BÁN HẠ NAM 南 半 夏
- Thứ tư - 02/03/2011 11:39
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
BÁN HẠ NAM 南 半 夏
Typhonium trilobatum (L) Sochott.
Tên Việt Nam: Bán hạ củ tróc, lá Ba chìa, Cây tróc chuột.
Tên khoa học: Typhonium trilobatum (L) Sochott.
Họ khoa học: Họ Ráy (Araceae).
Mô tả: Cây thảo có thân củ gần hình cầu, Lá hình lưỡi mác, chia làm 3 thùy hơi rõ, hình giữa hình trái xoan khá dài, các thùy bên hình trái xoan nghiêng, thường có thùy rộng ở mép ngoài, cuống dài hơn phiến nhiều thường phình thành bẹ. Mo có phần ống thuôn, phần thùy hình trái xoan thuôn, nhọn mặt ngoài màu lục nhạt, mặt trong màu đỏ hồng. Trục hoa mà hồng, phần mang hoa cái hình trụ, ngắn, phần mang hoa không sinh sản dài hơn, tiếp đến phần không hoa dài gấp 2 lần phần mang hoa không sinh sản, phần mang hoa đực có nhiều hoa. Phần cuối trục hình trụ đùi, thẳng, gốc hơi rộng. cây ra hoa vào đầu mùa thu.
Phân biệt:
1. Cần phân biệt với cây Bán hạ bắc (Pinellia ternata Breit) hay cây Chưởng diệp Bán hạ bắc (Pinellia tuberifera Tenora) (Xem: Bán hạ).
2. Ngoài ra người ta còn dùng Bán hạ nam (Typhonium divaricatum (Linn) Decne) tương tự như cây trên, đó là Cây thảo có thân củ hơi tròn, Lá hình tim hay hình mũi mác, có 3 thùy, thùy giữa hình trái xoan thuôn, hay 1/2 trái xoan, các thùy bên hình trái xoan, hay có dạng trái xoan tam giác, ngắn hơn, phiến lá dài hơn cuống nhiều, mọc lên từ thân củ. Mo có phần ống hình trứng thuôn dài 2 đến 3 cm, phần phiến hình trái xoan mũi mác, có mũi nhọn, dài, màu đỏ thẫm. Quả mọng hình trứng ngược. Cây ra hoa mùa hè, Cây thường mọc dại trong vườn, bãi hoang ẩm nước ta. Ở Hà Nội thường gặp thứ (Typhonium divaricatum (Linn.) Decne var. minutum gagnep. Cây Bán hạ nam này thường mọc vào giữa mùa hạ, có củ thu hoặc được từ tháng 7 đến tháng 12.
3) Củ chóc sau khi chế biến gọi là Bán hạ nam. Đó là những lát thái mỏng, to nhỏ không đều dài 1,5 đến 3 cm, rộng 1 đến 2,5 cm, dày 0,15 đến 0,3 cm. Mặt cắc ngang màu vàng nhạt hay màu hơi xám nhẵn, hơi giống miếng sáp ong, lớp mép cắt có lớp bần màu vàng, nâu nhạt, nhăn nheo, có các vết sẹo của rễ con và đôi khi có vài mẩu rễ con còn sót. Chất cứng giòn rễ bẻ. Có người khi khai thác củ chóc lấy củ nhỏ làm Bán hạ, củ lớn làm Thiên nam tinh (Xem những vị này).
Vị bán hạ bắc lấy từ cây Bán hạ Trung quốc khác hẳn với vị Bán hạ nam về hình dạng. Vị bán hạ bắc thường hình cầu dẹt, có củ dẹt nghiêng đường kính 0,7 - 2 cm. Mặt ngoài trắng hoặc vàng nhạt. Mặt trên thường tròn phẳng, ở giữa có vết lõm to màu vàng nâu xung quanh chi chít những vết chấm nhỏ là vết tích của rễ con. Mặt dưới hình tròn hơi bóng nhẵn, màu trắng tinh. Chất rắn chắc, mặt bổ dọc hình quả thận, có bột trắng bóng mịn. Không mùi, vị cay nhấm thấy dính, tê lưỡi.
Địa lý: Cây mọc hoang dại ở trong các vùng đồng quê, chỗ đất hoang ầm ở cả hai miền Việt Nam.
Thu hái, sơ chế: Thu hoạch vào mùa hè, thu.
Phần dùng làm thuốc: Dùng thân, rễ (củ) to bằng ngón tay cái, vỏ sẫm hơi đen thịt trắng có nhiều bột.
Bào chế: Đào lấy thân rễ rửa sạch ngâm với phèn chua (cứ 500kg củ Chóc thì cùng 0,5 kg phèn chua). Đạp cho tróc vỏ ngoài, đãi bỏ vỏ, phơi sấy khô. Nếu gặp trời khô thì phải sấy để tránh biến màu vàng đen. Sau đó dùng củ Chóc nấu với Cam thảo, Bồ kết (cứ 1kg củ chóc, 100g Cam thảo, 100g Bồ kết) cho vào nồi đổ ngập nước tới khi cạn nước, bẻ củ ra thấy trong ruột trong là được, nếu còn thấy đốm trắng thì nấu lại bằng nước sôi rồi phơi hoặc sấy khô.
Tác dụng sinh lý: Mạnh tỳ, vị, giáng khí trừ đàm, cầm mửa ẹo, hết sưng thủng.
Tính vị: Vị ngứa, tính ấm, có độc.
Chủ trị: Trị ho suyễn, nôn mửa, họng sưng đau, tiêu thủng.
Liều dùng:Dùng từ 8 – 12g.
Chữa rắn cắn, giã nhỏ đắp lên vết thương.
Kiêng kỵ: Tân dịch kém, Âm huyết hư, có thai không nên dùng.
Bảo quản: Để trong lọ kín, nơi khô ráo.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị ho, nôn mửa, váng đầu, chóng mặt, hồi hộp: Bán hạ nam, Phục linh,Cam thảo, Quất hồng bì, sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).