Đơn giản là vì cầm đuốc đi ngược gió thì bị lửa tạt vào đốt cháy chính mình, cũng vậy hưởng thụ ngũ dục thì bị lửa ngũ dục thiêu đốt. Sắc, thanh, hương, vị, xúc là món ăn của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nếu sự tương giao giữa căn môn và trần cảnh diễn ra trong sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì phát sinh điều thiện hay giác ngộ giải thoát. Nếu sự tương giao diễn ra trong vô minh ái dục, cụ thể là say mê trong ngũ dục thì đưa đến bất thiện và hậu quả là phiền não khổ đau.
Cũng cần lưu ý phân biệt hưởng thụ ngũ dục với đắm say ngũ dục. Hưởng thụ ngũ dục theo nghĩa biết thưởng thức sắc tướng, âm thanh, mùi vị v.v... một cách đúng đắn và không dính mắc thì vẫn tốt. Chỉ khi say đắm trong âm thanh, sắc tướng v.v... mới thật sự tự hại mình như cầm đuốc đi ngược gió vậy.
Thấy biết của căn môn trên đối tượng trần cảnh dù bị giới hạn vẫn không có lỗi gì, nếu không bị tham, sân, si chi phối hoặc dính mắc vào thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai. Thấy "như nó là" không có nghĩa thấy nó là gìhay như thế nào, mà là thấy với cái thấy như thực, không bị che lấp bởi vô minh ái dục của bản ngã. Lỗi không phải do mắt, tai... thấy nghe... sai mà là thấy nghe qua quan niệm, tư tưởng, thành kiến (nói chung là qua lý trí và tình cảm chủ quan). Khi đối cảnh tâm thận trọng, chú tâm, quan sát ứng ra một cách tự nhiên, hoặc luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì liền thoát khỏi sự chi phối của bàn ngã và thời gian nên sự thấy biết trọn vẹn với thực tại đang là, ngay lúc đó không bị 5 uẩn chi phối. Nên sự thấy biết rỗng lặng, trong sáng, vô ngã đó luôn phản ánh trung thực bản chất của các pháp. Đó chính là thấy biết chân thật.
Theo Tam Tạng Kinh Điển Pāli nguyên thủy thì không có Kinh nào nói đến Phật A-di-đà cả. (Nhưng Đức Phật Thích Ca có thọ ký cho một vị tỳ kheo trong hội chúng của Ngài với lời tiên đoán là vị ấy sẽ thành Phật tương lai hiệu là Di-lặc). Kinh Di-đà xuất hiện đồng thời với sự khởi nguyên của Phật Giáo Đại Thừa, khoảng 600 năm sau Phật Niết-bàn. Kinh Di-đà có nguồn gốc bằng tiếng Sanskrit, ngôn ngữ này được người Bà-la-môn đặt ra phỏng theo ngôn ngữ Pāli hàng trăm năm sau Phật Niết-bàn, nên trong thời Đức Phật chưa có ngôn ngữ này.
Để hiểu thêm về nguồn gốc ngôn ngữ Sanskrit đạo hữu nên đọc cuốn "Pāli is the mother of Sanskrit" của Harbir Angaree (Ngôn ngữ Pāli mẹ đẻ tiếng Sanskrit, Hữu Minh dịch, trên trang phatgiaonguyenthuy.com ). Và để hiểu thêm về pháp môn niệm Phật xin đạo hữu vui lòng xem thêm cuốn " Thiền Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển", phần đối chiếu Pháp môn niệm Phật A-di-đà với Pháp môn niệm Ân Đức Phật trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Con là bác sĩ thuộc giới trí thức, nên thầy tin là con không đến với Đạo Phật chỉ với đức tin mà còn phải đầy đủ tín, tấn, niệm, định, tuệ. Đi chùa hay ở nhà t con thấy sao thích hợp cho sinh hoạt đời sống thực tế của con là được. Mọi việc nên tùy duyên không nên nhất định phải thế này hay thế khác. Cái gì thấy đúng thì làm, thấy sai thì sửa, vạn pháp là vô thường, không nên tạo ra cá tính hay phong cách riêng trong một nếp sinh hoạt tự mình hay do ai định sẵn. Vì như thế hữu ý hay vô tình rơi vào qui trình của bản ngã.
Việc thiền tập định tuệ hay chỉ quán thì con đã nghe thầy giảng rất kỹ ở Sydney vào cuối năm 2009 rồi. Thầy chỉ nhắc lại là định và tuệ luôn đi đôi không thể tách rời được. Ngay trong đời sống hàng ngày con biết sử dụng 3 yếu tố thận trọng, chú tâm, quan sát một cách nhuần nhuyễn tức là đã thực hành giới định tuệ đồng thời. Thiếu một trong 3 yếu tố trên thì sự tu tập sẽ mất thăng bằng, khó có thể giác ngộ giải thoát được. Cũng vậy, tín, tấn, niệm, định, tuệ luôn đi chung và phải thật quân bình, chỉ cần một trong 5 nền tảng đó quá mạnh hay quá yếu thì sự tu tập liền mất thế thăng bằng.
Khi con thực sự sáng suốt, định tĩnh, trong lành một cách tự nhiên thì an lạc tự đến. Nhưng khi con cố gắng lặp lại sự an lạc đó thì bản ngã đã xen vào, lúc đó khó có được an lạc thật sự, và nếu có thì đó cũng chỉ là an lạc của bản ngã, nghĩa là không thật sự an lạc mà chỉ là một sự thoả mãn tham ái mà thôi. An lạc là thứ yếu, Thấy thực tại mới giác ngộ, giác ngộ mới an lạc giải thoát, chứ an lạc không phải là trạng thái sở đắc. Dù con đang phiền não khổ đau nhưng đủ sáng suốt, định tĩnh, trong lành để thấy thực tánh của phiền não khổ đau ấy, thì trong con không còn sự chọn lựa và đối kháng, nên không có tham ái, không bị căng thẳng, nghĩa là tâm vẫn an bình trong hiện tại, đó mới thật sự là an lạc. Con nhớ là chỉ thấy pháp thôi, đừng khởi tâm tìm kiếm lý tưởng để trở thành. Đó là bí quyết sống vô ngã thuận pháp.
Vị đã thực chứng tiến trình tâm Nhập Lưu và Nhất Lai biết 3 kiết sử thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ không thể sanh khởi trong tương lai. Vị Bất Lai biết 3 kiết sử trên cùng với dục ái và sân hận không thể sanh khởi trong tương lai. Cũng vậy, vị Vô Sanh biết 5 kiết sử trên cùng với sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử và vô minh không thể sanh khởi trong tương lai.
Nếu con thực sự muốn làm sao có thể biết điều này thì nên tinh tấn tu tập buông bỏ bản ngã cùng với vô minh ái dục thì sẽ biết ngay. Nhưng nếu con muốn biết chỉ để thoả mãn tính tò mò của lý trí hay muốn tích luỹ kiến thức thì coi chừng trở thành sở tri chướng. Giống như người ăn những món ngon mà không tiêu hoá được thì sẽ chuốc lấy bệnh tật vô cùng nguy hiểm.
37 phẩm trợ đạo chỉ sắp xếp theo thứ tự chi pháp tăng dần thôi chứ không theo thứ tự hành pháp này rồi đến hành pháp kia như con trình bày. Vì mỗi pháp môn sử dụng cho mỗi lãnh vực khác nhau. Tất nhiên những pháp môn này có liên hệ và bổ túc cho nhau nhưng không phải theo trình tự như được sắp xếp.
Theo thầy thì lời dạy của đức Phật dù ở Kinh nào cũng có giá trị cả. Nói cụ thể hơn, mỗi lời dạy có giá trị với mỗi người có căn cơ trình độ thích hợp. Có những vị thông thuộc Tam Tạng nhưng vẫn bị đức Phật gọi "Này tỳ kheo trống rỗng kia!". Ngược lại, có vị nghe chưa hết một câu kệ đức Phật hoặc một vị Thánh Tăng dạy đã đắc Đạo Quả liền. Năm vị Kiều-Trần-Như chỉ nghe bài pháp Tứ Diệu Đế mà vẫn đắc Đạo Quả Vô Sanh, lúc đó đâu đã có Tam Tạng! Kinh Điển chỉ có mục đích giúp chúng ta thấy ra sự thật. Nếu chỉ đọc một bài kinh trong bất cứ tạng nào, bộ nào mà đã thấy ra sự thật thì cứ ngay nơi sự thật đó mà tu thì vẫn được gọi là sống thuận Pháp. Nếu con chưa thấy ra thực tánh thì cứ học hỏi Kinh Điển, nhưng không nên nói Kinh này giá trị pháp học pháp hành hơn Kinh kia, hoặc cho rằng phải học cho hết chữ nghĩa trong Kinh Điển mới tu được, nếu vậy biết bao giờ mới thấy được điều Phật muốn dạy đây? Có câu nói rằng: "Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn" nghĩa là còn chấp ngôn từ thì chưa biết, biết rồi thì không còn chấp ngôn từ nữa. Kinh Điển dù hay cách mấy cũng chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng thôi. Nếu quá say mê chữ nghĩa trong Kinh Điển thì chẳng khác nào mãi chiêm ngưỡng bàn tay đẹp làm sao thấy được mặt trăng!
Phật Pháp tuy vô biên nhưng chỉ có một cốt lõi thôi, ai thấy được cốt lõi đó thì dù không biết nhiều ngôn ngữ Kinh Điển vẫn suốt thông Phật Pháp. Có vị tỳ kheo học ba tháng không thuộc một bài kệ mà vẫn đắc Đạo Quả Vô Sanh, có tuệ vô ngại giải, ấy là vì vị ấy đã thấy ra cốt lõi của Pháp.Thầy chỉ từ nơi câu "Không bước tới không dừng lại Như Lai thoát khỏi bộc lưu" mà thấy Pháp. Từ đó thầy chỉ học sống không bước tới không dừng lại thôi cũng đã thấy Phật Pháp thật thâm sâu vi diệu. Cũng từ đó thầy quên ngôn ngữ Kinh Điển, chỉ sống với Pháp thôi. Nếu con cứ hỏi thầy Kinh Điển thì thầy xin chào thua rồi đó. Có vị thiền sư khi thấy Pháp đã cảm hứng nói lên bài kệ như sau: "Giáo Pháp lưu truyền tám vạn tư, học hành không thiếu cũng không dư, năm nay tính lại chừng quên hết, chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ"
Lậu hoặc gồm: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu (đôi lúc có kiến lậu nữa, nhưng nói gọn lại chỉ còn vô minh, ái dục thôi cũng được). Như vậy trong lậu hoặc đã có vô minh rồi. Cho nên nói "Vô minh sinh ái dục, ái dục sinh vô minh" thì dễ hiểu hơn. Nghĩa là do vô minh, tức không thấy sự thật, mới có tham - sân, ưa - ghét, lấy - bỏ, v.v... Đó chính là ái dục và tạo nghiệp (ái, thủ, hữu). Rồi ái dục, chấp thủ và tạo nghiệp lại làm dày thêm cho vô minh. Do đó nói "Vô minh duyên lậu hoặc, lậu hoặc duyên vô minh" là vậy.
Con nên đọc thêm kinh sách để có nhận thức đúng về Phật pháp. Hiểu đúng đạo lý thì tu tập mới có hiệu quả. Chỉ cần hiểu sai một ly trên giáo lý là tu tập sai đi một dặm. Con có thể vào mục Thư Viện để đọc sách, hay mục Pháp Thoại để nghe giảng ngay trên trang web này. Có điều gì không hiểu thì hỏi ở mục Hỏi Đáp. Con cũng nên xem lại những câu hỏi đáp trong mục này để trau dồi thêm giáo lý.
Nguyên tắc tu tập là luôn biết mình trong từng hành động, nói năng, suy nghĩ. Hễ quên mình là thất niệm, không biết mình là si mê. Không quên mình gọi là chánh niệm, biết mình là tỉnh giác. Hàng ngày hành động, nói năng, suy nghĩ đều chánh niệm tỉnh giác thì sẽ không có phiền não khổ đau. Để dễ thực hiện chánh niệm tỉnh giác con nên tập thận trọng, chú tâm, quan sát trong mọi sinh hoạt thân tâm tức là đã tu tập rất tốt. Đừng nên quá tin tưởng vào tha lực mà sinh ra mê tín dị đoan.