Kinh Dịch có chép: Hay lắm thay! Đạo Nguyên của quẻ Khôn vạn vật nhờ đó mà sinh dục
Có người hỏi: Vị trí các quẻ ở đồ Tiên thiên, như Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây (các vị trí này tương ứng đối đãi nhau) không có gì hợp với Y đạo, sao Y gia bàn đến Tiên thiên luôn?
Nghĩa của chữ Vỵ là họp. Năm tạng đều nhờ sự thu nạp ở đó. Tức là theo cái nghĩa muôn vật đều trở về lòng đất.
Xem đó thời biết rằng: Cơm nước vào Vỵ, thấm nhuần ra sáu Phủ mà sinh ra khí; điều hòa với Năm Tạng mà sinh ra huyết, giải ra tứ chi, sung dưỡng cho cơ bắp toàn thân, con người nhờ đó mà sinh sống.
Phế là cơ quan chủ khí, Thận là cơ quan chứa khí; vì vậy nên khí xuất phát từ Phế mà lại thu nạp về Thận. Tâm là cơ quan chủ huyết, Can lại là cơ quan tàng chứa huyết; vì vậy nên huyết xuất phát từ Tâm mà lại thu nạp về Can.
Không sốt mà ớn lạnh (bệnh phát sinh tại Âm và Lý) sớm nhẹ, tối nặng (vì âm thực, gặp âm thời mạnh;
Phát sốt, sợ nóng (phát sinh tại dương phận tức là biểu); ngày nặng, đêm nhẹ (do tà thực và Dương gặp Dương thời vượng)
Vỵ mắc bệnh thời mạch Hoãn, Tỳ mắc bệnh thời mạch Trì. Nếu Hỏa lấn lên vị trí của Thổ thì mạch sẽ Hồng Hoãn. Lại có chứng mình nóng, trong tâm khó chịu, đó là dương khí suy yếu, nên dựa theo các phép thăng, giáng, phù, trầm, bổ, tả để dùng thuốc.
Trời lấy khí dương để sinh, khí âm để trưởng (nuôi cho lớn); Đất lấy khí dương để giảm bớt, khí âm để cất chứa.
Lại một phép: khẽ rờ tay vào thời thấy nóng, ấn tay mạnh xuống thì không thấy nóng, đó là nhiệt ở bộ phận bì mao huyết mạch.
Những người hư yếu bị cảm mạo, không thể phát hãn, tuyệt đối không nên dùng phong dược. Nếu muốn cho có mồ hôi, nên dùng Hoàng kỳ tẩm rượu sao. Bạch truật tẩm mật và rượu sao, lại gia thêm một ít Phụ tử để giúp về phần khí hóa.
Chỉ nói bổ bằng những vị thuốc có khí vị tân, cam, ôn, nhiệt và vị “bạc”, tức là những loại phong dược có tác dụng ích khí thăng phù, như hai mùa Xuân Hạ..., ở trong con người tức là Can và Tâm.
Chu Đan Khê chú trọng về dương khí của hậu thiên nên mới lập ra bài này, là một bài bổ Tỳ Vỵ rất có giá trị.
Dưới đây vừa là theo phép xưa, vừa là kết hợp với ý kiến của tôi
Tứ quân là một bài thuốc chủ yếu chữa khí phận của Hậu thiên, người đời rất thường dùng nhưng phần nhiều chỉ biết những chứng hậu thích ứng của nó, còn những chứng cấm kỵ thì không biết. Dưới đây là những tâm đắc của tôi, xin trình bày để các đồng nghiệp tham khảo.
Dưới đây đều là những phương pháp cổ đã chép sẵn trong sách. Xin ghi cả để tiện chọn lọc. Nhưng tựu trung còn nhiều điểm lẫn lộn, không đúng với bệnh tình, bạn đọc nên suy xét kỹ, không nên vội ấn định làm thành pháp.
Ý nghĩa tên bài này dựa theo ý câu: “bốn mùa khí hòa gọi là ngọc chúc” ghi trong thiên Nhĩ nhã. Bài này có tác dụng chữa chứng kinh bế đau bụng, thân thể gày còm và chóng đói.
Bài này của ông Nghiêm Dụng Hòa chế ra. Phàm dùng Bài Quy tỳ uống xen với Bátvị hoàn thì nên uống về buổi chiều để cho huyết trở về âm phận. Nếu là tùy chứng uống riêng thời không phải theo nguyên tắc đó.