42 TRƯỜNG HỢP DÙNG PHƯƠNG PHÁP BỔ THẬN HOẠT HUYẾT ĐỂ TRỊ LIỆU GIÃN TĨNH MẠCH CHI DƯỚI

Giãn tĩnh mạch chi dưới Trung Y gọi là “Cân lựu”【筋瘤】,đồng thời có rất nhiều tên bệnh có liên quan đến nó. Hợp lại với Thấp chẩn gọi là “Thấp sang”(Ezema), hợp lại với Hội dương (Lở loét) gọi là “Liêm sang”(Chốc loét), còn gọi là “Quần biên sang”,”Khoa khẩu sang”, bệnh mắc lâu ngày khó trị, tục gọi là “Lão lan cước “Lão lạn cước”, là một loại bệnh tương đối khó điều trị . Những năm gần đây tác giả đã vận dụng lý luận của Trung y học, đúc kết kinh nghiệm của người xưa, cho rằng bệnh cơ chủ yếu của bệnh này là do Thận khí khuy hư, ứ huyết trở trệ. Đồng thời đối chứng với 42 trường hợp vận dụng phép bổ thận hoạt huyết để tiến hành điều trị cho người bệnh bị giãn tĩnh mạch chi dưới, hiệu quả rất rất thỏa đáng, đặc biệt báo cáo như sau.
1.Tư liệu lâm sàng:
1.1. Tư liệu chung:
Nhóm điều trị phân ra 42 trường hợp để chẩn đoán và điều trị. Trong đó bệnh nhân Nam phân ra 32 trường hợp, bệnh nhân nữ 8 trường hợp; Dưới 40 tuổi phân thành 8 trường hợp; Trên 40 -50 phân thành 21 trường hợp; Trên 50-60 phân thành 8 trường hợp; Trên 60-70 phân thành 10 trường hợp; Trên 70 phân thành 4 trường hợp. Bệnh trình ngắn nhất là 6 tháng, dài nhất là 30 năm, bị một mặt bệnh của chi dưới có 31, 2 chi dưới 11; Biểu hiện lâm sàng gồm có các chứng trạng: chi dưới sưng đau, vùng mắt cá chân hoặc mu bàn chân phù thũng, tĩnh mạch xoắn gấp và giãn ra , cong lại thành nhóm có 12 trường hợp, có kèm theo bong da, ngứa ngáy, sắc da tối, sưng đỏ nóng đau, như Ezema viêm da và lở loét có 30 trường hợp, trong đó có lở loét chảy nước 8 trường hợp.
1.2. Căn cứ để chẩn đoán:
căn cứ theo quy định của Bộ Y Tế Trung Quốc năm 1987 “Căn cứ tiêu chuẩn để chẩn đoán lâm sàng điều trị có chuyển biến tốt” Xác định chẩn đoán: 1)Sau khi lâu, chân nặng nề, đau mỏi trướng tê dại, mệt mỏi yếu sức, nghiêm trọng chi dưới sẽ phù thũng đau nhức. 2) Khi đứng, có thể nhìn thấy tĩnh mạch chi dưới nổi lên nhưng cạn, giãn ra, cong gấp hoặc xoén gấp thành từng nhóm, khi nằm xuống sẽ không thấy, thường kèm theo da bắp chân chi dưới có màu sắc tối, da tróc ra, Ezema hoặc lở loét mạn tính. 3)Đa phần tĩnh mạch lớn bị giãn nằm nổi lên bên mặt trong của chi dưới, bên mặt trong của bắp chân chạy lên hố đầu xương búa, tĩnh mạch nhỏ bị giãn nằm nổi lên bên mặt ngoài chi dưới, ở phía sau bắp chân chạy lên hố đầu xương búa, kiểm tra công năng của van tĩnh mạch chi dưới, để xác định độ nông sâu của tĩnh mạch và công năng trao đổi qua lại của van tĩnh mạch.
2.Phương thang cơ bản:
 Thục địa 30g, sơn thù du, sơn dược,đổ trong, xuyên ngưu tất, hoài ngưu tất, tục đoạn, cốt toái bổ, xuyên khung, trạch lan, đương quy mỗi thứ 15g, hồng hoa 10g, hoàng kỳ 30g, cát căn 15g, địa long 10g. Thấp chẩn(Ezema) hoặc lở loét gia hoàng bá 10g, thương truật, tứ quý thanh, bồ công anh mỗi thứ 20g. Người bệnh có chi dưới sưng đau rõ ràng, ngứa ngáy, sắc da tối gia thêm thủy điệt 6g, bạch chỉ 10g, bạch tiển bì 12g. Người bệnh chi dưới sưng nóng sốt đỏ gia tri mẫu 15g, thạch cao 30g, đơn bì 12g, nhẫn đông đằng 20g. Sắc uống, mỗi ngày một thang, cứ mỗi 4 tuần là một liệu trình điều trị, nếu không kèm theo bong da, ngứa, sắc da không tối, sưng nóng đỏ đau, Ezema dạng viêm da và lở loét có thể uống thuốc theo một liệu trình, còn nếu kèm theo tất cả các chứng như trên nên uống thuốc này theo hai liệu trình, sau khi liệu trình điều trị kết thúc thống kê hiệu quả điều trị.
3.Tiêu chuẩn để phán đoán trị liệu có hiệu quả:
      Căn cứ theo quy định của Bộ Y Tế Trung Quốc năm 1987“Căn cứ tiêu chuẩn để chẩn đoán lâm sàng điều trị có chuyển biến tốt”. Trị liệu khỏi các chứng trạng: người bệnh đứng lâu nặng nề, sưng thũng, đau nhức.v.v. đều tiêu biến, sắc da thâm tối có cải thiện, phù vùng mu lưng chân biến hết, vùng da lở loét đã lành đi nhiều, trong 3 tháng quan sát tĩnh mạch chi dưới không nổi lên nửa, xoén kết thành từng nhóm sắc da thâm tối có cải thiện. Hiệu quả điều trị rõ ràng: người bệnh khi đứng chi dưới nặng nề, phù thũng, đau nhức đã mất đi, sắc da thâm tối đã có thay đổi, vết lở loét đã thu nhỏ, phù thũng ở vùng chân đã giảm nhẹ nhưng vẫn còn giãn tĩnh mạch nông ở độ nhẹ, cong khúc.
     -Có hiệu quả: chân bị bệnh sau khi đứng lâu nặng nề, sưng phù nề đau nhức có chuyển biến tốt, nhưng tĩnh mạch nông lại cong, giãn ra chưa thấy rõ chuyển biến tốt.
     - Vô hiệu: sau khi trãi qua 2-3 liệu trình điều trị, chứng trạng, đặc trưng của cơ thể đều không có cải thiện.
4.Kết quả điều trị:
     42 trường hợp của nhóm này, theo như tiêu chuẩn đánh giá trên, điều trị hết 8 trường hợp, hiệu quả rõ ràng 19 trường hợp, có hiệu quả 12 trường hợp, vô hiệu 3 trường hợp. Tỉ suất có hiệu quả đạt 92.9%.
5.Kinh nghiệm:
  Giãn tĩnh mạch chi dưới, tây y cho rằng do sự khiếm khuyết của van tĩnh mạch và do vách tĩnh mách mỏng yếu, cộng thêm các nhân tố thường xuyên phải đứng để làm việc, đi bộ nhiều hoặc mang thai.v.v. dẫn đến tĩnh mạch chi dưới hồi lưu bị trở ngại, van tĩnh mạch bị tổn thương mà gây ra. Trung y cho rằng bệnh nầy thường gặp gồm các chứng trạng: chi dưới nặng nề, sưng đau tê mỏi, mệt mỏi mất sức, sắc da thâm…Đây đều là hiện tượng của khí hư huyết trệ. Trung y hiện đại cho rằng bản thân người bệnh làm việc nặng nhọc quá mức, hoặc thất tình nội thương, hoặc do ăn nhiều thức ăn cao lương mỹ vị, dẫn đến chính khí nội hư, khí huyết không thông, khí hư sinh đàm, huyết trệ thành ứ, đàm trọc nội trở, ứ trở mạch lạc mà thành bệnh. Khí hư, khí trệ, đàm ứ, huyết ứ trong cùng một bệnh này đã có sự tác động tạo nên nhân quả của bệnh, ảnh hưởng lẩn nhau, nhưng xem khí hư là căn nguyên của bệnh. Khí hư không đủ lực thúc đẩy huyết dịch vận hành, dẫn đến huyết ứ trở tại mạch đạo, kinh lạc tắc trệ bất thông, vì vậy mà dẫn đến tình trạng hình thành búi tĩnh mạch uốn cong
    Tác giả cho rằng kết cục của khí hư, thực chất là thận khí khuy hư. Trước tiên nên phân tích từ nguên nhân gây bệnh, bệnh náy vốn dĩ do thường xuyên đứng mà làm việc trong thời gian lâu, hoặc người phải đi bộ nhiều, “Tố Vấn thiên Tuyên minh ngũ khí”, nói rằng: “Cử lập thương cốt, cửa hành thương cân” (dịch nghĩa: đứng lâu hại đến xương, đi nhiều hại đến gân. Thận chủ cốt, can chủ cân, thận khí đầy đủ ắt cốt cường (xương rắn chắc khỏe mạnh), thận hư ắt cốt nhược (xương yếu), đứng lâu đi nhiều ắt tổn thương đến Can Thận. Bệnh này thường gặp nhiều ở người già và phụ nữ có thai, người lớn tuổi thận khí suy hư, khi mnag thai nhân khi tinh huyết tập trung để nuối dưỡng thai nhi, thận khí bất túc, do vậy nguyên nhân chính gây ra bệnh này lấy Thận hư lao quyện là chính. Tiếp theo là từ bệnh cơ mà xem xét Thận khí được xem là bộ phận quan trọng được tạo thành từ nguyên khí, sự vận hành của tạng phủ khí huyết đều dựa vào sự thúc đẩy của nguyên khí, khí hư không đủ lực để thúc đẩy huyết dịch vận hành dẫn đến huyết ứ, Vương Thanh Nhậm cho rằng “Nguyên khí đã hư tất không để đạt đến huyết quản, huyết quản vô khí, tất đình trệ mà thành ứ vậy.”Thận chủ hạ giáng, mà Thận hỏa bất túc, hỏa không sinh thổ, ắt Tỳ hư hạ hãm, thăng cử vô lực, huyết cũng theo đó mà hạ hãm, dẫn đến huyết dịch vận hành không thông suốt, ứ huyết mà gây ra trở ngại ở mạch lạc của chi dưới, bệnh này vốn dĩ do Thận khí khuy hư, sự ôn ân thúc khí huyết vận hành không đủ lực. Vì vậy mà cách trị liệu trên nên phải kết hợp giữa bổ Thận với hoạt huyết hóa ứ. Trần Thực Tông trong “Ngoại khoa chính tông” nói rằng: “Ngoại Liêm phần nhiều nên uống Tứ sinh hoàn, nội Liêm nên uống nhiều Thận khí hoàn”. Trong nhóm này trong phương đã đã dùng, thục địa, sơn thù du, đỗ trọng, ngưu tất, tục đoạn, cốt toái bổ để bổ thận mạnh gân gối, đương qui, hống hoa, trạch lan, địa long, xuyên khung, thủy điệt dùng để hoạt huyết hoá ứ, cát căn thăng khí hoạt lạc. Thấp có tình hướng xuống, thấp có tính niêm trệ(dính), vì vậy mà chi dưới bị lở loét khó trị, cơ nhục bì phù tăng trưởng chậm chạp. Vì vậy dùng Hoàng kỳ, sơn dược, phục linh, trạch tả, thương truật để kiện tỳ hóa thấp, ích khí sinh cơ, hoàng bá, đơn bì, bò công anh, bạch tiễn bì, tứ quý thanh để thanh nhiệt giải độc, tiêu sang chỉ dưỡng (tiêu trừ u nhọt và ngứa). Các vị thuốc phối hợp với nhau, sẽ đạt được hiệu quả: ích thận hoạt huyết, giải độc liễn sang.

Tác giả bài viết: TÁC GIẢ: HỒ NHÂN KHUÔNG - BỆNH VIÊN TRUNG Y THÀNH PHỐ ÔN LINH TRIẾT GIANG

Nguồn tin: ThS. Hàn Quốc Việt phiên dịch - KHOA ĐÔNG Y - BV ĐA KHOA HỒNG ĐỨC