Nhục quế là chỗ gần gốc, rất dày, để chữa chứng bệnh ở hạ tiêu, Quan tức là phần giữa, dày vừa, để chữa bệnh ở trung tiêu, Chi tức là chỗ đầu cành nhỏ để chữa bệnh thượng tiêu, đó là căn cứ vào lẽ: Trời thì dẫn tới trên, đất thì vào phần dưới.
Mọc một bên là Phụ tử, tròn to, bằng và ngay thẳng, nặng chừng một lạng trở len thì được dược lực đầy đủ, là tốt: Ô đầu, Trắc tử, Thiên hùng, Ô đầu nhuế đều cùng một nơi xuất xứ mà khác tên
Ngâm rửa bằng nước vo gạo, rút bỏ lõi, nấu nước Cam thảo thật đậm lấy nước để nấu với nó, phơi khô để dùng.
(Cái to gọi là Mẫu đinh hương, nhổ cái râu trắng đắp vào trong lỗ chân râu thì mọc ra râu đen, dùng vào thuốc rất hay. Đực thì nhỏ là Đinh hương, cái thì to là Mẫu đinh hương)
Ngày xưa làm thuốc, mỗi thang đều phải gia khương táo vào là ý nghĩa thận trọng giữ gìn vị khí, nhưng có chỗ nên dùng, có chỗ kiêng kỵ khác nhau
Chữa mọi thứ ác sang, thũng độc, đột nhiên đau ở các kinh, bụng dạ đau thắt, 9 loại đau nhức, kiết lỵ ác chứng, đau phong như nạo ruột, đau nhức khác thường, tác dụng bảo hộ tâm, thông hoạt huyết, giải độc sinh cơ, trong khoa sản cũng dùng được.
Khí hòa bình, vị đắng nhiều ngọt ít, tính hàn, không có độc, chìm mà giáng xuống, thuốc âm dược, vào kinh Thủ quyết âm, Hương phụ làm tá
Vị đắng cay, tính ấm, không có độc, là thuốc dương trong âm dược, đi vào huyết phận 2 kinh tâm can
Vị cay tính ấm không có độc, thăng được, giáng được, là thuốc dương trong âm dược, vào kinh Túc quyết âm và Thủ thiếu âm. Có sách nói vào tỳ vị
Vị ngọt, tính ấm, không có độc, khí vị đều hậu, là thuốc âm trong dương dược, vào can kinh, sợ nhân sâm
"Phàm chế thuốc cốt ở chỗ vừa phải, bất cập thì khó công hiệu, thái quá thì hiệu lực giảm đi mà trái với khí vị"
Trấn can lương huyết, điều hòa trường vị, bổ đởm tả tâm, ráo chất thấp, khai uất, trừ phiền, giải khát, sát trùng trừ giun, lợi thủy sáng mắt,
Vị đắng tính bình, đại hàn, không độc, thuộc âm dược, thăng được, giáng được, vào các kinh Thủ thái âm, thủ thiếu âm, thủ thái dương, thủ dương minh, cũng vào cả kinh Túc thái dương.
Thanh phế hỏa, giải uất kết, trừ vị nhiệt, ụa ói phát vàng, làm mửa hết độc địa ở thượng tiêu, trừ chứng buồn bực trong tâm, chứng mất huyết, mất tân dịch, trung tiêu khô, nhiệt ở trong, mũi đỏ, chảy máu cam, phong đàm, đầu choáng, mắt đỏ, mặt đen.
Chữa bụng lạnh đau xoắn, chứng sán khí, trường phong, cước khí, trị hoắc loạn ho nghịch, họng và ngực no đầy.