LỜI KHUYÊN THÍCH ỨNG CHO CÁC THIỀN SINH (phần 2)

LỜI KHUYÊN THÍCH ỨNG CHO CÁC THIỀN SINH

(PRACTICAL ADVICE FOR MEDITATORS) The Wheel Publication No. 116 
Copyright of 1986 Buddhist Publication Society 
Bhikkhu Khantipalo - Dịch Việt : Mỹ Thanh 

(phần 2)

* Năng lượng và sự hoàn hảo của nó 
* Sự tập trung và sự hoàn hảo của nó 
* Những nguy hiểm đối với việc thiền định 
* Phụ lục : 40 bài thực tập thiền định 
* Ghi chú 

 

Tinh tấn (viriya-parami) và sự hoàn hảo của nó

Sự tỉnh thức chỉ được nhận diện khi một người có kiên nhẫn, vì sự kiên nhẫn không thể có được nếu không có sự cố gắng. Giáo pháp không bao giờ khuyến khích học thuyết định mệnh, và người Phật tử chân chánh không bao giờ nghĩ rằng các việc xảy ra là được quyết định trước một cách cứng ngắt. 

Bằng chính niệm và tinh tấn, ta có thể chiến đấu được với thuyết định mệnh. Sự hoàn hảo nầy là bản đối chiếu với cái trước đó, và được cân bằng do thực tập, những điều nầy bảo đảm rằng một Phật tử thành tâm, sẽ không thụ động chấp nhận phải chiến đấu hay gấp gáp giải quyết sự náo động của chính bản thân hay của kẻ khác, mà sẽ biết kiên nhẫn.  
Bằng cách cảnh giác, trong thế giới Phật giáo có rất nhiều "phương cách" hứa hẹn sự phong phú của giáo pháp. Người ta nghe những lời phê bình như "Cần gì phải học và đọc sách?" hoặc "Sự phát triển tỉnh lặng thật là mất thời giờ! Một người chỉ cần phát triển trí tuệ".  
Những quan điểm lệch về một phía không thể hiện được trí tuệ mà đức Phật nói đến, đức Phật luôn dạy rằng phải cần thiết có sự phát triển cân bằng nơi tinh thần. Học tập và sách vở hữu dụng cho những người muốn biết rõ đức Phật đã nói những gì trước khi bắt đầu chuyên tâm thực tập.  
Một khẳng định khác là không có trí tuệ thật sự (chỉ là những ảo tưởng) xuất hiện đối với tâm thức của một người không có kinh nghiệm về tỉnh lặng. Những quan điểm lệch lạc như thế nầy thường dựa vào những kinh nghiệm khác thường của những "vị thầy" tạo ra chúng, điều nầy thường làm cho một số người bị lạc đường vì ham muốn những kết quả nhanh chóng, cộng thêm không thích sự khó nhọc mà ra.  
Cần phải có sự kiên nhẫn để chấp nhận những điều kiện cần thiết để đạt thành công trong thiền định (như được trình bày ở đây), và kết quả của sự thất bại chỉ vì đi sai đường.  
Thiền sinh phải áp dụng hết mình vào bất cứ công tác nào được giao phó, và phải hoàn thành công việc đó, không biết mệt mỏi để sẵn sàng bắt tay ngay vào một mục đích mới.

Nói về sự mệt mỏi, có tất cả là hai loại : một là vì cơ thể mệt nhoài; và hai là những yếu tố không khéo léo của biếng nhác và uể oải do tinh thần gây ra.

Trong khi loại mệt mỏi đầu tiên thì không thể tránh được, nhưng loại sau chỉ xuất hiện khi gốc rễ của si mê (hoặc ù lì) trở thành thống trị nơi phần tinh thần. Điều nầy xảy ra khi có một trạng thái như, cái nầy không thú vị đối với "tôi", không thích, không muốn và "tôi" muốn chạy trốn.  
Con người phàn nàn là họ càng lúc càng mệt mỏi khi ngồi thiền trong lúc thực tập cao độ còn hơn là lúc họ đọc những sách nặng nề. Khi cái ngã cảm thấy bị đe doạ bởi dự kiện tự bộc lộ mình, nó liền phóng ra một màn sương mù uể oải dầy đặc bắt nguồn từ si mê. Ngược lại, nhiều người thực tập thiền nhận thấy rằng họ không cần ngủ nhiều như lúc trước, trong khi năng lực trở nên tự nhiên và không cần sự cố gắng một khi được thực tập và trở nên hoàn hảo như vị Bồ tát.

Sự hoàn nảo nầy được miêu tả bằng câu chuyện của người dẫn đầu đoàn lữ hành, đã mạnh mẽ cứu sống những người thương buôn, và thú vật được gởi gắm cho ông. Trong lúc những người khác chịu thua và đầu hàng cái chết khi đoàn lữ hành lạc đường vào nơi sa mạc và thực phẩm không còn; người dẫn đầu đoàn lữ hành bắt buộc một người trong bọn đào đất và tìm được nước. Trong một tiền kiếp, chính đức Phật Gotama là người dẫn đầu đoàn lữ hành, cố gắng không phải chỉ vì mạng sống của riêng mình mà vì tất cả mọi người khác.  
Trong các đoạn kinh Pali các tăng sĩ cũng được nhắc nhở như là “người dẫn đầu đoàn lữ hành", cho thấy rằng chỉ có đức Phật hoặc một vị Bồ tát là có khả năng chỉ dẫn cho những người khác. Nếu chúng ta thực tập một cách hăng hái thì chúng ta cũng sẽ thấy hăng hái đối với sự tiến bộ của những người khác. Vô số mẫu chuyện như trên được tìm thấy trong các tác phẩm Phật giáo, cho thấy rằng năng lực rất là cần thiết, và từ năng lực nầy mà xuất hiện sự kiên trì và quyết tâm để nhận thấy được chân lý, thấy được Niết bàn. 
 

 

Sự tự chủ (samadhi-parami) và sự hoàn hảo của nó

Hãy ghi nhớ trong tâm chữ nầy và những ý nghĩa của nó với những chữ chuyên môn như (tâm thức-) phát triển (bhavana), định (jhana), thấu hiểu sâu sắc (vipassana), nhất tâm (ekaggata), thực tập thiền (kammatthana), bấy giờ chúng ta có thể khảo sát cái gì đã cấu tạo nên sự tự chủ hoàn toàn. Cái gì phân biệt được giữa một người Phật tử thuần thục dù cho vị nầy có là một vị Bồ tát hay không, và một người thiền sinh tầm thường (trong bất cứ một tôn giáo nào).  
Thường thì vị sau hay bám víu chặt chẽ vào những niềm vui trong những dục giới cao hơn, hoặc trong những niềm vui thanh tịnh của thế giới có hình thể, và kết quả là sự tái sinh ở một trong những cõi thiên giới nầy.  
Nếu một người để mình bị hạn chế ở phạm vi nầy, nơi mà những khoái lạc và niềm vui rất lớn và rất ít đau khổ, thì không chắc gì người nầy có thể tạo ra năng lượng cần thiết để đạt đến sự hoàn hảo của trí tuệ. 
Vì thế, một thiền sinh giỏi cố gắng thành thạo trong thiền định ( khi muốn vào thiền định thì vào, và thâm nhập vào đấy khi người nầy muốn), trong khi đó không để bị bám víu vào những trạng thái đó. Nhưng một người cũng cần nên ghi nhớ rằng đây chỉ là áp dụng cho thiền sinh kinh nghiệm đã đạt được những trạng thái định nói trên. Nếu một người chưa đạt được những trình độ nầy thì sự khát vọng mãnh liệt, không thờ ơ, sẽ là một thái độ đúng đắn.

Sau khi trải nghiệm qua những trạng thái định nầy, nó có thể được xem là vô thường, không thoả mãn và trống rỗng, không có cái ngã hay linh hồn (aniccam, dukkham, anatta), theo tiến trình, sự không tham đắm sẽ xuất hiện một cách tự nhiên và sự thấu hiểu sâu sắc (vipassana) cũng sẽ được kinh nghiệm qua. Và như vậy những trạng thái định (và năng lực có thể xuất hiện cùng lúc với chúng) nơi thực tập của Phật giáo, không bao giờ là sự kết thúc, mà nó chỉ được xem như một cách để trau dồi sự hiểu biết và trí tuệ sâu sắc. Sự kiện nầy xuất hiện khi tâm thức đã được hợp nhất với nhiệm vụ khảo sát tâm và thân để biết rõ những đặc điểm của nó.

Một câu chuyện nói lên ý nghĩa của sự hoàn hảo nầy là cuộc đời của Kuddalamuni. Tên của ông có nghĩa là người thông thái Cuốc Chim (Mattock), và ông được gọi như vậy vì nỗi khó khăn mà ông kinh nghiệm qua để thoát khỏi lòng tham đắm đối với cái cuốc chim của ông.  
Nhiều lần rời khỏi nhà để vào rừng tham thiền, ông bị cái cuốc chim và nghề nông lôi ông trở lại. Ngày nọ, sau khi suy nghĩ về tính không kiên định trong lúc hành thiền, ông cầm cái cuốc chim và xoay tít nó quanh đầu của mình, và cuối cùng quăng nó vào đáy sâu của sông Hằng (Ganges). Sau đó, ông bật lên tiếng kêu vui mừng.  
Một vương tước trong vùng đang đi ngang qua đấy với đội lính, cho người đến hỏi xem vì sao người nông dân nầy vui mừng quá đỗi như vậy, và nhà hiền triết nầy liền kể lại kinh nghiệm của mình. Vị vương tước và vài người lính liền theo nhà hiền triết thực tập thiền trong rừng; sau đó, theo chuyện kể, tất cả đều trải nghiệm một cuộc sống nơi thế giới có hình thể. 
Nhà hiền triết Cuốc Chim, không ai khác hơn là đức Phật Gotama trong một tiền kiếp, trình bày một khái niệm khác về sự hoàn hảo của thiền định : khả năng chỉ dẫn cho người khác thực tập thiền sau khi đã tự mình thành tựu. Cuối cùng chúng ta có thể cho thêm vài ghi chú ngắn về những nguy hiểm khi thực hành thiền. 
 

Những nguy hiểm trong lúc thực tập thiền

Trong khi thực tập thiền, một thiền sinh có thể bị lạc đường, vì có nhiều lý do. Những điều quan trọng sẽ được nêu ra đây để cảnh giác mỗi thiền sinh vì nó thường hay xảy ra.  
Trước hết, một nguy hiểm quan trọng là thiếu sự thúc đẩy đúng đắn trong việc thực hành thiền.  
Khi Bát Chánh Đạo được trình bày, phần "trí tuệ” đứng ngang hàng với (lần đầu) sự hiểu biết trí thức đúng đắn, kế đến là động cơ thúc đẩy chính đáng, và rồi nhấn mạnh về những gốc rễ khéo léo của cảm xúc làm nền tảng cho sự thực hành : Những gì có liên quan đến sự từ bỏ (không ham muốn), thiện chí (không ganh ghét) và không bạo động được nhắc đến.  
Nếu một người đến với thiền Phật giáo mà không có sự hiểu biết chính đáng về khổ (dukkha) và sự chấm dứt của đau khổ, thêm vào đó không có động cơ chính đáng, thì chắc chắn rằng sự thực tập thiền của người nầy sẽ dễ bị lạc lối.

Thí dụ, có những người thực hành thiền như là một cách để đầu tư quyền lực, họ có thể gây ảnh hưởng hoặc thôi miên các học trò. Những kẻ khác xem đây như là một cách nhanh chóng để có nhiều học trò và mau làm giàu.  
Để được nổi tiếng cũng là một động cơ không xứng đáng. Tất cả những điều nầy, như là những động cơ đùa giỡn với thiền định, có thể đưa đến bệnh hoạn cho kẻ không thận trọng, và đôi lúc đưa đến sự rối loạn tâm trí.

Trong thiền Phật giáo, không có gì tệ hơn một người cho rằng kinh nghiệm của mình là tột bực, và cho mình là một vị thầy trong khi kinh nghiệm thiền của họ còn non nớt. 
Ở đây cho thấy rõ ràng là điều nầy có thể đưa đến một nguy hiểm xa hơn nữa -- là lòng kiêu hãnh dưới nhiều hình thức. Sự kiêu hãnh của một người nhìn được ánh sáng trong lúc thiền định, và cho rằng đây là một dấu hiệu báo trước của sự nhập định.  
Kế đó, sự kiêu hãnh của kẻ vừa chạm đến trạng thái định dù chỉ là một khoảnh khắc, và tự cho rằng mình là Người Cao Quý, và đây là một yếu tố rất mạnh mẽ để tự thuyết phục, nếu như không thuyết phục được những kẻ khác.  
Những người tầm thường khi thực tập thiền có thể để ý đến những thái độ “thánh thiện hơn người khác” : “Tôi cố gắng, trong khi anh…”, hoặc “ Tôi thực tập thiền mỗi ngày, trong khi anh…".  
Sự kiêu hãnh là một chướng ngại rất lớn cho bất cứ sự tiến triển nào, và trong khi chỉ có đức Phật hoặc vị A-la-hán mới có thể dẹp bỏ nó, mọi người nên dè dặt, và luôn sử dụng chính niệm để kiểm soát nó.

Một nguy hiểm khác là người luôn tìm kiếm cái gọi là "tiến bộ". Người nầy tin chắc rằng mình đang "tiến bộ", vì khi thiền định họ thấy những ánh sáng, nghe những âm thanh, hoặc có những cảm giác kỳ lạ. Theo thời gian người nầy bị những thứ ấy quyến rũ, và dần dần quên rằng mình thực tập thiền là ước vọng tìm con đường giác ngộ. Sự “thiền định” của người nầy trở nên thoái hoá, nghiêng về những ảo mộng và biến cố kỳ lạ, đưa kẻ nầy vào thế giới của huyền bí và ma thuật.  
Con đường nầy là con đường đưa thiền sinh vào những vướng mắc. Những hiện tượng nầy dù có hấp dẫn cách mấy đi chăng nữa, thiền sinh phải mạnh mẽ dẹp bỏ nó bằng cách chỉ chú tâm, không để cho các ý nghĩ rời rạc chú ý đến nó, và như vậy sẽ tránh được những xao lãng vô bổ.

Ngoài những "ảo mộng" mà một thiền sinh có thể thấy, cho dù nó ở trong (được tạo ra bởi tâm thức của một người) hay ở ngoài (được tạo ra bởi những sinh vật bên ngoài), đối với vài thiền sinh, họ cũng trải qua một kinh nghiệm sợ hãi như thấy được thân thể bị tan hoại chỉ còn xương hoặc bị phình ra như một xác chết. Nếu một kinh nghiệm như thế nầy xảy ra, hoặc những kinh nghiệm khác tương tự như thế, một người cần thu hồi lập tức cái thấy của mình khỏi ảo giác nầy, nếu như một người không có thầy hướng dẫn.  
Những ảo giác đáng sợ như thế nầy chỉ có thể được sử dụng một cách chính đáng và lợi ích, nhưng nếu không có sự chỉ dẫn của một vị thầy thì thiền sinh nên tránh đi là hơn.

Một nguy hiểm khác nữa là cố gắng thực tập thiền trong khi tâm thần đang bị dao động bởi những cảm xúc, tâm lý mất thăng bằng và chưa chín chắn.  
Sự hiểu biết về giá trị của những việc làm phước thiện hoặc tạo công đức rất hữu dụng trong lúc nầy. Công đức để thanh tịnh tinh thần, đây là một nền tảng rất tốt cho sự phát triển tinh thần, và sẽ làm cho việc nhập định được dễ dàng, và như vậy sự hiểu biết sâu sắc sẽ xuất hiện dựa vào công đức đã gieo.  
Những việc làm công đức có thể được tìm thấy trong cuộc sống như : bố thí với lòng rộng lượng, giữ gìn những giới cấm, giúp đỡ và phục vụ những người khác, kính trọng, và hết lòng nghe giảng pháp (Dhamma), thiết lập sự hiểu biết chính đáng về pháp -- tất cả những điều nầy là việc làm công đức, đem đến hạnh phúc, và những cảm xúc chính chắn.  
Một người nên luôn nhớ rằng vông đức mở tất cả các cánh cửa ở mọi nơi. Công đức có thể làm được, mang đến nhiều cơ hội.  
Hãy để tâm thức luôn nghĩ về các việc công đức, là sửa soạn cho tâm thức có thể thực hành thiền và phát triển sự nhập định cũng như đạt được trí tuệ.

Nếu một người thực tập thiền mà vẫn nắm giữ những tham đắm của mình, những gì mình thích cũng như ghét, rõ ràng là làm cho con đường trở nên khó khăn hơn nếu không muốn nói là nguy hiểm.  
Thiền định ngụ ý là từ bỏ, và không có một thực tập nào có thể thành công nếu một người không sửa soạn ít nhất là việc cố gắng giảm bớt tham lam và sân hận, canh chừng nỗi ham muốn nhục dục, và nhận diện được sự si mê khi nó xuất hiện và làm mờ tâm trí.  
Một người chấp nhận từ bỏ cho tới lúc có những thay đổi bên ngoài (chẳng hạn như trở thành một vị tăng hay ni), cũng còn tuỳ thuộc vào cá nhân và hoàn cảnh xung quanh, nhưng chắc chắn một điều là : sự từ bỏ từ bên trong, một điều khá quan trọng, đó là thái độ từ bỏ đối với những dự kiện không tốt của tinh thần cũng như sự buông lung dục lạc .

Một mối nguy hiểm khác cũng thường liên quan đến những nguy hiểm kể trên, có một người tự dưng có cơ hội để thực tập thiền định trong một thời gian dài hạn. Người nầy ngồi xuống với quyết tâm là, "Bây giờ tôi sẽ thiền", dù cho người nầy có một năng lực rất mạnh và họ ngồi và ngồi, và đi và đi, nhưng tâm thần thì xáo trộn và không được an bình. Có thể là vì họ cố gắng quá do đó bị xáo trộn. Hơn nữa, người nầy nên hiểu rằng khi thiền cần biết đến giới hạn của chính bản tánh mình. Cũng giống như bất cứ người công nhân nào biết được giới hạn của sức lực mình và cẩn thận không để mình bị mất sức. Với chính niệm một người cần biết đâu là cực độ của lười biếng, căng thẳng để mà tránh.

Sự cố gắng quá độ hoặc thực tập quá mức sẽ tạo nên những trạng thái xáo trộn về mặt cảm xúc. Sự tức giận bất chợt, hoặc kéo dài, thêm vào những việc nhỏ nhặt, những ham muốn nhục dục mãnh liệt, những ảo giác kỳ lạ và những hình ảnh tưởng tượng quái dị có thể xuất hiện từ sự thực tập gay go nhưng thiếu sáng suốt.

Với những nguy hiểm nầy chỉ có một vị thầy kinh nghiệm mới có thể cho được lời khuyên thích ứng, và như thế tránh được những nguy hiểm nói trên và những đổi hướng sai lệch, và một người có thể tiếp tục thẳng tiến tới con đường Niết bàn.  
Những người nào không có thầy cần tiến bước một cách cẩn trọng, và cẩn thận kiểm soát sự phát triển của mình với chính niệm. Nếu người nầy để ý với chánh niệm và thấy rằng dù cho cố gắng với sự thực tập thiền, họ vẫn không thay đổi được gì cho cuộc sống hiện tại của họ, họ không có được sự an bình nội tại hoặc đối với những người chung quanh, họ cũng không có sự liên hệ tốt đẹp hơn, như vậy có nghĩa là có gì không ổn.  
Vì thế nên ngưng tập thiền trong một thời gian, và trong lúc nầy nên tìm những tài liệu xác thực, tốt nhất là gặp một vị thiền sư có kinh nghiệm, và nên để ý đến những vấn đề đạo đức chưa được hoá giải, nếu không thì tâm thức khó lòng mà phát triển được; và nên cố gắng sống đời sống giới hạnh căn bản của người Phật tử. Con đường thực tập của Trung Đạo sẽ không có tiến triển nếu một người xao lãng những vấn đề căn bản đạo đức.
 

Phụ lục

40 bài thực tập thiền như đã được liệt kê trong Con đường Thanh Tịnh hoá
 

Nếu một người không có thầy dạy để thiền về một đề tài nào đó, thì người nầy cần dựa vào sự hiểu biết và bản tánh của mình để mà tìm một đề tài thiền thích hợp.  
Có bốn mươi bài thực tập thiền(kammatthana)thích hợp cho từng loại bản tánh, được vị thầy vĩ đại Buddhaghosa ghi chép ra.  
Với mục đích thiền , ngài Buddhaghosa lưu ý đến sáu cá tánh : trung thành, thông minh, có tính chất suy đoán (nơi đây những gốc rễ tốt của không tham, không sân , và không si mê có ưu thế khác nhau theo từng trường hợp); tham lam, ghét bỏ, và si mê (nơi đây tham, sân, si chiếm ưu thế).  
Vấn đề ở đây có hai phần : thứ nhất, rất ít loại “thanh khiết”, phần đông con người có lẫn lộn cả hai hoặc nhiều cá tánh – hơn nữa những lẫn lộn nầy luôn trên đà thay đổi; và thứ hai, thật là khó khăn khi phán quyết cá tánh của một người nằm trong thành phần nào, bởi vì sự kiêu ngạo và si mê của một người sẽ làm mờ đi sự phán đoán của mình. 

Đây là một vấn đề nhỏ mà giá trị của vị thầy dạy thiền có thể được phân biệt dễ dàng. Tuy nhiên, một người có thể khám phá ra nhiều điều về chính bản thân mình, bằng cách sử dụng chính niệm của mình vào những dự kiện xảy ra một cách bất ngờ. Ngay lúc ấy, một người có thể nhận diện được phản ứng của mình và những vết nhơ hiện diện trong tâm thức. Những phán xét sau đó không có giá trị nhiều, bởi vì vào lúc nầy tâm thức đã có lý do để tự bào chữa, và sự việc chính cũng đã ít nhiều không còn chính xác.

Sau đây là danh sách của bốn mươi bài thiền tập với vài ghi chú về việc thực hành, những cá tánh nào lợi ích, và nó chiến đấu với những cá tánh xấu nào. Những bài thiền tập được sử dụng nhiều hơn hết được đánh dấu bằng ngôi sao (*) .

Mười biến xứ (kasinas)

1. đất 
2. nước 
3. lửa 
4. gió 
5. xanh 
6. vàng 
7. đỏ 
8. trắng 
9. ánh sáng * 
10. giới hạn không gian

Thực tập số 5 – 8 dành cho cá tánh ghét bỏ bởi vì màu sắc của chúng dễ chịu và thanh khiết.

Trừ ra số 5 – 8 , không có vết nhơ đạo đức đặc biệt nào bị mười biển xứ kháng cự lại . Vì những biển xứ nầy được phát triển qua cặp mắt, do đó chúng không thích hợp cho người nào có thị giác yếu (theo ngài Buddhaghosa).

Chỉ có một trong mười biến xứ (kasinas) dường như được thực hành nhiều hiện nay là thực hành về ánh sáng, mà một số người cho rằng ánh sáng xuất hiện một cách tự nhiên khi tâm thức họ bắt đầu chú tâm.  
Trong khi những giải thích nơi Aricaya Buddhaghosa trong Con đường Thanh Tịnh dường như nhấn mạnh đến sự quan trọng trong việc sử dụng những ủng hộ đến từ bên ngoài của việc thực tập (thực tập về biến xứ đất được miêu tả rất chi tiết), khi người viết nghe đến những thực tập biến xứ được sử dụng (ở Thái lan), chúng luôn nằm trong phạm vi của bản chất thị lực (tướng - nimitta) xuất hiện ở bên trong và được phát triển từ nền tảng nầy.  
Đây cho thấy rằng sự trầm tư mặc tưởng về những hiện tượng bên ngoài biến xứ đất, nước, gió, v…v… không được biết đến ở Thái lan. 

Mười thứ bất tịnh (asubha)

11. (xác chết) trương phồng làm mất tác dụng về sự ham thích sắc đẹp 
12. tím bầm …………………………… nét đẹp của màu da 
13. thối rửa …………………… hương thơm và nước hoa 
14. bị cắt ra …………………… sự nguyên vẹn hoặc rắn chắc 
15. bị gậm nhấm ……………… thân thể thịt đầy đặn 
16. bị phân tán………………… tay chân lành lặn 
17. bị hốc hác phân tán………… vẻ đẹp của thân thể khi còn nguyên vẹn 
18. bị ra máu…………………… trang sức và nữ trang 
19. bị dòi đục khoét…………… sở hữu thân thể 
20. bộ xương ………………… khi còn xương răng tốt 
11-20 dành cho những cá tánh tham lam.

Những điều nầy và các danh sách tương tự trong Kinh Bốn Niệm Xứ (Satipatthana Sutta), nhắc về thời mà các xác chết được tập trung ở một mảnh đất chung (charnel grounds). Tuy nhiên, hiện giờ nghĩa địa như thế cũng khó kiếm, ngay cả ở những mảnh đất Phật giáo, nói chi ở các nước phương Tây.  
Hiện giờ các vị Thầy ở Thái Lan nhấn mạnh rằng thân thể của một người phải được quan sát bằng những phương pháp nầy, theo cái nhìn của tướng (nimitta) để phát triển trí tuệ.  
Những phương pháp nầy rất ghê khiếp, một người cần có một vị thầy kinh nghiệm chỉ dẫn về cách đối phó với những tướng trạng như thế, khi thực hiện được thì đây là hoàn cảnh thuận lợi tốt nhất.  
Cũng cần nên nhấn mạnh ở đây là không có gì là không lành mạnh trong khi suy ngẫm những hình ảnh như thế, bên trong cũng như bên ngoài. Tình trạng mục nát của thân thể là một điều rất tự nhiên, nhưng vì theo thói thường thì con người không thích nhìn nhận việc nầy. Thay vì đối diện với sự mục nát tự nhiên của thân thể và đem việc nầy ra ánh sáng, các xác chết lại được các tay ướp xác và mỹ phẩm làm cho đẹp; và khi mà không thể làm được, các xác chết được xếp đặt gọn ghẽ trong những quan tài thật đẹp với những vòng hoa sáng chói, v…v…  
Thực tập của người Phật tử làm cho người nầy nhìn chân thật vào những khía cạnh đó của đời sống mà thông thường (vì tham đắm) không được xem là “xinh đẹp”, và làm cho người đó đối diện được với những điều nầy một cách bình tỉnh, đặc biệt nói về thân, tâm của một người.

Mười điều tuỳ niệm (anussati)

21. nhờ vào đức Phật * 
22. ……… Pháp (Dhamma) 
23. ……… Tăng (Sangha) 
24. ……… giới (sila)………[chống lại kiết sử (kilesa) của hạnh kiểm xấu (duccarita) ] 
25. ……… rộng lượng……[chống lại tính bủn xỉn (macchariya) ] 
26. …… thiên đàng……[chống lại nghi ngờ (vicikiccha) ] 
27. ……… cái chết………[chống lại sự lười biếng ] 
28. ……… thân thể *……[chống lại ham muốn & nhục dục (kama-raga) ] 
29. ……… hơi thở *……[chống lại si mê & lo âu ] 
30. …… an lạc…………[chống lại sự xáo trộn ]

21 – 26 dành cho cá tính có tín tâm

27……………………… thông minh 
28……………………… tham lam 
29……………………… lừa dối, suy đoán 
30……………………… thông minh

Nhóm mười điều tuỳ niệm nầy có cá tính hỗn hợp nhiều hơn hai nhóm trước. 

Trong thực tập ba điều đầu (21 – 23 ) một người thuộc danh sách phẩm chất của từng điều tuỳ niệm. [6] Tỷ như tinh thần không trở nên nguyên nhất với phương thức nầy, một người nên chọn một phẩm chất đặc biệt và đọc thuộc lòng một cách thầm lặng và không ngừng nghỉ ( chẳng hạn như "Buddho" hoặc "Araham"). Lần chuỗi cũng được sử dụng trong vài trường hợp liên kết với sự thực tập kiểu nầy.  
Việc ghi nhớ về đức hạnh và lòng quảng đại thường rất tốt cho việc thực tập trong lúc về già. Một người xét lại những công đức đáng khen (puñña) đã làm trong cuộc sống, và ghi nhớ chúng, tinh thần sẽ trở nên yên tịnh và sung sướng, khi có được một trạng thái tinh thần như thế nầy lúc sắp chết, một người chắc chắn sẽ được tái sinh nơi chỗ tốt đẹp.  
Một người không thể ghi nhớ những vị trời (deva) nếu như chưa được thấy qua. Thực tập nầy chỉ thích hợp cho những người đã thăng tiến về mặt tinh thần và đã có những liên hệ với những sinh vật tinh tế.  
Những cá tính thông minh có thể ghi nhớ được cái chết bởi vì họ không kinh hãi khi thấy những khía cạnh ghê sợ sẽ xảy ra trong khi thực tập. Đây là một điều khích lệ rất lớn để thực tập ngay bây giờ khi một người không biết được mình sẽ còn sống không trong giây phút tới.  
Sự ghi nhớ tuỳ niệm hai mươi tám -- về thân thể -- dành cho cá tính tham lam, cần phát triển sự lãnh đạm về thân thể. Thành công về mặt nầy bằng cách phân tách thân thể ra làm ba mươi hai phần không hấp dẫn, và rồi chọn một hay nhiều phần để khảo sát.  
Tuy nhiên, sự thực tập nầy trở nên hoàn hảo khi sự thấu hiểu sâu sắc về thân được sáng tỏ và những thành phần khác nhau được nhìn thấy một cách rõ ràng và hiểu được bản chất tự nhiên của nó. 

Sự chú tâm vào hơi thở được đề nghị để làm lắng dịu và làm sáng tỏ tinh thần, và một người dù với cá tính nào cũng có được lợi ích khi thực tập, cũng cần có sự thận trọng trong những phạm vi tinh tế trong lúc thực tập.  
Hơi thở không bao giờ bị bắt buộc mà chỉ được quan sát liên tục với chánh niệm, điểm tập trung thường là ở chót mũi hoặc nơi hai lỗ mũi. 

Tuy vậy, sự thay đổi tuỳ thuộc vào các vị thầy. Sự ghi nhớ về an lạc, một bậc Thánh thiện nói, chỉ là một lợi ích hiển nhiên cho những ai đã kinh nghiệm qua Niết bàn, chẳng hạn như những vị Dự Lưu (stream-enterers); nhưng các vị khác cần đạt được sự tỉnh lặng từ sự suy ngẫm về an lạc.  
Sự an lạc nơi đây thật sự là Niết bàn, và một người không thể ghi nhớ về điều mà mình chưa biết, nếu đó là người trần tục (puthujjana), vì đây là sự thực tập của các vị Thánh thiện (ariya).

Bốn Phạm Trù (Brahma-vihara)

31. thân ái *……[ chống lại vết bẩn của sân hận, ganh ghét] 
32. từ bi …………[ chống lại sự lãnh đạm nhẫn tâm ] 
33. vui mừng (với kẻ khác)…… [ chống lại ganh tỵ] 
34. bình thản ………[chống lại lo âu] 
31 dành cho cá tính ganh ghét

Bốn trạng thái không hình thể (arupa-bhava)

35. phạm vi của không gian vô hạn 
36. …………… ý thức vô hạn 
37. …………… hư vô 
38. …………… phi tưởng phi phi tưởng xứ

Những sự thu hút ở thế giới không hình thể nầy không thể phát triển được trừ khi người nầy đã hoàn thành bốn sự thu hút tầm thường của hình thể.  
Nhóm bốn nầy có thể khảo sát tỉ mỉ trên phương diện của bốn tầng thiền định (jhana). Vì rất ít người kinh nghiệm qua sự thực tập nầy, chúng ta tiến đến :

Nhận thức về sự chán ghét thức ăn

39. Trong khi một vị tỳ kheo nương nhờ vào sự khất thực (đôi lúc tốt, đôi lúc không tốt), cư sĩ cũng được lợi ích trong thực tập nầy, vị Thánh thiện Buddhaghosa ghi nhận rằng, đối với những cá tính thông minh, hoặc thấp hơn, sự cúng dường đưa đến việc tiêu diệt tham lam và ham ăn.

Định nghĩa của bốn hợp thể lớn

40. Những hợp thể là đất (tính chất rắn chắc), nước (sự liên kết), lửa (nhiệt độ), và không khí (sự di động), tất cả đều bao gồm trong thân thể của chúng ta. Những hợp thể nầy có thể được nhận thấy bởi sự phân tách dựa trên việc sử dụng tinh thần. [7] Thực tập nầy cũng đặc biệt thích hợp cho những cá tính thông minh.

Những thực tập không được nhắc đến trong sự liên kết với cá tính có thể thích hợp cho bất cứ người nào. Vì tất cả những thực tập nầy đều nhắm đến việc làm giảm dần và tiêu diệt những kiết sử (kisela), một người có thể hiểu rõ giá trị quan trọng của những điều nầy trong thực tập của Phật giáo. 
Nơi nào mà kiết sử có mặt, thì bóng tối và vô minh cai trị, nhưng chúng luôn bị tìm thấy; nơi đó trí tuệ và lòng từ bi của sự giác ngộ sẽ sáng tỏ. 
 

Hết

Tác giả bài viết: Bhikkhu Khantipalo - Dịch Việt : Mỹ Thanh