Làm đẹp luôn là nhu cầu cần thiết của chị em, người phụ nữ không chỉ đẹp cho mình mà là đẹp cho cả “nửa kia” và cho xã hội....
Xúc sa nhân cùng bạch đậu khấu công hiệu giống nhau, đều dùng lý khí, ôn trung, hương thơm nên hóa thấp, khai vị tiêu thực....
Thạch hộc và thiên hoa phấn sinh tân, chỉ khát, dưỡng âm, thanh nhiệt, ích tỳ, nhuận phế. Cho nên phế, tỳ, tân dịch khuy hư thường dùng phối hợp 2 vị này....
Nguyên hoa và khiên ngưu (bìm bìm) đều đắng, hàn, có độc, đều có công dụng trục thủy, tiêu đàm. Nhưng nguyên hoa khinh dương, tả thủy lực rất mạnh, sở trường trục nước tụ ở bụng và sườn, kiểu chữa bệnh ghẻ lở và bệnh da vàng....
Lục đậu và xích tiểu đậu đều thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy cho nên dùng chữa chứng sang, thũng độc, thường phối hợp để chữa bệnh thủy thũng....
Lô căn thanh nhiệt, sinh tân dịch, lợi tiểu cùng với mao căn, công dụng gần giống nhau. Nhưng mà lô căn (rễ cây sậy) chuyên thanh nhiệt ở khí phận. Cho nên nó là thuốc thanh nhiệt, tà hỏa....
Khổ sâm và tần bì đều là vị thuốc thanh nhiệt, táo thấp, và thanh nhiệt táo thấp rất hay, chữa khỏi bệnh lỵ....
...
Đại thanh diệp thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cùng với thanh đại công dụng gần giống nhau....
Ích chí nhân cùng bổ cốt chi đều bổ thận tráng dương, ôn tỳ chỉ tả, cố tinh xúc tuyền, dùng chữa tỳ, thận dương hư. Nhưng ích chí nhân ôn bô tỳ dương làm chủ yếu, ôn tỳ tán hàn thắng hơn là ấm thận....
Tô tử cũng đình lịch tử đều có khả năng khử đàm, giáng khí, chỉ khái, bình suyễn. Cho nên dừng chữa bệnh đàm ủng,suyễn, ho, thường phối hợp sử dụng....
Tâm thất phấn và huyết dư thán, đều có tác dụng chỉ huyết tiêu ứ, và là yếu dược. Có khả năng dùng chữa nhiều chủng loại xuất huyết....
Thạch lựu bị cùng xuân căn bỉ đều là những vị thuốc sáp tràng, chỉ tả, chỉ lỵ, chỉ huyết, sát trùng....
Thạch cao và tri mẫu đều là thuốc thanh nhiệt giáng hỏa thanh thực nhiệt ở phế, vị, khí nhiệt, tân thương. Thường cùng phối hợp dùng....
Trúc lịch ngọt, hàn, chất hoạt, hoạt đờm, lợi cũng sở trường là thông kinh, tìm tòi kiểm tra các kinh lạc, lại là mãnh tướng trong việc lương phế. Trong điều trị thiên về tâm, phế, vị kinh....
Tang bạch bì cùng mã dâu linh, đều có công dụng thanh phế hòa đàm, chỉ khái, lợi thủy. Nhưng tang bạch bì ngọt, hàn, thanh đàm, vào phế, tỳ kinh, chuyên dùng tả phế lợi thủy, hay dùng chữa tả hỏa trong phế, thanh đàm ở trong phế, cho đến nước ở ngoài bì....
Sài hồ và Cát căn đều là vị thuốc thăng dương, phát tán biểu tà, Trong lâm sàng thường dùng phối hợp. Nhưng trong thực tế hai vị thuốc này công dụng không giống nhau, cần được xem xét kỹ trong sử dụng....
Quy bàn tư âm, tiềm dương vào can thận hai kinh, cho nên dùng chữa âm hư, dương cang, hư phong nội động gây các chứng nhức đầu hoa mắt, tai kêu như ve sầu, bán thân bất toại....
Ngải diệp cùng nhục quế đều có công dụng làm ấm hạ tiêu khí huyết, trục hàn thấp, điều kinh chỉ thống. Nhưng ngải diệp cay ôn kiêm vào tỳ kinh, tính ôn ấm mà không mãnh liệt, không những ôn thông khí huyết, điều kinh, mà còn cầm huyết, an thai....
Ma hoàng và hương nhu đều là vị thuốc phát hãn, lợi thủy. Nhưng ma hoàng sở trường dùng phát tán, phong hàn tà vào cuối mùa đông. Còn hương nhu thì phát tán khí lạnh trong nắng nóng. Ma hoàng lợi thủy ở phổi, mở quy môn....