Tiểu đường và loãng xương

Loãng xương là một loại bệnh về rối loạn chuyển hoá xương một cách âm thầm, lặng lẽ, không dễ phát hiện ở giai đoạn sớm. Là một loại bệnh toàn thân mà đặc điểm chính là sự giảm sút mật độ xương, kết cấu các tổ chức xương bị phá vỡ dẫn đến giòn xương, dễ gãy.

Loãng xương là một loại bệnh về rối loạn chuyển hoá xương một cách âm thầm, lặng lẽ, không dễ phát hiện ở giai đoạn sớm. Là một loại bệnh toàn thân mà đặc điểm chính là sự giảm sút mật độ xương, kết cấu các tổ chức xương bị phá vỡ dẫn đến giòn xương, dễ gãy. Loãng xương không chỉ đem lại nỗi đau khổ cho bệnh nhân, mà còn gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng về gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội. Đặc biệt ở bệnh nhân đái tháo đường thì càng tạo thành một vòng xoắn bệnh lý, làm cho bệnh nặng lên, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, giảm khả năng lao động và có thể dẫn đến tàn tật suốt đời.

Từ năm 1948, Albright là người đầu tiên phát hiện ra hiện tượng loãng xương ở những người bệnh đái tháo đường đường huyết không được kiểm soát tốt, sau đó ở Trung quốc đã có không ít những báo cáo về sự liên quan giữa bệnh đái tháo đường và bệnh loãng xương. Cho tới nay, bệnh tiểu đường có dễ dẫn đến giảm sút về mật độ xương dẫn đến loãng xương, gãy xương hay không…vẫn đang còn tranh luận. Nhưng thảo luận dưới góc độ cơ chế bệnh sinh, bệnh lý và cơ chế phát sinh bệnh thì giữa bệnh đái tháo đường và bệnh loãng xương vẫn tồn tại một vài yếu tố liên quan tất yếu.

 

1.  Đái tháo đường ảnh hưởng đối với chuyển hoá Canxi, Phốt pho và các khoáng chất

 

Những bệnh nhân đái tháo đường typ I cũng như typ II nếu không được điều trị tốt, đường huyết tăng cao, lượng đường bị đào thải ra ngoài theo nước tiểu nhiều kéo theo lượng Canxi, Phot pho cũng bị đào thải ra nhiều. Những khoáng chất này là thành phần chủ yếu của muối xương, nếu bị mất đi một số lượng lớn sẽ dẫn đến giảm sút mật độ xương gây ra loãng xương. Qua quan sát trên lâm sàng phát hiện thấy đường huyết lúc đói và số lượng đường trong nước tiểu càng tăng cao thì mật độ xương càng thấp, loãng xương càng dễ hình thành. Nếu đường huyết giảm xuống gần với trị số bình thường thì Canxi niệu cũng giảm xuống mức bình thường.

 

2.  Đái tháo đường và chuyển hoá xương

 

Sự chuyển hoá cơ bản của xương chủ yếu dựa vào việc hình thành và tiêu huỷ xương. Sự hình thành của xương chủ yếu là chức năng của tế bào xương trưởng thành, quá trình tiêu huỷ xương dựa vào chức năng của huỷ cốt bào. Đái tháo đường chủ yếu ảnh

 

do sự suy giảm chức năng của tế bào cốt trưởng thành làm cho sự hình thành xương hoặc bị giảm sút, hoặc bị chậm lại nhưng quá trình tiêu huỷ của xương hoặc vẫn bình thường, hoặc tăng hoặc giảm. Ngoài ra, hiện nay còn phát hiện ra rằng trên tế bào cốt trưởng thành có các thụ thể của Insulin có thể làm tăng chức năng và tăng sinh tế bào cốt trưởng thành.Vì vậy nếu thiếu Insulin sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của xương. Chính vì những nguyên nhân này mà bệnh nhân đái tháo đường có biến chứng bệnh lý về xương, mật độ xương giảm sút hoặc loãng xương.

 

3. Đái tháo đường ảnh hưởng đến mật độ xương

 

Dùng phương pháp đo đậm độ xương kép (DEXA) đo mật độ xương vùng thắt lưng, đoạn trên xương đùi trên bệnh nhân đái tháo đường cho thấy sự thay đổi mật độ xương giữa bệnh nhân đái tháo đường typ I và typ II hoàn toàn khác biệt. Mật độ xương bị giảm sút thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường typ I là do bệnh nhân đái tháo đường typ I thường mắc ở lứa tuổi trẻ, trước 20 tuổi, chính lúc này là giai đoạn xương đang phát triển mạnh và người bệnh thường gầy nhiều và sự thiếu hụt insulin đều có liên quan đến sự phát triển của xương.

 

Nhiều báo cáo đã chứng minh có sự liên quan giữa sự mất đi của hàm lượng xương ở bệnh nhân đái tháo đường và giới tính; quá trình phát triển bệnh và các yếu tố ảnh hưởng đến mật độ xương, bệnh nhân nữ, người mắc bệnh lâu năm thì lượng xương mất đi càng nhiều.

 

4. Đái tháo đường và gãy xương

 

Nguy hiểm lớn nhất của loãng xương là gãy xương. Một số nghiên cứu chứng minh rằng nguy cơ gãy xương bàn chân và xương ngón chân trên bệnh nhân đái tháo đường so với người bình thường tăng gấp 3 lần, điều này có thể có liên quan với bệnh lý thần kinh, bệnh lý mạch máu do đái tháo đường. Ngoài ra, bệnh nhân đái tháo đường thị lực thường giảm, yếu nửa người, vì vậy càng dễ ngã, là một trong những nguyên nhân dẫn đến gãy xương.

 

Gãy đoạn trên xương đùi rất thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường lớn tuổi do bệnh nhân đồng thời có kèm theo loãng xương trầm trọng.Thông thường cho rằng bệnh nhân đái tháo đường thường kèm theo có sự rối loạn về chuyển hoá và nội tiết, đồng thời kèm theo có bệnh lý về mạch máu, trong đó bao gồm vi mao mạch xương dẫn đến giảm dinh dưỡng xương, giảm hình thành xương, tăng tiêu huỷ xương tiến tới thúc đẩy quá trình loãng xương. Vì vậy ở những nơi máu được cung cấp quá ít như đoạn trên xương đùi dễ bị loãng xương nghiêm trọng hoặc thậm chí dễ gãy xương.

 

5. Nguyên tắc điều trị

 

Những bệnh nhân đái tháo đường nếu có các triệu chứng như: đau mỏi lưng, đi lại khó khăn, thậm chí chỉ vận động nhẹ đã dẫn đến gãy xương phải lập tức đến bệnh viện kiểm tra, đo mật

 

độ xương hoặc chụp XQ và một khi được chẩn đoán quyết định thì phải tích cực điều trị. Khống chế bệnh đái tháo đường là biện pháp phòng chữa quan trọng nhất; duy trì đường huyết gần mức bình thường hay gần như bình thường có thể làm cho Canxi, Phot pho, Magie và các chất chuyển hoá khác có thể cân bằng trở lại. Đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng, vitamin, tổ chức hợp lý bữa ăn, vận động và phơi nắng một cách thích hợp đều rất cần thiết với bệnh nhân. 

 

Trước mắt, vẫn chưa có thuốc phòng, điều trị bệnh loãng xương, cũng như bệnh lý loãng xương do đái tháo đường; một khi phát hiện ra bệnh loãng xương thì bất kỳ một loại thuốc nào cũng không có tác dụng tái tạo hay khôi phục lại độ cứng của xương cũng như những chất xương đã bị mất đi.Vì vậy cần phải dự phòng sớm, phát hiện bệnh sớm; khi phát hiện ra phải lập tức điều trị và cần điều trị một cách tổng hợp bao gồm vận động, chế độ ăn uống cân đối, giàu chất dinh dưỡng, lựa chọn thuốc điều trị phù hợp, loại bỏ các thói quen xấu trong sinh hoạt hàng ngày như nghiện rượu, cà phê, thuốc lá…vv mới có thể cải thiện được quá trình chuyển hoá của xương.

 

- vận động một cách phù hợp có tác dụng cực kỳ quan trọng. Không những giúp tăng cường và cải thiện chức năng các cơ quan trong cơ thể, nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể với bệnh tật, tăng khả năng phòng chống bệnh tật, tăng cải thiện tuần hoàn mạch máu và chuyển hoá của xương, thúc đẩy hoạt tính của tế bào cốt trưởng thành, tăng đậm độ xương, giảm tiêu huỷ xương làm chậm quá trình loãng xương.

 

- Chế độ ăn uống giàu chất dinh dưỡng, cân đối các thành phần và loãng xương có liên quan mật thiết với nhau. Các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn không cân đối, hợp lý, dinh dưỡng không đủ hay lượng dinh dưỡng quá dư thừa đều có thể gây trở ngại cho việc hấp thu dinh dưỡng làm Canxi không được hấp thu đủ, hoặc bị mất đi quá nhiều, từ đó mà xuất hiện hiện tượng mất xương và phát sinh ra loãng xương.Vì vậy trong bữa ăn hàng ngày cần phải lựa chọn các loại thực phẩm phong phú chất dinh dưỡng, giàu hàm lượng Canxi, phot pho, các loại vitamin…vv để thông qua chế độ ăn bổ sung Canxi, phot pho và các loại vitamin cho cơ thể, có tác dụng phòng chống và làm giảm tối thiểu khả năng phân giải tổ chức xương, làm chậm thúc đẩy tiến trình loãng xương. Các loại thực phẩm giàu hàm lượng Canxi, phot pho, các loại vitamin…có rất nhiều chủng loại như sữa, các sản phẩm của sữa, thịt nạc, trứng, tôm cá, các loại rau xanh, hoa quả tươi…

 

- Các thuốc có tác dụng thúc đẩy quá trình hình thành xương tương đối hợp lý như: vitamin D, mỗi ngày 500 – 1000 đơn vị quốc tế; a - D3 0,5 – 0,75ìg một ngày; hay Cancitriol 0,25 – 0,35ìg đồng thời bổ sung thêm Canxi mỗi ngày 500 – 1000 mg.

 

Vitamin D có tác dụng quan trọng đối với hấp thu canxi, photpho ở ruột non; tham gia quá trình chuyển hoá của xương, tác dụng trực tiếp vào việc hình thành và cốt hoá xương. Vì vậy, nếu vitamin D bị thiếu hụt thì lượng canxi hấp thu ở ruột non giảm sút, dẫn đến Canxi trong cơ thể không đủ dễ gây ra nhuyễn xương khiến xương bị yếu và dễ bị gãy hơn. Nhưng nếu liên tục dùng vitamin D trong một thời gian quá dài cơ thể sẽ bị ngộ độc vitamin D, trên lâm sàng biểu hiện chủ yếu với các triệu chứng như: đau đầu, mệt mỏi, ngứa ngoài da, buồn nôn, nôn, đau bụng; nếu nặng hơn có thể ảnh hưởng tới chức năng thận, gây khát, đái nhiều, các khớp bị vôi hoá, nồng độ canxi trong máu tăng cao…vv. Do đó, chỉ nên dùng thuốc dưới sự hướng dẫn của bác sỹ, tuyệt đối không nên tự ý sử dụng một cách bừa baĩ.

 

Ruột non có thể không có khả năng một lần hấp thu một lượng canxi quá lớn, vì thế cách sử dụng canxi tốt nhất là chia thành liều nhỏ, uống 500mg/một lần. Mặc dù, việc bổ sung canxi là tương đối an toàn và được dung nạp tốt chỉ có rất ít tác dụng phụ như táo bón, khó tiêu nhưng cũng cần lưu ý nên uống nhiều nước khi uống canxi và định kỳ kiểm tra canxi huyết, canxi niệu để tiện việc điều chỉnh thuốc. Đối với những người bị sỏi thận – tiết niệu nên xin ý kiến bác sỹ và thận trọng khi sử dụng.

 

Một chế độ ăn đủ canxi hay vitamin D là cơ sở quan trọng duy trì sự cứng cáp và đậm độ xương.Tuy nhiên, khi điều trị nếu chỉ dùng đơn độc canxi hay vitamin D thì chưa đủ, chúng chỉ có tác dụng hỗ trợ với các điều trị khác.

 

- Phơi nắng có thể phòng chống loãng xương. Phơi nắng một cách phù hợp đặc biệt ở người già đem lại lợi ích rất lớn. Tia hồng ngoại có thể xuyên qua tổ chức dưới da làm mạch máu giãn nở thúc đẩy tăng tuần hoàn huyết dịch và sự trao đổi chất của cơ thể, làm tăng chức năng hoạt động của tim, phổi; tăng xúc tiến quá trình tổng hợp vitamin D bảo đảm cho sự chuyển hoá canxi, phot pho được bình thường làm tăng sự hình thành xương có tác dụng phòng chống loãng xương.

 

Theo quan niệm y học cổ truyền bệnh loãng xương và thận có quan hệ mật thiết với nhau,  ngoài ra còn có liên quan nhất định với tỳ và gan.Thận chủ tiên thiên, tỳ chủ hậu thiên; tinh khí của thận là nhờ sự sinh hóa, tinh lọc các vật chất tinh hoa ngũ cốc của tỳ.Can chủ gân, thận chủ cốt, gân cốt có mạnh hay không là nhờ vào sự tư dưỡng, nhu nhuận của thận âm vì vậy điều trị lấy bổ thận, kiện tỳ, sơ can làm cơ bản. Không ít các nghiên cứu y học hiện đại đã chứng minh một số thuốc đông dược ví dụ như:lộc nhung, bổ cốt chỉ, dâm dương hoắc, nhục thung dung, nhân sâm, hòang kỳ, đan sâm...có tác dụng làm chậm quá trình hủy xương, làm giảm sự mất đi của mật độ xương do đó có hiệu quả phòng chống bệnh lõang xương.