QUY BẢN 龜 板

Con rùa là một con vật thường sống ở dưới nước, có 4 chân, duỗi ngắn. Khi gặp nguy hiểm có thể rụt cả đầu, chân và đuôi vào trong mu lưng và yếm (bụng) rùa.

QUY BẢN  龜  板

Chinemys reevesii (Gray).

Xuất xứ : Bản Kinh.

Tên khác : Quy giáp, Thần ốc (Bản Kinh), Quy xác (Hoài Nam Tử), Bại Quy Giáp (Tiểu Phẩm Phương), Quy đề giáp (Dược Phẩm Hoá Nghĩa), Bại quy bản, Bại tướng (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Quy phúc giáp (Y Lâm Soạn Yếu), Ô quy (Thánh Huệ Phương), Mu rùa, mai rùa, Yếm rùa (Việt Nam).

Tên khoa học : Chinemys reevesii (Gray).

Họ khoa học : Họ Rùa (Testudinidae).

Mô Tả : Con rùa là một con vật thường sống ở dưới nước, có 4 chân, duỗi ngắn. Khi gặp nguy hiểm có thể rụt cả đầu, chân và đuôi vào trong mu lưng và yếm (bụng) rùa. Mu rùa hay yếm rùa là những vỏ rất cứng. Con rùa thường ăn cá con hoặc sâu bọ. Nhưng con rùa có thể nhịn ăn rất lâu mà không chết.

- Loại ở núi (Sơn quy) có nhiều thứ: thứ nhỏ bằng bàn tay, yếm ở giữa có hình chữ vương chéo, mỏng, soi thấy trong vàng đậm là thứ rùa quý nhất thường gọi là Kim quy hay Kim tiền quy; có thứ to hơn, yếm sắc vàng nhạt, dày là hạng vừa; cũng có thứ yếm to hơn, sắc đen không dùng làm thuốc.

- Loại ở nước (thuỷ quy): thường có yếm hoa, dày không dùng làm thuốc. Nói chung dùng yếm rùa làm cao thì phải chọn thứ yếm mỏng còn màng bọc bên ngoài, các miếng yếm còn dính vào nhau là tốt; thứ yếm vụn nát, đen, mất màng hoặc lẫn lộn thứ yếm rùa khác là xấu.

Huyết bản là yếm con rùa còn sống, lấy riêng yếm làm thuốc.

Thông bản là yếm con rùa đã luộc đi để ăn thịt rồi lấy yếm làm thuốc.

Ở miền Nam còn dùng cả mai rùa nấu cùng với yếm để làm cao.

Địa lý : Rùa thường sống ở những nơi có nhiều ao hồ.

Bộ phận dùng : Mu Rùa (Yếm rùa).

Thu hoạch, Sơ chế : Có thể thu hoạch Quy bản quanh năm, nhưng nhiều nhất vào các tháng 8- 12.

Khi bắt được rùa, có khi người ta đập chết, bóc lấy yếm, cạo hết thịt, rửa sạch, phơi khô. Loại yếm rùa này được gọi  là ‘Huyết bản’. Nếu bắt được rùa, nấu chín rồi mới bóc lấy yếm, lọc bỏ hết gân thịt thì gọi là ‘Thang bản’.

Bào chế :

+ Chọn lấy thứ Quy bản lâu năm, rửa sạch vỏ và đất cát, giã nát, tẩm rượu nướng hay sao vàng. Ngâm vào nước 3 ngày đêm. Dùng củi gỗ dâu mà nấu thành cao (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).

+ Trước hết đem ngâm yếm rùa vào nước để gân thịt còn sót lại rữa ra rồi cạo cho tróc hết. Có khi đun chín để loại thịt cho dễ. Sau đó dùng nước rửa sạch cho đến hết mùi. Phơi khô, đập nhỏ, đun với nước, ba ngày ba đêm. Lọc loại bỏ bã, nước lọc được đem cô đặc đổ vào khuôn, để nguội cắt thành từng miếng to nhỏ tùy ý (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

+ Cho ngâm vào nước, mỗi ngày thay nước một lần, chừng một tháng, đến khi gân thịt sót lại rữa nát, rửa sạch phơi khô. Dùng sống, hoặc sao kỹ với cát, tẩm dấm nướng vàng dòn để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Theo kinh nghiệm Việt Nam: Nấu thành cao có bốn bước:

+ Làm sạch: lấy yếm ngâm vào nước phèn (15%) trong một đêm, vớt ra đổ ngập nước đun sôi 1 - 2 phút.

+ Làm khô và đập dập: đem phơi hoặc sấy khô đập dập ra từng khớp, rồi mỗi khớp đập ra thành 3 - 4 mảnh nhỏ.

+ Tẩm sao: lấy nước gừng (giã gừng nhỏ, thêm đồng trọng lượng nước, vắt lấy nước) tẩm 1 đêm. Sao qua cho khô (thường dùng).

Có người đem hơ nóng yếm rùa, rồi nhúng vào giấm ( làm 3 lần) rồi mới đập dập sao qua.

+ Nấu cao: cách nấu cao quy bản giống như cách nấu cao ban long.

Thường khi cô lại thì cô trên cát dày 5 – l0 cm ở 80o, lúc gần được phải quấy liền tay.

Cao quy bản thường chỉ cô đến độ sệt còn róc ra được đóng vào chai, lọ sạch 40g hay 12g để tiện dùng. Loại cao này có thể để 3 năm không hỏng. Cao này có mùi tanh và thơm.

Sở dĩ chỉ lấy cao Quy bản ở độ sệt vì nếu làm cao đặc như cao Ban long thì bị mềm ra, nhất là mùa hạ thì lại càng chảy ra, hơn nữa các cụ cho rằng nấu đặc như cao Ban long thì mất chất.

Kinh nghiệm ở Viện Đông y thì thấy rằng có thể nấu thành cao đặc như cao Ban long được, cắt thành từng miếng 100g gói kỹ trong giấy bóng kính, mùa đông miếng cao vẫn tốt, sang mùa hè có mềm hơn, nhưng không chảy nhũn ra được  Miếng cao này nếu đem để trong bình kín, dưới có lót vôi sống thì miếng cao rất khô, cứng nhưng có cụ vẫn cho là nấu đến độ đặc như thế thì kém chất.

Để có thể cắt cao Quy bản thành miếng được, có nơi nấu chung yếm rùa với gạc (l/2 Quy bản và 1/2 gạc, hoặc 3 Quy 1 gạc) gọi là Cao Quy Lộc Nhị Tiên.

Thường cứ 10 yếm rùa chưa chế biến thì nấu được 1,80kg cao quy bản ở thể đặc (cắt thành miếng được, kinh nghiệm ở Viện Đông y).

- Thuốc phiến: lấy nước sôi rửa sạch yếm rùa bằng bàn chải. Phơi hoặc sấy khô, sau đem nướng tồn tính (bẻ ra trong còn thấy vàng là được) lúcđang còn nóng dúng vào giấm. Lại hơ qua cho nóng dúng vào giấm lần nữa. Tán dập vụn.

Bảo quản: miếng cao gói trong giấy bóng kính cho vào thùng kín, dưới có lót vôi sống để hút ẩm.

Cao lỏng đóng vào chai lọ sạch, nút kỹ gắn xi.

Thuốc phiến để chỗ khô ráo.

Thành phần hóa học :

+ Trong quy bản có chất keo, chất béo và muối canxi. Hoạt chất khác, chưa rõ (Trung Dược Học).

+ Theo Thomas, thủy phân mai rùa được các axit min sau đây glycocole 19,36%, alanin 2,95%, leuxin 3,6%, tyrosin 13,59%, xystin 5,19%, axit glutamic, histidin, lysin, acginin, tryptophan không có (Bio  Ilinlie. 783).

Tác dụng dược lý :

+ Tác dụng nâng ngưỡng đau: Thử nghiệm nơi chuột cống được gây mô hình âm hư thể cường giáp, độ dính huyết tương giảm rõ (Trung Dược Học).

+ Có tác dụng điều chỉnh 2 chiều hiệu suất tổng hợp DNA (Trung Dược Học).

Tính vị :

+ Vị ngọt, mặn, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Quy kinh :

+ Vào Thận, kiêm vào kinh  Tâm, Can Tỳø (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Tác dụng, chủ trị :

+ Bổ Thận âm, thu liễm hư hỏa. Hạđược chứng âm hư nóng âm ỉ trong xương, lao nhiệt, ho lâu, băng huyết, khí hư ra kéo dài, và chứng trĩ dò lâu ngày, cũng có thể trị được đàn bà khi đẻ xương chậu không không mở, trẻ nhỏ thóp không liền.(Đông Dược Học Thiết Yếu).

Kiêng kỵ :

. Người bệnh hư nhược mà không có hỏa thì kiêng dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Liều dùng :

. Ngày uống 12-24g. Quy bản dưới dạng thuốc sắc, thuốc viên hay thuốc bột.

. Cao quy bản: Ngày uống 10- 1 5g, chia 3 lần uống.

Đơn thuốc kinh nghiệm :

+ Trị  đàn bà kinh ra quá nhiều. Quy bản (tẩm dấm nướng hoặc cao), Hoàng cầm, Bạch thược, Thung căn bì, Hoàng bá. Tán bột, trộn với mật làm viên, uống với nước dấm pha nhạt (Quy Bản Hoàn - Thẩm Thị Tôn Sinh Thư )

+ Trị cốt chưng, lao nhiệt, sốt về chiều, mồ hôi trộm: Hoàng bá, Tri mẫu đều 16g, Thục địa, Quy bản đều 24g. Tán bột. Thêm tuỷ xương heo và mật làm thành hoàn. Mỗi lần uống 8-12g, ngày 2 lần với nước Gừng hoặc nước muối nhạt, lúc đói (Đại Bổ Âm Hoàn – Đan Khê Tâm Pháp).

+ Trị kinh nguyệt kéo dài, rong kinh, âm hư huyết nhiệt: Quy bản, Hoàng cầm, Bạch thược đều 40g, Hoàng bá 12g, Chế hương phụ 10g. Tán bột, làm hoàn. Mỗi lần uống 10-15g, ngày 3 lần (Cố Kinh Hoàn - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).  

Tham khảo :  

. Quy bản nấu cô lại thành cao gọi là cao Quy bản, vị ngọt, tính bình, công hiệu giữ được lâu, đại bổ được Thận âm, hay hơn cả Quy bản chỉ để sắc uống (Đông Dược Học Thiết Yếu).

.  Mũi con hươu thường hếch ngược hướng về đuôi, có thể thông được mạch Đốc, dùng sừng của nó bổ hỏa để dưỡng dương. Đầu con rùa thường rụt vào phía bụng có thể thông được mạch Nhâm, lấy mai của nó bổ thủy để dưỡng âm.  Đồi mồi cũng là loại rùa, mai của nó mỏng, chất cứng trong suốt, tạo hình bóng mây, hay về bình Can, trấn kinh, thiên về tiềm giáng. Mai rùa dày cứng không trong, màu xám đen, hay về bổ âm tiềm hỏa, thiên về thu liễm (Đông Dược Học Thiết Yếu).