15 ở những quốc gia nghèo khổ, kinh tế xã hội thấp kém, sẽ có nguy cơ bệnh thấp tim cao nhát so với trẻ em ở các nước văn minh g iàu mạnh do tình trạng suy dinh dưỡng (malnutrition) và cuộc sống khá chật chội, đông đúc.
- Thấp tim tấn công phần lớn vào đầu xuân khi thời tiết mát mẻ và vào mùa đông khi khí hậu giá lạnh ẩm thấp. Riêng tại Hoa Kỳ, bệnh hoành hành nặng nhất ở các Tiểu Bang miền Bắc.
Dấu hiệu và triệu chứng
- Bị viêm họng. Sau đó khoảng 1-2 tuần lễ chuyển qua sốt thường, có thể sốt cao ở 39 – 400C. Toàn thân mệt mỏi, kém ăn, da xanh mướt, có khi chảy máu mũi.
- Đa số bệnh nhân khoảng 95%, ngay sau khi nhiễm trùng liên cầu khuẩn sẽ xuất hiện bệnh thấp khớp trong vòng từ vài hôm đến trước 6 tuần lễ. Nhiệt độ luôn luôn cao, ít nhất 100.40F (tương đương 380C).
- Đau khớp là dấu hiệu đặc trưng. Hầu hết bệnh nâhn đều than phiền về tình trạng đau khớp xương. Do bị viêm đa khớp (polyarthritis) nên có cảm giác cơn đau di chuyển không ngừng,da ửng đỏ, sưng trướng. Bệnh nhân thường tập trung ở vùng khớp gối, khuỷu tay, khớp hông và khớp mắt cá chân.
- Da bị tổn thương và nổi hạt (nodules) chiếm tỷ lệ chừng 5%, trong số đó hầu như bệnh nhân nào cũng có tiền sử mắc bệnh viêm tim (carditis). Bệnh thấp khớp cấp làm cho da bị sưng tấy, nổi những hạt nhỏ lấm tấm như sốt ban với viền màu đỏ sậm nhưng ở giữa có màu trắng nhạt, không ngứa, xuất hiện trong một thời gian ngắn rồi lặn.
- Bệnh thấp khớp cấp còn sinh ra những cục hạch nhỏ nằm dưới da, đường kính từ 3mm đến 2cm, khá cứng, di chuyển được. Những cục hạch nầy thường xuất hiện gần cơ gân (tendons) hoặc ở đầu u lồi của khớp xương (prominences of joints), đặc biệt tại khớp xương khuỷu tay, các đốt ngón tay, cổ tay và khớp gối. Nó xuất hiện trong vài ngày, có khi đến vài tuần lễ thì lặn.
- Múa giật (chorea) cũng là dấu hiệu dễ nhận diện. Khi bị nhiễm liên cầu khuẩn (streptococcal infectuon)khoảng 5-6 tháng, nhiều bệnh nhân bị những cơn múa giật ngắn tiếp theo sau bệnh thấp khớp cấp. Cơn múa giật tuy không phải do hư hỏng hệ thống thần kinh, không có chủ đích co rút bắp thịt, không lập đi lập lại, khá êm dịu, nhưng làm gia tăng kích thích (hyperiritability) khiến cho cơ bắp yếu đi, phá hỏng nét chữ viết tay hoặc mất khả năng tập trung của bệnh nhân.
- Bệnh thấp khớp cấp tàn phá cơ thể, trong đó có bệnh viêm tim (carditis) được xem là nghiêm trọng vì tỷ lệ bệnh nhân mắc phải chiếm tới 50%. Thấp khớp cấp gây tổn hại cơ tim (myocardium), màng trong tim (endocardium), màng ngòai tim (pericardium) hoặc van tim (heart valves). Khi bị viêm màng ngoài tim, bệnh nhân cảm thấy đau đớn do sự cọ xát thường trực. Nếu bị viêm cơ tim (myocarditis) sẽ biến thành một dạng thương tổn cấp tính, còn gọi là viêm nhiễm tăng sinh, với những hạt Aschoff (Aschoffs bodies) làm vỡ chất tạo keo (collagen), dẫn tới việc tạo ra những hạt xơ cứng, lởm chởm như vách núi. Nếu bị viêm màng trong tim, hậu quả là lá van (valve leaflet) sẽ sưng, gây xói mòn dọc theo mép van đóng kín. Máu, tiểu cầu (platelet) cùng chất fibrin (một chất protein trong máu) lắng đọng lại thành những chất sùi như bọt biển. Viêm màng trong tim có ảnh hưởng đến 2 lá van (mitral valve) đối với hầu hết giới nữ, trong khi nam giới thì lại bị thương tổn van động mạch chủ (aortic valve). Cả hai giới tính, đàn ông lẫn đàn bà, viêm màng trong tim làm ảnh hưởng tới van 3 lá (tricuspid valve) hơn là van động mạch phổi (pulmonic valve).
Bệnh thấp tim còn sinh nhiều tai biến nguy hiểm khác như suy tim (heart failure) với tình trạng khó thở (dyspnea),đau lan với phần trên ngực bên phải,tim đập nhanh, thở nhanh, có tiếng thổi của 2 lá (mitral murmur) và tiếng thổi của động mạch chủ (aortic murmur) nhưng lại không làm cho ho.
Chẩn đoán
Viêm tim, viêm đa khớp (polyarthritis), cơn múa giật, nổi ban đỏ rìa ngoại biên (erythema marginatum) hay nốt sần dưới da đều có một hoặc nhiều triệu chứng, chi tiết khá đặc trưng giúp cho thầy thuốc sễ nhận diện. Sau đây là vài dữ kiện do phòng thí nghiệm cung cấp để chẩn đoán bệnh thấp tim.
- Đếm tế bào bạch huyết cầu và tốc độ lắng của hồng cầu: Có thể tăng cao giữa cơn đau cấp tính và có dấu hiệu thiếu máu nhẹ do tác động ngăn cản việc tạo hồng cầu (erythropoiesis) trong lúc bị viêm.
- Xem thành phần carbon qua protein phản ứng: Đây là phương pháp khảo sát kháng thể (antibodies) bằng cách xem hiệu năng của chất đạm (proteins) do hệ thống miễn nhiễm (immune system) sản xuất ra nhiều hay ít nhằm chống lại sự tác hại của liên cầu khuẩn (streptococci).
- Xem mức enzyme ở tim: Enzyme là một chất đạm dữ vai trò điều tiết tỷ lệ về phản ứng hóa học trong cơ thể. Mỗi tế bào sản xuất nhiều loại enzymes khác nhau tùy theo chức năng và nhiệm vụ riêng. Đo lường mức độ enzymes tại tim có thể chẩn đoán chính xác những rối loạn liên quan đến cơ tim. Khi bị bệnh thấp tim, mức enzymes ở tim sẽ dâng cao vì tế bào cơ tim bị hư hại giữa lúc mức enzymes trong máu lại thấp hơn.
- Xét nghiệm nồng độ Antistreptolysin – O: Là phương pháp khảo sát kháng thể trong máu bằng chất Antistreptolysin – O. Đây là một chất độc (poison) được sản xuất từ một guống vi khuẩn thuộc loại liên cầu khuẩn (cacteria streptococci). Nếu chất Antistreptolysin – O tăng cao, chứng minh rằng 95% bệnh nhân bị thấp tim và bệnh đã tấn công trong vòng 2 tháng qua.
- Dùng pháp tâm điện ký (Electroncardiography): Nếu thay đổi thì không có triệu chứng mắc bệnh. Nhưng nếu khoảng P-R, Q-T kéo dài trong khi đoạn TS thấp hoặc dâng cao, sóng T thấp hoặc đảo nghịch thì hơn 20% bệnh nhân đã mắc bệnh.
- Chiếu X-ray ngực: Với người vô bệnh, kích thích của tim bình thường. Khi viêm cơ tim (myocarditis), suy tim (heart failure), tràn màng ngoài tim (pericardial effusion) hay thấp tim (rheumatic heart disease) thì thấy tim to hơn và nhịp đập yếu hơn bình thường.
- Dùng pháp siêu âm tâm ký (Echocardiography): Giúp cho các nhà chuyên khoa tim mạch lượng định mức độ van tim bị thương tổn, kích thước của buồng tim và chức năng của tâm thất.
- Thông tim (cardiac catheterization): Nhầm lượng định sự thiệt hại tới van tim và chức năng tâm thất trái do hệ quả nghiêm trọng bởi loạn năng tim mạch.
Điều trị bằng Đông y
Theo Đông y học, bệnh thấp tim hay Thấp khớp cấp thuộc phạm trù bệnh “Nhiệt tý” và “Chính xung – tâm quý”. Nguyên nhân do “Phong - Thấp - Nhiệt” gây ra, bởi vì Phong (gió, khí hậu) mang mầm độc hại (vi trùng, vi khuẩn) xâm nhập vào cơ thể tạo chứng Thấp (sưng khớp) và sau đó hóa khớp xương gây đau nên được xếp vào loại “Nhiệt tý” (nóng đỏ, đau), nếu chạy vào tim gây thương tổn cho tim thì quy vào chứng “Chính xung và tâm quý”.
- Dược thảo đơn giản: (Xem hướng dẫn chung về bệnh tim mạch).
- Dược thảo tổng hợp:
Vì thấp tim thuộc nhiệt, biện chứng luận trị của Đông y trước hết là “Thanh nhiệt” sau đó mới dụng được cho phù hợp với triệu chứng.
Nếu do Phong thì sử phương “Thanh nhiệt khu phong”.
Nếu do thấp hay ứ huyết hoặc tính độc thì sử phương “Thanh nhiệt lợi thấp, thanh nhiệt lương huyết hay thanh nhiệt giải độc”.
Bài số 1
- Thể Phong Nhiệt
- Triệu chứng: Sốt cao, có khi gai rét, viêm họng, các khớp sưng nóng đỏ, đau, khát nước, môi khô, nước tiểu đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng dày hay vàng, mạch đi phù sác (nổi cao và nhanh).
Sinh thạch cao 30g
Tri mẫu 12g
Quế chi 08g
Kim ngân hoa 16g
Liên kiều 12g
Sinh địa 16g
Bồ công anh 16g
Hoàng bá 12g
Thương truật 08g
Tang chi 20g
Huyền sâm 20g
Camthảo 06g
Mẫu đơn bì 12g
Xích thược 12g
Mạch môn 12g
Thạch hộc 12g
Xạ can 06g
Mã bột 06g
Sơn đậu căn 06g
Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 5-7 ngày.
Bài số 2
- Thể Thấp Nhiệt.
- Triệu chứng: Sốt, khát nước nhưng không muốn uống nước, khớp sưng to, nóng, tiểu vàng sậm, rêu lưỡi vàng nhầy nhớt, mạch đi Hoạt Sác.
Sinh hoạt thạch 30g
Thiên niên kiện 16g
Độc hoạt 16g
Ý dĩ nhân 16g
Đương quy 16g
Liên kiều 12g
Sinh địa 16g
Hoàng bá 12g
Tri mẫu 12g
Xuyên ngưu tất 12g
Hoa kỳ sâm 10g
Phòng kỷ 12g
Hắc chi tử 12g
Xích tiểu đậu 12g
Bạch cương tằm 12g
Thương truật 10g
Tỳ giải 12g
Trạch tả 12g
Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 6-7 thang.
Bài số 3
- Thể Phong Thấp Nhiệt
- Triệu chứng: Sốt, khát nước, các khớp sưng đỏ, cơ thể nặng nề, giống như thể Phong Nhiệt xen lẫn Thấp Nhiệt.
Hoa thiêm thảo 20g
Kim ngân hoa 20g
Thổ phục linh 20g
Thương nhỉ tử 20g
Xuyên Tỳ giải 16g
Kê huyết đằng 16g
Thiên hoa phấn 16g
Mạch môn đông 16g
Thủy ngưu giác 12g (sừng trâu)
Ý dĩ nhân 16g
Đan sâm 12g
Cam thảo 08g
Ngũ vị tử 06g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài số 4
- Thể Hàn Thấp có ứ huyết.
- Triệu chứng: Cơ thể lạnh, khớp sưng đau nhưng không nóng đỏ, thỉnh thoảng khạc ra huyết.
Quế chi 15-30g (tùy lạnh nhiều hay ít)
Chích cam thảo 15-30g
Vương bất lưu hành 15-30g
Đương quy vĩ 30-60g
Đào nhân 30-45g
Hồng hoa 10-24g
Đan sâm 30-45g
Tam lăng 15-30g
Nga truật 15-30g
Hương phụ 10-15g
Thạch xương bồ 10-15g
Uất kim 30-40g
Chích viễn chí 10-15g
Bồ hoàng 15-24g
Ngũ linh chi 15-24g
Sắng uống ngày 1 thang, liên tục 5-7 thang
Kết quả điều trị: Đã sử dụng phương thang nầy trị cho 300 ca có kèm theo ho ra huyết, đạt kết quả 84%. Nhiều bệnh nhân khạc ra máu luôn, thở dốc không nằm được, xuất hạn mồ hồi, đầu váng, tim hồi hộp đập không đều, nhịp tim 118 lần/phút, biên độ rộng, vùng mỏm tim có tạp âm thời tâm thu cấp 3 đến cấp 4, tạp âm thời tâm trương cấp 2 đến cấp 3. Chẩn đoán bị bệnh thấp tim, van 2 lá hẹp không khép kín, phổi sung huyết. Sau khi cho uống 1 thang,tim đập còn 90 lần/phút, hết khạc ra máu. Liền giảm quế chi xuống 5g, gia Xuyên điền thất 3g (uống với nước thuốc), cho uống thêm 2 thang nữa, bệnh tình tương đối ổn định, có thể làm việc nhẹ trong nhà.
Bài số 5
- Thể Hàn Thấp kèm Phù thũng.
- Triệu chứng: Cơ thể lạnh, khớp sưng đau, tim hồi hộp, thở gấp, tiểu ít, phù thũng, bụng trướng đau.
Thục phụ tử 30g (sắc trước 30 phút để khử độc)
Bạch phục linh 30g
Quế chi 10g
Bạch thược (sao lưu) 10g
Bạch truật (sao cám) 10g
Sơn thù nhục 10g
Bào can khương 10g
Uy linh tiên 10g
Toàn yết (bồ cạp) 10g
Ô tiêu xà (rắn hổ đất) 10g
Ngô công (con rết) 02 con (bỏ đầu và chân)
Sinh hoàng kỳ 60g
Bắc ngũ vị tử 12g
Ba kích nhục 12g
Tang chi 25g
Hạ khô thảo 15g
Bắc Cam thảo 03g
Hán phòng kỷ 15g
Trạch tả 10g
Mộc thông 15g
Hành tăm 12g
Sắc uống mỗi ngày 1 thang, liên tục 4-5 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Nguyễn Thị Lý 27 tuổi, các khớp xương đều sưng đau, tim hồi hộp, mệt từng cơn, cảm thấy rét, 2 chân phù thũng, mặt xám bệch, bụng trước đau, tai ù, suy nhược. Gần đây bỗng thấy đau thắt ngực lan ra sau lưng, tay chân lạnh toát, mồ hôi ướt đẫm, môi tím tái, mạch đi trầm trì tế, lưỡi đỏ nhạt, rìa xanh, rêu trắng mỏng. Đã khám ở một bệnh viện, chẩn đoán là bệnh Thấp tim, cho uống thuốc tây nhưng không khỏi. Sau khi cho uống bài số 5 liền 12 thang, ngực hết đau, giảm hồi hộp, thở điều hòa, giảm trướng bụng, ăn uống ngon miệng, giảm đau khớp, xẹp phù. Liền bỏ Cam thảo, bào can khương, Uy linh tiên, Hạ khô thảo, Giới bạch, Ngô công, Toàn yết, Tang chi, ba kích nhục, gia thêm bồ hoàng 10g Hawthom extract 300mg 9ngày 3 lần), Xuyên điền thất phấn 6g (uống với nước thuốc). Cho uống thêm 15 thang nữa, bệnh khỏi.
Bài số 6: Bệnh thấp tim dẫn tới suy tim
Hồng sâm 10g
Thục phụ tử 10g
Chích cam thảo 10g
Thạch xương bồ 10g
Hắc táo nhân 15g
Chích viễn chí 10g
Ngũ vị tử 10g
Dương quy 12g
Sao bạch truật 12g
Bạch phục linh 20g
A giao châu 12g
Trư đởm (mật heo) 01 cái
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Đã dùng bài số 6 trị 10 ca bệnh tim do phong thấp dẫn tới suy tim ở nhiều mức độ khác nhau đều có kết quả tốt. Toa nầy có tên là “Phù dương ích âm thang”, tổng hợp từ 4 toa cổ phương “Tứ nghịch thang gia Nhân sâm”, “Bạch thông thang gia Trư đởm trấp”, “ phụ tử thang” và “ Toan táo nhân thang”.
Bài số 7: Bệnh thấp tim dẫn tới viêm cơ. Có 2 thể.
a. Thể thấp khớp cấp lâu ngày hóa nhiệt, khí lẫn âm đều hư.
Ngọc trúc 15g
Sinh địa 15g
Từ trường noãn 15g
Sinh Hoàng kỳ 15g
Lộ thông tử 15g
Kê huyết đằng 20g
Uy linh tiên 12g
Hắc táo nhân 12g
Hợp hoan bì 15g
Thái tử sâm 12g
Ngũ vị tử 08g
Bản lam căn 20g
Liên kiều 12g
Mạch môn đông 10g
Cam thảo 06g
Tân giao 10g
Sắc uống 1 ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Trần Xuân Thời 35 tuổi, cho biết hai năm trước bị viêm khớp, tim hồi hộp, thở ngắn. Đến khám một bệnh viện được bác sĩ chẩn đoán là bị thấp khớp chuyển qua thấp Tim và viêm cơ tim. Nhận thấy các khớp chân sưng đau, khớp gối không co duỗi được,tim hồi hộp, thở ngắn, không thể nằm nghiêng bên trái. Xét nghiệm thấy kháng “0”1:1250 ( tức xem nồng độ chất streptolysin – 0), huyết lắng 200mm/giờ, mạch đi tế - vi – sác. Cho uống bài số 7a liền 2 tháng, cảm thấy các triệu chứng đều hết, giảm kháng “0”.
b. Thể- Phong - Thấp dẫn đến viêm cơ tim
Quế chi 10-30g
Thục phụ tử 15-30g
Đại táo 15g
Sao Bạch truật 15g
Chích cam thảo 10g
Phòng phong 10g
Sinh khương 03g
Sắc uống ngày 1 thang
Trong thang nầy đa số bệnh nhân đều phải dùng nhiều Quế chi và Thục Phụ tử mới có hiệu quả. Nếu tức ngực thì gia thâm Giới bạch và Chỉ xác. Người khí suy thêm Bắc Hoàng Kỳ. Thiếu máu gia thêm Đương qui.
Kinh nghiệm lâm sàng: Long Nữ 40 tuổi, nhiều năm trước có tiền sử nhịp tim sớm và viêm họng mãn tính. Kiểm tra tâm điện ký thấy cơ tim bị thương tổn, huyết lắng nhanh 38mm/giờ, chất kháng O (streptolysin – O) tăng cao rõ rệt 833 đơn vị. Khớp đau, di chuyển luôn, tim hồi hộp, thở dốc, tức ngực. Cho dùng bài số 7b liền 1 tháng, thấy triệu chứng giảm quá nửa. Giữ nguyên phương thang, cho uống thêm 6 tuần lễ, các triệu chứng không còn huyết lắng 11mm/giờ, kháng O trở lại bình thường, nhịp tim đều. Cho kiểm tra tâm điện ký, thấy hết tổn thương cơ tim.
Bài số 8:
- Thể hư nhiệt
- Triệu chứng: Nóng hầm trong xương, sốt vào buổi chiều và tăng cao vào ban đêm, da khô, khát nước, đổ mồ hôi trộn, khớp vừa nóng, vừa đau, chảy máu cam, hồi hộp, mệt mỏi, lưỡi đỏ, mạch đi tế sác.
Sinh địa 20-30g
Đan sâm 15-30g
Mạch nôn đông 15g
Sơn thù nhục 15g
Huyền Sâm 15g
Liên kiều 12g
Tri mẫu 12g
Mẫu đơn bì 12-15g
Bạch Phục linh 12g
Trạch tả 12g
Ngũ vị tử 06g
Sắc uống mỗi ngày 1 thang
Gia giảm:
- Khí suy, gia Sinh Hoàng kỳ 20-30g, Hoa kỳ sâm 12g, Thái tử sâm 12g.
- Khoa ngủ hay mất ngủ, gia Hắc Táo nhân 15g, Dạ giao đằng 30g, Hợp hoan bì 15g, Liên tâm 15g, Trân châu mẫu 30g.
Bài số 9:
- Thể Huyết hư:
- Triệu chứng: Sốt nhẹ, các khớp sưng nhẹ và đau, hồi hộp, mệt mỏi, váng đầu, ăn kém ngon, biếng ăn, mạch đi tế sác.
Chích Hoàng kỳ 20-30g
Hy thiêm thảo 15-20g
Sinh địa 15-20g
Hà thủ ô đỏ 15-20g
Đương qui 15g
Xích thược 12g
Sinh lý dĩ nhân 20g
Tang ký sinh 15g
Kê huyết đằng 20g
Xuyên khung 08g
Địa long 12g
A giao châu 08g
Bạch thược (sao rượu) 12g
Sắc uống mỗi ngày 1 thang, liên tục 10 thang.
- Nếu có phù thũng, gia Bạch phục linh 15g, Trạch tả 10g.
6. HUYẾT ÁP CAO
(Hypertension – High Blood Pressure)
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu huyết áp là gì?
Theo định nghĩa, huyết áp (blood pressure) là sức mạnh của máu chạm vào thành mạch (walls of the arteries) do tác động bởi sự co bóp của tâm thất trái hay tâm thu (systole) cùng với sự duỗi dài của tâm trương (diastole) vào lúc các buồng tim (heart chambers) nới lỏng và giãn ra. Từ ý niệm này, chúng ta có cơ sở khoa học để luận giải về huyết áp cao hoặc thấp.
Huyết áp cao là tình trạng rối loạn chung về áp suất máu tăng hơn mức bình thường trong một thời gian hạn định. Huyết áp biểu thị bằng lực chịu đựng mỗi lần tim đạp và đẩy máu vào thành động mạch. Đọc cao điểm (peak reading) áp suất trong nỗ lực co bóp này chính là áp suất tâm thu (systolic pressure). Sau cái đập, tim giãn nở và huyết áp hạ xuống, điểm đọc thấp nhất là chỉ dấu của áp suất tâm trương (diastolic pressure).
Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới (world Health Organization – WHO or OMS), huyết áp bình thường ở người lớn là 140/90 mmHg hoặc thấp hơn. Vậy con số 140/90 hay 120/80 có ý nghĩa gì? Cách đọc như sau:
- 120 (tâm thu – systolic)
- 80 (tâm trương – diastolic)
Huyết áp cao được phân định theo từng mức độ khác nhau và tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: Tuổi tác, gia đình, chủng tộc, giới tính, môi trường, thời tiết… Dưới đây là những con số tiêu biểu:
Tâm thu | Tâm trương | Lượng định |
120 – 160 140 – 160 140 – 180 160 trở lên | 90 – 94 95 – 104** 105 – 114 115 trở lên | Trung bình Nhẹ Hơi cao Nghiêm trọng |
Nếu Bác sĩ đo huyết áp cho ông, bà mà lấy làm lo lắng khi thấy số đếm tâm thu (dấu *) hơi cao hoặc quá cao, xin ông bà cần phải chú ý luôn cả số đếm của tâm trương (dấu **), bởi vì nó cũng là một nhân tố hết sức quan trọng. Áp suất tâm trương, trị số trung bình thường thấp hơn 82mmHg mới được coi là an toàn. Khi áp suất tâm thu lên cao hơn 158mmHG, nguy cơ tim mạch bị chết đột ngột tăng gấp 2 lần so với tỷ lệ tâm thu bình thường nằm dưới mức 130mmHg.
Huyết áp cao xảy ra gồm 2 thể chính:
- Huyết áp cao nguyên phát (essential, idiopathic hypertension),là thể phổ biến nhất, được xác định khi nào không tìm ra nguyên nhân gây bệnh huyết áp cao.
- Huyết áp cao thứ phát (secondary hypertension); thường là hậu quả từ bệnh thận (kidney disease) hoặc một nguyên nhân đồng dạng khác. Trong thể thứ hai này phải kế đến huyết áp cao ác tính (malignant hypertension) là một thể trầm trọng nhất, gây tử vong nhanh nhất. Ngoài ra còn một thể khác cũng nguy hiểm không kém, đó là huyết áp cao đột nhiên hay thình lình (fulminant hypertension), xảy ra ở cả hai thể nguyên phát cũng như thứ phát.
Huyết áp cao là động lực chính gây tai biến mạch máu não (cerebrovascular accident – CVA) bệnh tim và suy thận (renal failure). Tiên lượng mối nguy hiểm từ huyết áp cao có thể đạt hiệu quả đáng kể nếu như sự rối loạn này được khám phá sớm và điều trị kịp thời trước khi những biến chứng xuất hiện. Tuy không chính thức tuyên bố, y học coi huyết áo cao như là một định mệnh.
Nguyên nhân:
Huyết áp cao có thể là một bệnh cũng có thể là triệu chứng do nhiều căn bệnh khác nhau gây ra. Có khoản 80% bệnh nhân bị huyết áp cao không tìm thấy nguyên nhân. Tại Hoa Kỳ, huyết áp cao làm ảnh hưởng đến lớp tuổi trung niên hoặc lão niên từ 15 – 20%.
- Do di truyền, lịch sử gia đình đã có người mắc bệnh
- Chủng tộc, phổ biến nhất là sắc dân da đen
- Do căng thẳng tinh thần (stress), lo âu, sợ hãi, nhạy cảm.
- Béo phì (obesity).
- Tiêu thụ quá nhiều mỡ bão hòa (saturated fats) hay muối sodium
- Hút thuốc lá
- Tuổi già, ít vận động (sedentary lifestyle).
- Rối loạn chức năng trung khu thần kinh ảnh hưởng đến vận mạch hoặc do hệ tiêu hóa động mạch co thắt (arteriolar vasoconstriction).
- Do xơ cứng động mạch (arteriosclerosis), thể tích máu tăng, tốc độ cơ tim (cardiac rate) nhanh, thể tích tâm thu (stroke volume) lớn.
Điểm cần lưu ý:
- Ở những người cao tuổi, huyết áp cao tâm thu (systolic hypertension) có mức nguy hại bằng hoặc nặng hơn đoạn cao tâm trương (diastolic elevations) và dễ dẫn tới nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (myocardital infarction – MI).
- Riêng huyết áp cao thứ phát (secondary hypertension) có thể do hậu quả từ bệnh mạch thận (renovascular), u tế bào ưa crôm (pheochromocytoma). Tăng aldosteron (hyperaldosteronism), hội chứng Cushing (Cushing’s syndrome – là sự rối loạn do gia tăng quá mức cortisol), tuyến giáp trạng (thyroid), tuyến yên (pituitary grand), loạn chức năng tuyến cận giáp (parathyroid dysfunction) hoặc do hẹp động mạch chủ (coarctation of the aorta), do mang thai (pregnancy), rối loạn về hệ thần kinh (neurologic disorders), do uống thuốc ngừa thai (oral contraceptives) và nhiều loại thuốc khác như cocaine, epoetin alfa, cyclosporine…
Dấu hiệu và triệu chứng:
Huyết áp cao thường không biểu lộ những dấu hiệu cụ thể cho đến khi xảy ra tình trạng mạch máu trong tim, trong não hay trong thận thay đổi. Huyết áp tăng cao làm hư hỏng nội mạc mạch (intima) tạo chất fibrin tích lũy bên trong các mạch máu nhỏ, phát triển thành phù (edema) cục bộ và có thể làm nghẽn mạch do sự đóng khối của fibrin. Dưới đây là một vài triệu chứng điển hình:
- Liên hệ với não (brain): Tai biến mạch máu não (cerebrovascular accident – CVA) gồm những dạng như xuất huyết não, nhũn não (encephalomalacia), phù não (cerebral edema).
- Liên hệ tới mắt (eyes): phù nề võng mạc (retina), xuất huyết võng mạc, phù gai mắt (papilledema) dẫn đến mù lòa (blindness).
- Liên hệ tới tim (heart): Bị nhồi máu cơ tim (myocardial infarction), chụp phim X-ray thấy tim trái to, quai động mạch chủ giãn rộng. Nghe tim, có tiếng thổi tâm thu, phù phổi (pulmonary edema).
- Liên hệ tới thận (kidneys): Hiện tương protein - niệu (proteinuria), phù thận (renal edema) và cuối cùng là suy thận (renal failure).
- Váng đầu (chiếm tỷ lệ cao nhất), tim hồi hộp (tỷ lệ khá cao).
- Đau đầu, ù tai, chóng mặt, mờ mắt, mất ngủ, tay chân tê rần.
- Mặt nóng bừng từng cơn, cứng gáy, đau 2 bên thái dương, dễ cáu gắt.
Chẩn đoán:
- Được xác định bị huyết áp cao là khi đo huyết áp thấy chỉ số cao hơn 140/99mmHg mà tuổi dưới 50 và cao hơn 150/95mmHg cho những người trên 50 tuổi.
- Khi thính chẩn, tức nghe bệnh, phát hiện thêm tiếng dội (bruits) của động mạch chủ bụng (abdominal aorta) hay động mạch cảnh (carotid arteries), động mạch đùi (femoral arteries).
- Khi soi đáy mắt (ophthalmoscopy), lộ ra hình ảnh động – tĩnh mạch võng mạc có dấu hiệu co thắt (arteriovenous nicking) trong những trường hợp bị bệnh não tăng huyết áp (hypertensive encephalopathy) hay phù gai thị (papilledema).
- Khi ván chẩn, tức hỏi bệnh, tiền sử của bệnh nhân cộng thêm kết quả cuộc khảo sát về y khoa có thể là những nhân tố đưa tới kết luận một cách cơ bản về huyết áp cao.
- Muốn biết thận có bệnh hay không, nhờ các xét nghiệm:
- Xét nghiệm nước tiểu (urinalysis): Thấy sự hiện diện của chất đạm (protein), tế bào hồng huyết cầu (red blood cells) và tế bào bạch huyết cầu (white blood cells) như là biểu thị của chứng viêm thận tiểu cầu (glomerulonephritis).
Chụp X-ray đường niệu tiêm tính mạch (excretory urography): Teo thận (renal atrophy) là chỉ dấu bệnh thận mãn tính. Một quả thận nhỏ nhất thường phải to hơn 1.5cm (tương đương với 5/8”), nếu nhỏ hơn là bị bệnh thận.
Đo lường Serum potassium: Nếu mức serum potassium ít hơn 3.5mEq/L là dấu hiệu loạn chức năng tuyến thượng thận (adrenal dysfunction).
Xét nghiệm mức urea nitrogen trong máu (blood urea nitrogen – BUN) và huyết thanh creatinine (blood serum creatinine): Nếu mức BUN bình thường hoặc tăng cao hơn 20mg/dl, chứng tỏ bị bệnh thận. Nếu mức serum creatinine bình thường hoặc cao hơn 1.5mg/dl, cũng chỉ dấu bị bệnh thận.
- Muốn biết tim mạch có hư hại và bị những biến chứng khác hay không căn cứ vào một số kiểm chứng sau đây:
Tâm điện ký (electrocardiography test): Cho thấy phì đại tâm thất trái (left ventricular hypertrophy) hoặc thiếu máu cục bộ (ischemia).
Chụp X-ray ngực: Thấy tim to (cardiomegaly).
Siêu âm tâm ký (echocardiography): Thấy phì đại tâm thất trái, kết quả giống như kiểm tra bằng pháp tâm điện ký.
Chụp X-ray động mạch thận: Thấy hẹp động mạch thận (renal artery stenosis).
Điều trị:
1. Theo Y Học hiện đại:
Y học hiện đại chia huyết áp cao thành 2 thể.
- Huyết áp cao thông thường (thể hoãn)
- Huyết áp cao ác tính (tăng đột ngột, biến chứng trầm trọng
Theo Tổ Chức Y Tế Thế giới (World Health Organization – WHO – OMS), huyết áp cao được phân chia làm 3 thời kỳ:
- Thời kỳ thứ 1:Huyết áp cao nhưng chưa ảnh hưởng đến tim
-Thời kỳ thứ 2: Huyết áp cao có ảnh hưởng đến tim (như tâm thất trái to, suy tim, động mạch đáy mắt hẹp, protein niệu) nhưng chưa gây tổn thương đến các cơ quan khác.
- Thời kỳ thứ 3:Huyết áp cao, ngoài việc gây hư hại tim, còn ảnh hưởng đến cả não, thận (như não cao huyết áp, suy thận, xuất huyết đáy mắt).
Trọng tâm trị bệnh thường nhắm vào dạng huyết áp cao thứ phát (secondary hypertension), tức là xác định được gốc bệnh, căn bản là làm sao kiểm soát được những tác động gây tăng huyết áp. Có 4 bước cần tiến hành.
- Bước 1:Giúp cho bệnh nhân huyết áp cao sửa đổi và làm quen với cách sống hữu ích, gồm có: Giảm cân, tiết chế uống rượu, siêng năng tập thể dục, giảm tối đa ăn muối và ngưng hẳn hút thuốc lá.
- Bước 2:Nếu bệnh nhân thực hiện bước 1 có kết quả, tiếp tục cải tiến cuộc sống và bắt đầu dừng thuốc để trị bệnh, gọi là y niệu pháp (drug therapy). Thuốc trị huyết áp cao gồm có: Thuốc lợi tiểu (diuretics) và thuốc chẹn giao cảm bê – ta (beta blockers) nhằm 2 tác dụng chính: Giảm bớt tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và tỷ lệ tử vong. Trường hợp thuốc lợi tiểu và thuốc chẹn bê – ta vô hiệu hoặc không được ưa chuộng. Bác sĩ có thể cho dùng loại enzymechuyển hóa angioist (angiotensin converting enzyme inhibitors – ACE inhibitors) như calcium antagonists, alphal – receptor antagonists, hay alpha – và beta –adenergic antagonists. Các thứ thuốc nầy mặc dù có tác dụng làm hạ huyết áp nhưng tác nhân gây bệnh và tử suất có giảm hay không thì chưa được chứng minh:
- Bước 3: Nếu thực hiện bước 2 có hiệu quả, tăng liều lượng thuốc lên thay thế bằng 1 loại khác cùng nhóm hoặc thêm 1 loại thuốc khác cùng nhóm. Tuy nhiên, điều này dễ dẫn tới một số phản ứng phụ (side effects).
- Bước 4:Nếu thực hiện bước 3 có kết quả, thêm 1 loại thuốc thứ hai hoặc thứ ba hoặc 1 loại thuốc lợi tiểu. Thuốc thứ hai hoặc thứ ba bao gồm các loại thuốc gây giãn mạch (vasodilators).
2. Theo Đông Y Học:
Trong y văn cổ truyền không có từ ngữ “Huyết áp” hay bệnh “Huyết áp cao”. Căn cứ vào mạch và triệu chứng, các thầy thuốc y học cổ truyền xếp bệnh huyết áp cao vào các thể bệnh: Can dương vượng, Can thận âm hư, Đàm thấp, Trúng phong…
Sau đây là những phương pháp trị bệnh huyết áp cao bằng Đông dược và dược thảo thiên nhiên có kết quả:
a) Dược thảo đơn giản
Thường xuyên dùng ớt cayenne, cúc la – mã (chamomile), rau thìa là (fennel), sơn tra (hawthorn berries), rau mùi tây (parsley), hương thảo (rosemary), củ hành tây (onion), tỏi tươi (garlic) rất có tác dụng với bệnh cao máu.
- Thường xuyên dùng thực phẩm có chất xơ (fiber) như cám lúa mạch (oat bran) và rau quả tươi, như táo (apples), măng tây (asparagus), chuối, cải bông xanh (broccoli), cải bắp (cabbage), dưa vàng (cantaloupe), bưởi (grapefruit), đậu Hòa Lan (peas), mận (prunes), bí (squash), khoai tây ngọt và các loại rau có màu xanh đậm
- Dùng máy xay đặc biệt (không gia thêm nước lọc) xay lấy nước cốt các loại rau quả tươi theo công thức sau đây:
Nước cốt cà rốt (carrot) 6 ounces
Nước cốt rau cần tay (celery) 4 ounces
Nướt cốt dưa hấu (watermelon) 3 ounces
Nước cốt rau mùi tây (parsley) 2 ounces
Nước rau mồng tơi Mỹ (spinach) 2 ounces
Nước cốt quả bưởi (grapefruit) 2 ounces
Nước cốt cam tươi (fresh orange) 2 ounces
Nước cốt củ dền đỏ (beet) 1 ounces
Tổng cộng 22 ounces. Xay xong uống ngay vào sáng sớm lúc bụng đói, ít nhất 1 giờ sau mới ăn. Ngày uống 1 lần, liên tục 1 tháng. Phương pháp nầy vừa tẩy rửa chất độc, làm tươi tỉnh tế bào, vừa giảm huyết áp một cách an toàn.
- Nếu không có máy xay đặc biệt, có thể dùng loại máy hiệu Vita – Mix. Trước khi xay, cắt nhỏ rau quả theo công thức sau đây bỏ vào máy và xay trong vòng 2 phút 30 giây hoặc đến khi rau quả nát mịn như bột mới được;
¼ chén rau cần tây (celery)
½ tép tỏi tươi (garlic)
½ củ hành tây (onion)
¼ chén carrot
¼ chén nước nóng
1 muỗng canh nước cốt Kyolic Garlic
4 phần quả cà chua tươi.
Uống chầm chậm từng ngụm khi còn ấm
- Dùng thêm vitamin C, ngày 3 lần, mỗi lần 500 – 1.000mg
- Dùng thêm vitamin E, mỗi ngày 400 – 800 IU.
- Magnesium, ngày 800 – 1.200mg.
- Coenzyme Q10, ngày 2 – 3 lần, mỗi lần 50mg
- Hawthorn extract (chứa 10% chất Procyanidins hoặc là 1,8% vitexin – 4 – rhamnosides), ngày 3 lần, mỗi lần 100 – 250mg.
- Uống dầu lanh (flaxseed oil) ngày 1 muỗng canh.
- Tỏi viên, ngày 3 lần, mỗi lần 500mg
- Kiêng cũ đúng mức:
- Tránh dùng Ma hoàng (ephedra), Cam thảo (licorice), Sâm Cao Ly (Korean ginseng), Sâm Trung Quốc (Chinese ginseng), Sâm Hoa Kỳ (American ginseng) vì các loại dược thảo nầy có khuynh hướng làm tăng huyết áp.
Tránh ăn muối và các thực phẩm có pha trộn muối hoặc soda, sodium, Na, monosodium glutamate, baking soda, saccharin.
Tránh dùng rau quả đóng hộp (canned vegetables), nước giải khát đóng chai (soft drinhks), chất làm cho thịt mềm (meat tenderizers), Soy sauce.
Tránh dùng mỡ động vật (mỡ bò, mỡ heo, mỡ gà, mỡ cừu). Tất cả thịt heo muối xông khói (bacon), thịt bò, thịt heo, gan gà, nước canh thịt (bouillons), nước xốt (gravies), xúc xích (sausage). Chỉ có thể ăn cá và thịt nạt gà. Chọn thực phẩm chứa nhiều chất đạm (protein) có nguồn gốc thực vật như đậu tương (soy beans), đậu thận (kidney beans), cải bông xanh (brouts), tảo biển (seaweed) để thay thịt động vật.
Tránh ăn phó mát (cheeses), kèm chua (sour cream), sữa chua (yogurt), trái bơ (avocados), chocolate.
Tuyệt đối tránh uống bia, rượu mạnh, rượu vang (vine), cà phê, thuốc lá.
Nếu béo phì, nên giảm tối đa việc ăn thịt, đường, bột. Năng tập thể dục để giảm cân lượng.
Tránh căng thẳng thần kinh (stress), làm việc và ngủ nghỉ hợp lý.
b) Dược thảo tổng hợp:
- Bài 1: Do Can hỏa thịnh, dờm thấp ngăn trở.
Đan sâm 30g
Hạ khô thảo 30g
Đại giả thạch 30g (chà nhỏ)
Mã đâu linh 30g
Thích tật lê 15g
Hoài ngưu tất 15g
Mẫu đơn bì 15g
Cầu đằng 15g
Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 1 – 2 tháng.
- Kinh nghiệm lâm sàng:Bài số 1 thích hợp với bệnh huyết áp cao nguyên phát (không tìm thấy nguyên nhân) kéo dài, thuộc mọi kiểu, không chịu hạ.
Feroz Gulamali, 55 tuổi, đã được một bệnh viện chẩn đoán là huyết áp cao nguyên phát trên 5 năm, lại kèm theo viêm lóet dạ dày và thấp khớp. Do huyết áp 200/132mmHg, đầu váng, tai ù, nhìn không rõ, có cảm giác trống rỗng trong tim. Xem mạch tay trái thấy Trầm Tế mà Sác, mạch tay phải đi Hồng Đợi mà Sác. Cho uống 8 thang, huyếp áp hạ còn 180/120mmHg. Giữ nguyên công thức, cho uống thêm 6 thang nữa, huyết áp giảm xuống 140/90mmHg. Để củng cố tác dụng gốc ngọn đồng trị, bài số 1 được thay thế bằng bài thuốc sau đây.
Hạ khô thảo 180g
Đan sâm 90g
Tang diệp 90g
Hoàng kỳ 90g
Hắc chi ma 90g (mè đen)
Đương qui 60g
Hà thủ ô 60g
Hoài ngưu tất 45g
Cách làm:Cho thuốc vào một cái nồi, đổ nước ngập chừng 10cm, đem nấu với ngọn lửa nhỏ. Chiết lấy 2 chén nước thuốc. Lại đổ thêm nước thuốc chiết được cô thành cao đặc như mật ong, cất vào lọ dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 30g cao thuốc với nước ấm.
Phân tích:
- Trong phương thang có Đan sâm, tác dụng hoạt huyết khử ứ, thanh nhiệt trừ phiền, thí nghiệm trên loài vâth thật làm giãn mạch máu ngoại vi nên hạ được huyết áp.
- Hoài ngưu tất có khả năng tán ứ, chi thống, dẫn huyết đi xuống lại bổ ích can thận, nên làm giảm sung huyết não.
- Hạ khô thảo có tác dụng thanh can hóa, tán uất kết, lợi tiểu
- Mẫu đơn bì thanh nhiệt, lương huyết, tán ứ, hoạt chất gồm có phenol và glucose, có tác dụng hạ áp rõ rệt.
- Mã đầu linh có tác dụng thanh can hạ hỏa khí, giúp cải thiện triệu chứng
- Câu dằng bình can thanh nhiệt, tức phong chỉ kinh, có tác dụng hạ áp và trấn tĩnh.
- Thích tật lê khai uất, tán kết ở can kinh, là thuốc chủ yếu để khu phong minh mục.
- Đại giả thạch, loại đá có tính hàn lương, dùng khống chế can dương quá thịnh khiến cho đầu váng, mắt hoa, tai ù, ngực bức bối. Tóm lại, bài thuốc đắc dụng về huyết áp cao.
Bài 2: Do Phong đàm thượng nghịch
Tuyền phục hoa 15g
Minh thiên ma 15g
Chế nam tinh 10g
Thủy ngưu giác 20g
Trân châu mẫu 20g
Toàn qua lâu 15g
Đại giả thạch 30g
Chế bán hạ 10g
Thạch quyết minh 40g
Câu đằng 15g
Ngô công (rết) 03 con (bỏ đầu, chân)
Ngưu tất 15g
Toàn yếu (bò cạp) 05g
Sắc uống ngày 1 thang
Kinh nghiệm lâm sàng:Lê Hòa Bảo 52 tuổi, có chứng cao máu trên 3 năm, thường đau đầu, mất ngủ, hoa mắt, tê dại tay chân. Đã dùng thuốc tây Reserpin nhưng không kiến hiệu. Đo huyết áp 190/110mmHg. Chiếu điện thấy tâm thất phải to. Khám thấy động mạch võng mạc đáy mắt xơ hóa. Cho uống bài số 2 tổng cộng 18 thang, huyết áp hạ còn 140/95mmHg, các triệu chứng hoàn toàn biến mất. Bài thuốc trên bỏ Thiên ma, Nam tinh, Ngô
công, Toàn yết, gia thêm Bắc sa sâm 15g, Đương qui 30g; cho uống tiếp 6 thang nữa. Lần này huyết áp hạ xuống còn 138/85mmHg. Ngưng thuốc và ngưng điều trị. Hai tháng sau kiểm tra lại thấy vẫn ổn định huyết áp không tăng.
Bài 3: Do Can Thận âm hư, can dương thượng nghịch
Thảo quyết minh 24g
Câu kỷ tử 12g
Thỏ ty tử 12g
Nữ trinh tử 15g
Kim anh tử 10g
Sa uyển tử 12g
Tang thầm tử 12g
Huyền sâm 12g
Mạch môn 10g
Ngưu tất 10g
Câu đằng 10g
Cam cúc hoa 10g
Sinh mẫu lệ 15g
Bạch thược (sao rượu) 12g
Tang ký sinh 25g
Hạ khô thảo 15g
Xuyên đỗ trọng 12g
Thục địa 25g
Cao qui bản 10g
Sắc uống ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng:Phương này tổng hợp từ 3 bài trị huyết áp cao gồm “Gia vị ích âm tiềm dương thang”, “Trấn can tức phong thang” và “Thất tử thang” mà thành. Đã trị 39 ca tăng huyết áp kiểu Can - Thận âm hư, đạt tỷ lệ 95%. Các triệu chứng đau đầu, váng đầu, tim hồi hộp, mất ngủ, tay chân tê
dại đều được cải thiện; trong đó Thảo quyết minh có tác dụng hạ áp. Kim anh tử giảm cholesterol huyết, Câu kỷ tử giảm lipid đọng ở tế bào gan.
Bài 4: Do Đàm thấp
Thể bệnh nầy thường thấy ở những người to béo, đi đứng nặng nề, dễ mệt, ngực sườn đầy tức, hay lợm giọng buồn nôn, ăn ít, ngủ kém, khạc nhổ đàm luôn miệng, rêu lưỡi trắng nhầy, miệng nhạt, mạch đi huyết hoạt. Khi đàm thấp hóa hỏa thì ngủ hay gật mình, ngực sườn căng tức, mạch đi hoạt sác.
Chế bán hạ 08g
Hạ khô thảo 12g
Trần bì 06g
Tỳ giải 12g
Trúc nhự 08g
Bạch mao căn 12g
Thảo quyết minh 12g
Ngưu tất 12g
Hòe hoa 12g
Phục linh 08g
Cam thảo 06g
Bạch truật (sao) 12g
Câu đằng 15g
Tang ký sinh 16g
Thiên ma 16g
Ý dĩ nhân 16g
Bạch thược 12g
Bắc sài hồ 06g
Chi tử 04g
Xích thược 12g
Đan sâm 12g
Sơn tra 12g
Xuyên khung 06g
Thủy diệt (con đỉa) 03g (sao chín)
Sắc uống ngày 1 thang
Bài 5: Do âm dương lưỡng hư
Thể nầy thường gặp ở những người cao tuổi và phụ nữ sau khi tắt kinh
Triệu chứng:Đau đầu, chóng mặt, mắt mờ, ù tai, bồn chồn khó ngủ, nóng bùng mặt lên, lưng đau, hai chân lạnh, tê mỏi, tiểu đêm nhiều lần mạch xích đi nhược, mạch thốn và quan đi trầm huyền hoặc trầm tế mà sác.
Tiên mao 12g
Dâm dương hoắc 12g
Sinh Hoàng kỳ 20g
Đương qui 12g
Ba kích nhục 10g
Lộc giác giao 08g (hòa với nước thuốc)
Xuyên đỗ trọng 12g
Qui bản 12g
Thục địa 20g
Sinh Mẫu lệ 20g
Gia giảm:Phụ nữ bị huyết áp cao trong thời kỳ mãn kinh, gia thêm Tri mẫu 12g, Hoàng bá 12g, Ngưu tất 12g
Sắc uống ngày 1 thang
Bài 6: Do khí suy huyết ứ
Thể bệnh nầy thường là hậu quả của bệnh huyết áp cao gây biến chứng suy tim
Triệu chứng:Mệt mỏi, khó thở, hồi hộp, khó ngủ, biếng ăn, tiểu ít, các đầu móng tay tím ngắt, môi lưỡi tím, mạch đi trầm - tế - sáp - nhược.
Pháp trị:Bổ khí, hoạt huyết, dưỡng tâm, an thần
Sinh Hoàng kỳ 40g
Nhân sâm (sắc riêng) 08g
Bạch thược (sao) 20g
Đương qui 12g
Xích thược 12g
Xuyên khung 08g
Đào nhân 08g
Trạch tả 12g
Cát căn 12g
Tang ký sinh 12g
Mẫu đơn bì 12g
Phục thần 12g
Xuyên ngưu tất 12g
Trân châu mẫu 20g
Chích cam thảo 04g
Sắc uống ngày 1 thang
Bài 7: Do Tâm – Can - Thận hư hại
Thể bệnh này thường là hậu quả của bệnh huyết áp cao gây bệnh chứng suy tim, suy thận và suy gan.
Pháp trị:Dưỡng tâm, ích thận, bổ gan.
Bạch truật (sao) 100g
Đương qui 30g
Sinh sơn tra 30g
Thảo quyết minh 30g
Trạch tả 30g
Chế Hoàng tinh 30g
Xuyên khung 15g
Đan sâm 15g
Sung úy tử 12g
Hà thủ ô (chế) 20g
Uất kim 158g
Bạc hà diệp 15g
Cát căn 25g
Hạn liên thảo 50g
Cách làm: Trước hết, điều chế vị Hà thủ ô như sau: Dùng 20g Nữ trinh tử, tẩm dầu mè 1 ngày rồi sao chín, sau đó cho vào nồi nấu với 1 lít nước, chờ cạn gạn lấy nửa chén nước cốt tẩm với Hà thủ ô cho ướt đều rồi sấy khô. Tiếp theo, đem tất cả bài thuốc xay thành bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g
Liều dùng:Ngày 2 lần, mỗi lần nhai nuốt 1 hoàn với nước chín
Kinh nghiệm lâm sàng:Tony Bowman 57 tuổi, bị huyết áp cao 3 năm, tim hồi hộp, vùng trước tim đau thắt như nén chặt, khi làm việc căng thẳng thần kinh thì đâu nhiều, hoa mắt, đau đầu, ban đêm trằn trọc khó ngủ. Đo huyết áp 150/100 – 120mmHg. Chẩn bệnh trên tâm điện ký thấy biến đổi thiếu máu cục bộ ST – T, xét nghiệm máu thấy Cholesterol toàn phần ở mức 400mg/%, beta lipoprotein 850mg/%. Chiếu điện phổi thấy động mạch chủ nổi rõ, hình ảnh tim to và đầy.
Cho uống bài số 7 liền 2 tháng, các triệu chứng giảm nhẹ, đo huyết áp còn 130/75 – 80mmHg, cholesterol hạ còn 230mg/%, beta lipoprotein còn 400mg/%. Cho uống tiếp đợt hai, căn bản sức khỏe ổn định.
Bài số 8: Do uất nhiệt ứ trệ, can dương thượng nghịch
Pháp trị:Hành ứ thông trệ, khứ thấp lợi thủy, hoạt huyết thanh huyết.
Bại tương thảo 30g
Hồng đằng 30g
Ý dĩ nhân 30g
Đào nhân 12g
Ty qua lạc 08g
Tây thảo căn 15g
Bắc Tử thảo 15g
Đậu quyển 30g
Đạm trúc diệp 10g
Đông qua nhân 25g
Bạch vi 30g
Thông thảo 10g
Sắc uống ngày 1 thang
Kinh nghiệm lâm sàng:Trần bá Ngộ 77 tuổi, bị huyết áp cao trên 10 năm, còn thêm chức xơ cứng động mạch, hen suyễn kinh niênm nằm liệt giường, không thiết ăn uống, mặt và chân đều thũng trướng, tiểu ít, rêu lưỡi vàng xám, mạch di huyền. Chẩn đoán cả 2 kinh tâm tỳ dương đều bị huyết ứ làm tắc nghẽn không thể hành khí hóa thủy được. Hơn nữa, tà của thủy thấp không hóa được chuyển vào phế làm khí nghịch sinh hen suyễn.
Cho dùng toa số 8, uống 3 thang nội nhiệt giảm, tới 5 thang hết hen suyễn, 12 thang xẹp phù cả mặt và chân, ngồi dậy ăn uống được. Liền bỏ Ty qua lạc, gia thêm Huyết dụ (sao đen) 10g, Trạch lan 12g, Sung úy tử 12g, Thiên trúc hoàng 8g. Cho uống tiếp 10 thang nữa, bệnh khỏi.
Nhận xét:Bài thuốc có 2 vị Bại tương thảo và Hồng đằng chuyên trị uất hỏa, hành ứ, tiêu viêm nhờ tính hàn, vị tân (cay); Tây thảo căn hoạt huyết; Bắc Tử thảo tính hơi hàn thanh huyết nhiệt; Đào nhân tân nhuận thông ứ huyết; Ty qua lạc thông khí kinh lạc; Ý dĩ nhân; Đậu quyển; Đông qua nhân khứ thấp hành thủy; Đạm trúc diệp giáng tâm dương, lợi thủy, trừ phiền.
Bài số 8 còn có tên là “Bại tương thang”, trục ứ mà không làm hại huyết, tiêu viêm mà không di hại đến vị, tính bình hòa lại rẻ tiền. Ứng dụng trên 30 năm thấy có kết quả rất tốt.
- Nếu trị bệnh động mạch vành và gia thêm Mẫu đơn bì 15g.
- Nếu chỉ trị huyết áp cao thì gia thêm Hạn liên thảo 25g, Can Địa long (chế) 15g, khử bỏ Đào nhân.
- Nếu điều trị xơ cứng động mạch thì gia thêm Diên hồ sách 15g, Một được 15g, khử bỏ Đạm trúc diệp.
- Nếu bị bệnh tim do Phong thấp thì gia thêm Bạch chỉ 10g, Phòng phong 12g, khử bỏ Đạm trúc diệp. Nếu bị loét dạ dày thì gia thêm Đương qui 10g, Bạch chỉ 10g, Mẫu đơn bì 10g.
7. HUYẾT ÁP THẤP (Hypotension)
Huyết áp thấp là một thuật ngữ y học mô tả tình trạng áp suất máu thấp hơn mức trung bình, nói chính xác là khi lưu lượng máu bơm lên não bị giảm sút và gây ra hiện tượng chóng mặt hay hoa mắt (dizziness) hoặc hôn mê bất tỉnh (fainting).
Được coi huyết áp thấp là khi nào trị số huyết áp tâm thu (lúc tim bơm máu ra) thấp hơn 90mmHg và huyết áp tâm trương (lúc tim giãn rộng) thấp hơn 600mmHg. Một đặc điểm nữa là trị số mạch đập của tim thường thấp hơn 20mmHg.
Phần lớn huyết áp thấp do rối loạn chức năng vỏ não thuộc trung khu thần kinh vận mạch. Tuy nhiên, nhiều người khỏe mạnh, tim và mạch máu bình thường lại có huyết áp thấp so với tuổi tác.
Triệu chứng:
Huyết áp thấp được chia thành 2 dạng:
a. Huyết áp thấp triệu chứng.
-Do hậu quả của bệnh suy tim, loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim.
- Do xuất huyết cấp tĩnh trong trường hợp bị thương mất nhiều máu, ói máu.
- Do thiếu máu mãn tính như đau lâu kiệt sức, biếng ăn, suy dinh dưỡng.
- Cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt, hoa mắt, luôn buồn ngủ, hồi hộp, khó thở
- Người cao tuổi thấy đau đầu, tức ngực, giảm trí nhớ, nặng có thể hôn mê.
b. Huyết áp thấp tư thế:
- Do thay đổi tư thế đột ngột, như đang nằm bỗng ngồi dậy hay đứng lên vội vã khiến huyết áp tụt nhanh, thường gặp ở những người cao tuổi và bị suy nhược lâu ngày.
- Do hậu quả của bệnh Addison, một bệnh suy năng võ tuyến nang thượng thận (cortex of the adrenal gland) dẫn đến hậu quả thiếu nội tiết tố vỏ thượng thận (deficiency of adrenocortical hormones) và làm xáo trộn sự quân bình về glucose và chất khoáng (minerals) trong cơ thể. Triệu chứng tấn công lúc ban đầu thường âm thầm và chậm như cảm giác yếu đuối, đặc biệt là chán ăn (anorexia), mệt nhọc, tăng nhiễm sắc tố (pigmentation), sụt cân và giảm sức chịu lạnh.
- Do thiểu năng tuyến giáp, bệnh thần kinh do tiểu đường hoặc bệnh rỗng tủy sống (syrigomyelia)
- Dùng dược phẩm trị bệnh, như Reserpine trong bệnh huyết áp cao và rối loạn thần kinh.
Tóm tắt, qua lâm sàng, bất kỳ huyết áp thấp dạng não cũng đều làm cho bệnh nhân cảm thấy hoa mắt, chóng mặt, nặng đầu, mặt trắng bệch, chân tay lạnh, vã mồ hôi buồn nôn mối khi đứng lâu, ngồi dậy hay đứng lên đột ngột. Lý do: Huyết áp tụt xuống quá nhanh. Trường hợp nặng có thể gậy hôn mê, đột quỵ và mất luôn khả năng vận động.
Điều trị theo Đông Y Học.
Y học cổ truyền xếp huyết áp thấp vào thể lọai “Hư chứng”. Hư chứng bao gồm khí hư, huyết hư, khí huyết lưỡng hư, can huyết hư, tâm thận dương hư, khí âm lưỡng hư…Mỗi thể loại đều có phương dược riêng. Trong phạm vi bài nầy, xin giới thiệu một số phương thang điều trị có kết quả.
Bài 1: Do Khí âm lương hư
Nhân sâm 10g
Mạch môn đông 15g
Ngũ vị tử 12g
Sinh địa 30g
Chích cam thảo 15g
Trần bì 15g
Chỉ xác 10g
A giao 15g (nấu chảy uống)
Hoàng kỳ 30g
Thạch xương bồ 10g
Sắc uống ngày 1 thang
Kinh nghiệm lâm sàng:Nguyễn Thị Nữ 49 tuổi, huyết áp luôn luôn thấp, thường ở khoảng 100 – 90/60 – 50mmHg. Cảm giác mệt nhọc, hoạt động mạnh hay trèo lên bậc thang thì thấy chóng mặt, đầu váng, tim đập hỗn loạn thở dốc. Một tháng nay bệnh càng nặng, 2 lần bị ngất. Khám mạch thấy đi tế - nhược, do huyết áp 85/56mmHg, tim đập 94 lần/ phút, cơ thể gầy, sắc mặt vàng nhạt, sức khỏe tương đối bình thường. Cho dùng bài số 1, có tên là “Gia vị phù chính thăng áp thang” liên tục 3 thang, các chứng giảm rõ rệt, huyết áp tăng lên 96/70mmHg. Giữ nguyên công thức, cho uống thêm 9 thang nữa, các triệu chứng biến mất, huyết áp tăng lên 116/80mmHg.