Lươn vàng và vị thuốc thiện ngư

Lươn vàng (Monopterus albus Zwiew) thuộc họ Lươn (FLUTIDAE), tên khác là Cá lươn, Hoành thiện, là loài cá xương, thân hình ống, dài 30 - 40cm, sống chui rúc trong bùn ở các ao, hồ, ruộng nước, mương máng ở đồng bằng và miền núi.
Lươn được thu bắt quanh năm, nhưng chủ yếu vào tháng 3 - 4 và tháng 10 - 11. Người ta cũng nuôi Lươn trong bể nhân tạo đạt kết quả tốt.
1. Công dụng của Lươn
Thịt Lươn chứa 20% protid, 1,5% lipid, 35mg% Ca, 164mg% P, 26mg%Mg, 1mg% Fe; 0,15mg% vitamin B1, 0,31mg% vitamin B2, 3,8mg% vitamin PP, 0,28mg% vitamin B6, 30mcg% vitamin D. Toàn bộ con Lươn được dùng trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian với tên thuốc là Thiện ngư hoặc Hoàng thiện. Dược liệu có vị ngọt, tính ấm, không độc, có tác dụng bổ trung, ích khí, trừ thấp.
Thịt Lươn: Ngon và bổ, thích hợp vào thể trạng nhiệt, rất tốt cho trẻ em gầy yếu, xanh xao; Phụ nữ sau khi đẻ hư nhược, khí huyết không điều hòa.
Khi dùng, lấy Lươn tuốt cho hết nhớt bằng rơm và tro bếp, rửa sạch, mổ bỏ lòng ruột, để cả con, luộc qua, gỡ lấy thịt, nấu cháo ăn hoặc sấy khô, tán bột uống. Thịt Lươn nấu với ngó sen, ăn chữa rong kinh, băng huyết; Cuốn lá lốt nướng ăn chữa tê thấp, đau mình; Hầm với rau dừa nước lại là thuốc bổ máu; Ninh nhừ với màng mề gà ăn trị cam tích trẻ em. Người Nhật Bản coi thịt Lươn như một loại thực phẩm thông huyết mạch, lợi gân cốt, nên gọi là “Sâm động vật”.
Tiết Lươn: Dùng tiết vừa cắt ở cổ Lươn nhỏ vào tai mỗi ngày chừng 3 - 4 giọt chữa đau tai (theo “Nam dược thần hiệu”). Tiết Lươn bôi nhiều lần trong ngày chữa những vết mẩn do giời leo (một loại viêm da cấp tính có mụn rất nhỏ nốt lấm tấm như hạt kê).
Xương Lươn: Đem xương phơi rồi sấy khô giòn, tán nhỏ, đốt lấy khói xông chữa trĩ đau nhức (theo “Nam dược thần hiệu”). Xương Lươn vàng giã nhỏ với mỡ ở đùi con dê, đắp vào mắt chữa mắt có màng trắng. Ở một số vùng, người ta còn rang xương Lươn với cát, rồi tán nhỏ, rây bột mịn, uống với nước ấm chữa đau lưng. Nhớt ở mình con Lươn được dùng bôi chữa rết cắn. Sở dĩ có tác dụng như vậy, vì nhớt này là một chất nhầy có phản ứng kiềm, khi bôi lên vết rắn cắn sẽ làm trung hòa tính axit của nọc rết và gây cảm giác mát, dễ chịu, hết đau nhức.
Chú ý: Người bị bệnh sốt rét, vàng da, kiết lỵ, đầy bụng, khó tiêu không nên ăn Lươn.

2. Một số bài thuốc kinh nghiệm
Chữa mồ hôi ra nhiều ở tay chân: Lươn 1 con, làm sạch, luộc qua, gỡ lấy thịt, Ý dĩ nhân 20g để sống, phơi khô hoặc sao vàng, giã nhỏ thành bột, gạo nếp 30g vo kỹ, để ráo nước, giã thành bột. Trộn chung 3 thứ, thêm ít muối, nấu với nước luộc Lươn thành cháo, ăn trong ngày. Dùng 5 - 7 ngày. Hoặc dùng thịt Lươn vàng 50g nấu cháo cùng với đọt Khoai môn nước 20g, ăn trong ngày.
Chữa bạch đới, khí hư: Lươn 1 con to, lấy phần giữa (khoảng 30cm) đốt ra tro, Hồ tiêu 15 hạt, tán nhỏ, trộn với rượu, uống trong ngày.
Chữa liệt mặt, méo mồm: Tiết Lươn, 1 phần, trộn với nhựa cây ruối hoặc bột hạt Thầu dầu tía 2 phần. Đánh cho nhuyễn, phết lên giấy, dán vào má (bị bên này thì dán bên kia và ngược lại).
Chữa chảy máu dạ dày: Tiết Lươn 10ml trộn với bột than da trâu 10g, uống với nước Mía làm một lần trong ngày. Ngày 2 lần.

DS. Hữu Bảo
(Theo health.vnn.vn)