Đái dầm đông y gọi là Dạ niệu hay Niệu sàng, xảy ra trong trạng thái đêm ngủ đái không tự chủ được thường gặp ở trẻ nhỏ nhiều hơn nên có tên gọi Tiểu nhi di niệu....
Theo y học cổ truyền, hy thiêm thảo có vị cay, đắng, tính mát, có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, trừ thấp, giảm đau, lợi gân xương....
Cây dướng là loại cây mọc hoang, thấy nhiều tại các tỉnh phía Bắc của nước ta. Một số nước trên thế giới cũng có cây dướng như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Lào và Indonesia......
Đông y cho rằng, ích mẫu có vị cay đắng, tính mát, đi vào kinh can và tâm bào nên có tác dụng hoạt huyết, khứ ứ, sinh tân (thải huyết ứ, sinh huyết mới), tiêu thủy nên còn là thuốc có tác dụng chữa kinh nguyệt không đều......
Theo Đông y, đậu đen tính hơi ôn, vị ngọt, quy kinh thận, có tác dụng trừ thấp giải độc, bổ thận, bổ huyết, bồi bổ cơ thể....
Trong đậu đen có chứa các chất như glucid 53%, protein 24%, lipid 1,7%, các vitamin A, B1, B2, PP, C; giàu acid amin: lysin, tryptophan, phenylalanin, threonin, valin, leucin, isoleusin, arginin, histidin; Các nguyên tố vô cơ: Ca, P, Fe…có tác dụng bồi bổ sức khỏe, tăng cường sức lực,......
Tỏi đã được khoa học chứng minh là có tác dụng hạ mỡ máu, hạ huyết áp và tim mạch, chống ung thư…...
Thiên nam tinh và đởm nam tinh đều là vị thuốc táo thấphóa đàm, trừ phong, ổn định bệnh lên kinh....
Quất bì cùng quất hồng ở một thứ quả mà ra. Công hiệu giống nhau, đều có công dụng lý khí, táo thấp, hóa đàm....
Như "Phổ tế phương" trị chứng kinh bế của phụ nữ. Dùng một dược phối hợp với đương quy mỗi vị một đồng, tán mạt, hồng hoa tẩm rượu, uống mỗi ngày một lần....
Ma hoàng căn cũng phù tiểu mạch đều có công dụng cố biểu liễm hãn; dùng chữa biểu hư tự hãn, đạo hãn. Nhưng ma hoàng căn kiêm chỉ khái, chỉ suyễn mà phù tiểu mạch kiêm ích khí, dưỡng âm, thanh nhiệt, trừ phiền....
Hồng hoa và đào nhân đều khứ ứ, thông kinh, tiêu thũng chỉ thống. Nhưng hồng hoa chất nhẹ thăng lên, chạy ra ngoài đưa tới đỉnh cao, thông kinh, đạt lạc. Nên nó là thuốc khí dược trong huyết....
Hương duyên và chỉ xác đều có công dụng lý khí, chỉ thống hành đàm...
Kinh giới và Phòng phong đều thuộc về thuốc cay, ôn giải biểu, đều có khả năng khu phong phát biểu và vào huyết phận, đều có khả năng cầm máu....
...
Đông hoa cùng từ uyển đều nhuận phế hóa đàm, chỉ khái; không kể gì hàn, nhiệt, hư, thực, khái nghịch đều dùng được cả....
Tây thảo đã lương huyết chỉ huyết, lại hóa ứ chỉ huyết. Thích ứng dùng cho các chứng bệnh huyết nhiệt cứ sinh các chứng xuất huyết....
Thục địa công dụng như thủ ô, đều tư âm dưỡng huyết bổ can, ích thận. Mà cũng chứng can thận âm huyết khuy nhược thường dùng đến....
Thạch lựu bị cùng xuân căn bỉ đều là những vị thuốc sáp tràng, chỉ tả, chỉ lỵ, chỉ huyết, sát trùng....
Hạnh nhân và qua lâu nhân đều có khả năng hóa đàm, lợi khí, chỉ khái, bình suyễn, nhuận tràng, thông tiện. Nhưng hạnh nhân đắng, ôn, đắng thì giáng, ôn thì tán, sở trường vào phế, giáng khí chỉ khái bình suyển - chữa ho, suyễn thường hay dùng đến....