ĐẰNG HOÀNG 藤 黃
Garcinia hanburryi Hook.F.
Xuất xứ: Bản Thảo Cương Mục.
Tên khác: Hải đằng (Quách Nghĩa Cung Quảng Chí), Vàng nghệ, Đắng hoàng Gomme-gutte, Vàng nhựa (Việt Nam).
Tên khoa học: Garcinia hanburryi Hook.F.
Họ khoa học: Guttiferae, Clusiaceae.
Tên gọi: Hoằng đằng lấy bởi chất nhựa của cây Hải đằng chảy ra thành keo cứng, có màu vàng sáng nên gọi là Đằng hoàng.
Mô tả: Cây lớn, cao 10-20m thẳng đứng, thân nhẵn, cành ngả xuống đất. Lá mọc đối cuống ngắn, hình bầu dục hoặc mác, hai đầu hơi tù, phiến lá dai, nguyên, nhẵn, dài từ 10-20cm, rộng 3-10cm. Hoa khác gốc, hoa đực mọc ở nách lá, đơn độc hay tụ thành 3-6 có cuống, có lá kèm nhỏ, hoa cái mọc ở nách lá, đơn độc, lớn hơn hoa đực. Quả mọng hơi hình cầu, đường kính 2-5cm, phía cuống có đài tồn tại, 4 ngăn, mỗi ngăn có một hạt hơi cong hình cung. Mùa hoa tháng 12 tới tháng 1. Mùa quả tháng 2-3.
Địa lý: Có nhiều ở Phú Quốc, Trảng Bom, miền nam Việt Nam. Đằng hoàng ở Việt Nam được coi là một trong những loại tốt nhất trên thế giới.
Thu hái, sơ chế: Thu hái sau mùa mưa, dùng rìu khía thành những khía sâu thành vòng xoắn trên thân cây vài milimet ở dưới gốc lên. Dịch mủ màu vàng chảy ra được hứng vào các ống tre, sau một thời gian đặc lại. Hơ nóng đầu ống tre cho nước bốc hết đi, chẻ ra lấy vị Đằng hoàng. Có nơi chế thành thỏi hay miếng.
Phần dùng làm thuốc: Nhựa cây (Gomme Gutte).
Mô tả dược liệu: Trên thương trường có hai loại:
1- Dạng thỏi: Biểu hiện thỏi dài 15-20cm, đường kính 3-6cm, trên mặt thường có những khía dọc dấu vết của ống tre, trên mặt có bụi màu vàng nhạt. Dễ vỡ, vết vỡ bóng hay mờ màu vàng sẫm. Chà tay ướt lên sẽ có dấu vàng tươi trên ngón tay. Tan trong cồn tro màu đỏ, trong ê te cho màu vàng, đun nóng thì mềm nhưng không chảy lỏng. Cháy không mùi, vị hắc.
2- Dạng cục: Thường không tinh khiết bằng dạng thỏi, thường hay bị pha trộn. Có cùng tính chất như dạng thỏi. Một cục tường nặng 1kg-1kg5.
Bào chế: Lấy nước trong chưng qua rồi bỏ cặn đi, đựng trong cóng sành chưng cách thủy, nấu hết nước lại đổ tiếp cho nước thêm vào, nấu cho cạn lâu một tiếng đồng hồ. lấy vải bưng kín miệng cóng chôn dưới đất 7 ngày, làm như vậy cho được 7 lần, lấy ra phơi khô để dùng.
Tính vị: Vị chua chát. Có độc.
Tác dụng: Tiêu phù thũng, đại hoạt trường.
Chủ trị:
+ Làm thuốc công hạ, tẩy giun. Trị đau răng, nhức chân răng, sâu ăn răng, xức vào để làm rụng răng.
Liều dùng: Từ 4 phân -8 phân, có thể xổ nhẹ đi cầu lỏng. Từ 8 phân đến 5g có thể ỉa chảy phân nhiều, đau bụng nôn mửa. Trên 3g có thể ngộ độc gây chết người.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị tất cả các loại đinh nhọt sưng đau, dùng Hoằng đằng 120g, Bạch lạp 240g, Dầu mè 160g. Đem dầu mè nấu Đằng hoàng cho chín thành châu, khi giọt trong nước mà không tan, lúc đó thêm Hoàng Bạch khuấy đều, bỏ vào bình sứ cất dùng, trên mặt để một lớp dầu mè để giữ thuốc khi cần, phết dán vào (Phong Khí Cao Bất Dược Lương Phương).
+ Trị đinh nhọt độc chưa có đầu : Đại hoàng 60g, Đằng hoàng 30g, Minh phàn, Thiềm tô, mỗi thứ 15g, Xạ hương, Nhũ hương, Một dược mỗi thứ 6g. Tán bột. Dùng ốc sên (Oa ngưu) giã nát, trộn với thuốc bột và dấm, lấy bút phết chung quanh nhọt cho tới khi nhọt nhỏ dần, khi nào hết mới thôi (Chúc Thị Nhất Bút Tiêu Phương).
+ Trị các loại độc : Hùng hoàng, Đởm phàn, Bằng sa, Đằng hoàng, Đồng lục, Bì tiêu, Thảo ô, mỗi thứ 30g, Xạ hương 6g, tán bột trộn thiềm tô làm thành điếu như ống viết, lấy Kim bạc làm áo, khi dùng lấy giấm mài lấy viết phết chung quanh nhọt độc, nhiều lần là bớt (Chúc Thị Nhất Bút Tiêu Phương).
+ Trị các loại ung nhọt, đinh độc, các loại cốt thư mới phát: Đại hoàng 30g Phù dung diệp phơi khô tán bột.Ngũ vị tử mỗi thứ 30g, Xạ hương, Băng phiến mỗi thứ 3 phân, Đằng hoàng 9g. Tất cả tán bột trộn dấm nhồi thành hồ dày đắp quanh chỗ phụ cốt thư (Tiêu Dộc Tán - Lương Phương Vậng Tuyển Phương).
+ Trị các loại ung nhọt, đinh độc, các loại cốt thư mới xuất : Hùng hoàng 60g, Xạ hương 9g, Đằng hoàng 30g, Nhân trung bạch 15g, Chu sa, Bạch cập, Bạch liễm (sống) mỗi thứ 6g, Thiểm tô 30g, dùng Quảng giao 9g, trộn bột thuốc làm đính, khi gặp bệnh mài với giấm phết lên nơi đó (Lương Phương Vậng Tuyển Phương).
+ Trị tất cả các loại nhọt độc và phát bối : Hoàng đằng mài, bôi vào (Cửu Sinh Khổ Hải Phương).
+ Trị tất cả các loại đinh nhọt độc : Kiềm, Đằng hoàng, Hùng hoàng, Đại hoàng mỗi thứ 30g, Thiềm tô, Xạ hương mỗi thứ 6g, Huyết kiệt, Giáp phiến (sao) mỗi thứ 15g, mài dấm xức (Vô Hồi Dơn - Nhiếp Sinh Chúng Diệu Phương).
+ Sách ‘Cứu Sinh Khổ Hải’ ghi rằng nếu độc sinh ở các khớp tay chân ở nơi có huyệt đạo nguy hiểm, không thành chứng rò thì cũng làm cho người thành phế nhân thì dùng thuốc này, chỉ xức nửa vòng cũng đủ làm cho độc đi qua một đêm, gồm Bạch cập, Bạch liễm, Tam thất, Ngũ bội tử, Đại tạo giáp, Đằng hoàng, lượng bằng nhau, bào ra lát mỏng, Đằng hoàng để riêng ra, cho thuốc vào trong chậu sành ngâm nước một đêm, nấu cho ra nước, lại đổ nước vào nấu tiếp, làm như thế cho được nhiều lần, lọc sạch, nấu thành cao, rồi bỏ Đằng hoàng vào khuấy đều, nấu tiếp, cho vào hũ, phơi nắng, khi nào dùng, lấy trứng gà, mài với nước cho ra nước dẻo lấy bút phết vào. Lại có bài khác dùng Đằng hoàng, Ngân châu, 2 vị bằng nhau trộn giấm đắp vào (Di Dộc Phương).
Phân biệt:
. Vị Đằng hoàng ngoài trích từ cây trên ra, còn trích lấy từ các cây Garcinia pictoria Roxb, Garcinia travancorina, Garcinia morella Sessilis.
. Phân biệt với vị Hoàng đằng.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn