Lậu hoặc gồm: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu (đôi lúc có kiến lậu nữa, nhưng nói gọn lại chỉ còn vô minh, ái dục thôi cũng được). Như vậy trong lậu hoặc đã có vô minh rồi. Cho nên nói "Vô minh sinh ái dục, ái dục sinh vô minh" thì dễ hiểu hơn. Nghĩa là do vô minh, tức không thấy sự thật, mới có tham - sân, ưa - ghét, lấy - bỏ, v.v... Đó chính là ái dục và tạo nghiệp (ái, thủ, hữu). Rồi ái dục, chấp thủ và tạo nghiệp lại làm dày thêm cho vô minh. Do đó nói "Vô minh duyên lậu hoặc, lậu hoặc duyên vô minh" là vậy.
Con nên đọc thêm kinh sách để có nhận thức đúng về Phật pháp. Hiểu đúng đạo lý thì tu tập mới có hiệu quả. Chỉ cần hiểu sai một ly trên giáo lý là tu tập sai đi một dặm. Con có thể vào mục Thư Viện để đọc sách, hay mục Pháp Thoại để nghe giảng ngay trên trang web này. Có điều gì không hiểu thì hỏi ở mục Hỏi Đáp. Con cũng nên xem lại những câu hỏi đáp trong mục này để trau dồi thêm giáo lý.
Nguyên tắc tu tập là luôn biết mình trong từng hành động, nói năng, suy nghĩ. Hễ quên mình là thất niệm, không biết mình là si mê. Không quên mình gọi là chánh niệm, biết mình là tỉnh giác. Hàng ngày hành động, nói năng, suy nghĩ đều chánh niệm tỉnh giác thì sẽ không có phiền não khổ đau. Để dễ thực hiện chánh niệm tỉnh giác con nên tập thận trọng, chú tâm, quan sát trong mọi sinh hoạt thân tâm tức là đã tu tập rất tốt. Đừng nên quá tin tưởng vào tha lực mà sinh ra mê tín dị đoan.
Tận diệt còn gọi là diệt đoạn tận hay tuỵệt diệt nghĩa là chấm dứt hay diệt mất hoàn toàn không còn dư sót. Còn hoại diệt hay biến diệt là diệt dần dần do biến hoại cho đến khi chấm dứt.
Thực ra, niệm Pháp, nhất là niệm Tứ Thánh Đế chỉ có thể thực hiện được khi chánh niệm tỉnh giác đã đến mức trong sáng thuần thục. Nói cách khác, khi tâm con có thể hoàn toàn buông xả, tỉnh thức đủ để tri kiến phát hiện ngay lập tức sự tập khởi của nhân sinh khổ và hậu quả khổ đau của nó. Đồng thời, thấy sự đoạn diệt của phiền não khổ đau khi nhân sinh khổ không tập khởi. Nếu sự kiện thấy biết này xẩy ra còn yếu thì chỉ mới khai mở những tuệ tri thấp, nhưng nếu sự thấy biết này đúng mức thì đó là lúc có thể thực chứng Đạo Quả.
Niệm Pháp Tứ Diệu Đế đúng mức thường tự đến lúc tâm hội đủ yếu tố Đạo Đế, nên ít ai tự ý niệm Pháp này vì không thể niệm theo kiểu suy diễn từ kiến thức giáo lý kinh điển mà phải thấy trực tiếp. Muốn vậy, thường hành giả khởi đầu bằng niệm thân, khi tâm vi tế hơn có thể thấy thọ thì niệm thọ, thấy tâm thì niệm tâm. Khi niệm mà con thấy được sự tương quan sinh diệt của thân - thọ - tâm chứ không còn phân ra từng đối tượng biệt lập nữa, đó chính là lúc niệm Pháp tự đến và con sẽ niệm Pháp một cách dễ dàng. Hãy phát hiện thái độ của tâm con thế nào hơn là chọn đối tượng gì để niệm một cách chủ quan.
Chính vì nhiều người bị "nhiễu sóng" do đã quá lệ thuộc vào màu sắc, âm thanh, hương thơm, vị ngon, và sự xúc chạm êm ái, nên mới ý thức được sự cần thiết của giới bát quan trai để giúp họ thoát dần ra sự trói buộc này. Nếu sự trói buộc này cứ tiếp tục thì con không thể nào tự tại an lạc được. Nếu có thì đó là sự thoả mãn có điều kiện mà thôi. Con biết mình có bị "nhiễu sóng" là được rồi, đừng quan tâm đến việc loại trừ nó. Hãy để nó tự sinh tự diệt, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi. Coi chừng càng cố gắng loại trừ nó con càng nuôi dưỡng nó lâu dài hơn đó.
1) Con nói đúng. Trong phần niệm Pháp đều có thân, thọ và tâm, ví dụ như niệm pháp về 5 uẩn. Chỉ khác ở chỗ là khi niệm thân, thọ, tâm thì ba đối tượng thân, thọ, tâm được tách riêng để niệm đối tượng nào thì chỉ niệm đối tượng đó thôi. Còn niệm pháp thì thấy cả ba trong quá trình diễn biến tương giao của chúng. Tuy nhiên ở đây không nói pháp một cách chung chung mà chỉ nhấn mạnh đến: 5 triền cái, năm uẩn, 12 xứ, Thất Giác Chi, Tứ Diệu Đế mà thôi.
2) Quán vô thường ở đây có nghĩa là trong khi thở thấy ra tánh vô thường ngay nơi mọi diễn biến vô thường của động tác thở hoặc trạng thái thở. Nhớ rằng tứ "quán" này không có nghĩa là suy gẫm về ý nghĩa của sự vô thường, mà là thấy biết trực tiếp tính chất vô thường ngay nơi sự thực tại hiện tiền..
1) Thực tánh xuất hiện khi thấy biết hoàn toàn lặng lẽ trong sáng, không bị một khái niệm nào của lý trí xen vào. Con có thể học và hiểu thực tánh là gì nhưng đó chỉ là khái niệm về thực tánh chứ không phải thực tánh. Nhiều người do học hiểu Phật Pháp rất rành rẽ nên khi hành thiền đã bị cái hiểu đó đánh lừa, tưởng đã thấy tánh mà thực ra đó chỉ là phóng ảnh của khái niệm, vì hiểu vẫn còn qua khái niệm của thức tri, chưa phải là tuệ tri làm sao thấy được thực tánh! Con cần lưu ý một điều là không phải con thấy, nên đừng cố gắng để thấy hay để "chắc chắn rằng mình đã thấy đúng thực tánh hay chưa?". Vì càng nỗ lực để thấy càng không thể thấy thực tánh. Nhưng ngay khi buông ra mọi ham muốn tìm kiếm một sự xác định thực tánh thì thực tánh liền xuất hiện.
2) Điều quan trọng không phải là cần hay không cần một thiền sư, mà là con có thực sự thông suốt được thiền quán là gì hay không. Khi con không thông suốt được thiền quán là gì làm sao con biết được sách nào và thiền sư nào nói đúng để hành theo? Con có thể nghiên cứu kinh sách hay tham vấn nhiều vị thiền sư, nhưng chính con phải thấy ra thiền thật sự là gì, nếu không mọi phương pháp hành trì thiền quán đều vô ích. Đặc biệt trong thiền quán Vipassanà thấy tức là hành chứ không áp dụng một phương pháp nào để hành cả. Thấy là tánh biết thấy trực tiếp ngay lập tức không thể thấy qua phương pháp nào được. Vậy hãy thận trọng đừng vội áp dụng bất cứ phương pháp nào để hành cả.
Nếu mọi người giữ được tâm như con trẻ mà soi chiếu vạn pháp, không để cho bản ngã cùng với tham sân si xen vào can thiệp thì sẽ chánh niệm tỉnh giác tốt nhất, và dễ dàng giác ngộ giải thoát nhất. Nhưng ba bốn tuồi trở lên thì trẻ đã bắt đầu hình thành bản ngã và tăng trưởng vô minh ái dục do đó không thể giác ngộ giải thoát được. Thực ra, tâm trẻ sơ sinh là tâm quả vô nhân nên dù có trong sáng vẫn không phải là tâm hữu nhân nên không giác ngộ được. Tuy nhiên nếu trẻ được dạy cách sử dụng sự trong sáng đó một cách hữu nhân thì vẫn giác ngộ được, như trường hợp nhiều trẻ đã được đức Phật khai ngộ đạt quả vị Alahán khi chỉ mới 7 tuổi. Chính đức Phật sau bao năm hành thiền định và khổ hạnh không kết quả đã nhớ lại tâm trẻ thơ của mình lúc dự lễ hạ điền với vua cha để sử dụng thành pháp thiền quán chiếu Vipassanà và đắc Đạo Quả Vô Thượng Bồ-đề ngay trong đêm đó.
Giới là điều học, lẽ ra con nên lấy đó để tự chiêm nghiệm học hỏi, sao lại đi hỏi thầy. Giới giúp chúng ta điều chỉnh hành vi tinh tế ở từng trường hợp cá biệt của mỗi người, vì vậy mỗi người nên cân nhắc kỹ lưỡng và thận trọng trong hành vi đạo đức của mình chứ không nên rập khuôn theo ai khác.
Tình huống chỉ là hoàn cảnh bên ngoài, nên dù bất cứ tình huống nào thì cốt lõi đạo đức mới là trọng điểm vì nó là nguyên lý chứ không phải hình thức luật lệ. Vậy nguyên lý này là gì? Tất cả "quan hệ" nam nữ được gọi là tà dâm khi đó là hành động cưỡng ép, bất chính, trái với lương tâm, chỉ để thoả mãn nhục dục, hại mình hại người. (Bất chính là quan hệ với người khác phái không phải hay không còn là vợ mình).
Con có thể chỉ bất cứ cái gì nó cũng đều là chân không và diệu hữu cả. Vì vậy có câu: "Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không". Nếu có thì giờ con mở qua mục Thư Viện tìm cuốn Thực Tại Hiện Tiền, trong đó thầy đã nói về chân không diệu hữu rất rõ. Tuy nhiên điều này con không nên tìm hiểu bằng lý trí, kiến thức; cứ lắng nghe, quan sát và chiêm nghiệm rồi con tự thấy ra mới thật là hứng thú.