KHÔNG THỤ THAI
( Bất Dựng )
Con gái sau khi lập gia đình mà chưa sinh đẻ lần nào hoặc sau khi một lần rồi sau đó không thụ thai được nữa, đều gọi là Không Thụ Thai.
Trường hợp trước gọi là "Vô tử’ (Mạch Kinh), Toàn bất dựng" (Thiên Kim Yếu Phương), trường hợp sau gọi là ' Đoạn tử (Thiên Kim Yếu Phương), Đoạn Phát Tính Bất Dựng Chứng.
Ngày xưa, chứng này được coi là một chứng rất quan trọng đối với phụ nữ, vì phụ nữ nào không có con, bị coi là có ‘tội’ với nhà chồng.
Tương đương chứng ‘Vô Sinh’ của YHHĐ.
Nguyên Nhân
+ Do bẩm sinh tiên thiên. Do những yếu tố dị thường ở một số cơ quan sinh sản: Không có tử cung, lệch tử cung, tắc ống dẫn trứng…
Ngày xưa vì bẩm sinh mà không thai nghén, cổ nhân chia ra làm 5 loại: Loa, Giảo, Cổ, Giác, Mạch, tương tự trong y học hiện đại là Hẹp xương chậu, Dị dạng âm dạo, Dị dạng âm hộ (Màng trinh dày), Ái nam ái nữ, vô sinh nguyên phát (Nhi hóa tử cung)…
Sách ‘Nữ Khoa Yếu Lược’ cho rằng: Đàn bà không con vì kinh nguyệt không đều, sở
dĩ kinh nguyệt không đều vì thất tình tổn thương ở trong, khí lục dâm quấy nhiễu ở ngoài, hoặc khí huyết không điều hòa, âm dương thiên thắng mà sinh ra. Điều này cho thấy nguyên nhân ở trong và ngoài đã tạo ra chứng không thụ thai.
Cũng có thể do âm dương không hòa hợp, thích ăn nhũng thứ chua lạnh cũng tạo ra chứng không thai nghén. Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ nhận định “Đàn bà nhiều đàm không con, tử cung lạnh không con, chất uế trọc ngưng kết, đới hạ cũng không con”.
Trên lâm sàng thường gặp một số nguyên nhân sau:
+ Do Thận Hư: Do tiên thiên bất túc hoặc sinh hoạt tình dục quá mứ làm tổn thương Thận khí, mạch Xung Nhâm bị hư suy không hoá được khí, không hành được thuỷ, hàn thấp ứ trệ ở mạch Xung Nhâm, thấp ngừng trệ ở bào mạch, không thể thụ thai được. Hoặc vào kỳ kinh bị cảm hàn, hàn tà xâm nhập vào Thânh, làm tổn thương đến mạch Xung Nhâm, hàn khách ở bào trung, khiến không thể thụ thai.. hoặc do sinh hoạt tình dục quá độ làm hao tổn tinh huyết, Thận âm suy tổn, mạch Xung Nhâm có ít huyết, không thể thụ thai được.
Như vậy, âm huyết bất túc, âm hư nội nhiệt, nhiệt phục ở trong mạch Xung Nhân, nhiệt vào huyết hải… khiến cho tinh khí không tụ lại được nên không thể thụ thai.
+ Do Can Uất: Do tình chí không thoải mái, Can khí uất kết, mất chức năng sơ tiết, huyết khí không hoà, mạch Xung Nhâm không điều hoà, khiến cho tinh không tụ lại được, vì vậy không thể thụ thai được.
+ Do Đờm Thấp: Cơ thể vốn mập mạp, hoặc ăn nhiều cao lương mỹ vị, đờm thấp sinh ra ở bên trong, làm ngăn trở khí cơ, khiến cho mạch Xung Nhâm không đều, mỡ nhiều quá làm ngăn trở bào cung. Hoặc Tỳ mất chức năng kiện vận, ăn uống thất thường, hàn thấp bên trong sinh ra, thấp trọc dồn xuống hạ tiêu, làm ngăn trở mạch Xung Nhâm. Thấp tụ lại ở Bào cung khiến cho tinh khí không tụ lại được khiến cho không thể thụ thai được.
+ Do Huyết Ứ: Sau khi hành kinh, kinh không ra hết, lại gặp lạnh hoặc sinh hoạt tình dục, tà khí và huyết tranh nhau, ứ trệ lại ở bào mạch, tinh khí không tụ lại được nên không thể thụ thai.
Chẩn Đoán
+ Dựa vào bệnh sử: Kinh nguyệt không đều, bị bệnh đới hạ, thai sản dị thường.
+ Dựa vào bệnh chứng: Lập gia đình đã hai năm mà chưa thụ thai.
Phép Trị
Nên tìm hiểu nguyên nhân bệnh của nó như thế nào, phân biệt hàn nhiệt, tùy chúng để trị.
Nếu kinh nguyệt không đều, thì chú ý điều kinh, tuỳ theo chứng mà trị. Nếu thiên về hư hàn nên bổ hư ôn trung. Huyết hư có nhiệt nên tư âm thanh nhiệt. Nếu vì thấp đờm thì táo thấp hóa đờm. Nếu do ứ huyết nên hành huyết, trục ứ. Nếu có khí uất, nên lý khí, giải uất.
Chủ yếu là phải trị ở gốc bệnh thì mới có thể thụ thai.
Trong thời gian điều trị, tránh lao động quá sức, ăn uống điều độ, đầy đủ, kiêng bớt sinh hoạt tình dục, giữ tinh thần thoải mái thì mới có khả năng thụ thai.
Triệu Chứng
+ Hư Hàn: Trong kỳ kinh màu kinh nhạt và ít, bụng dưới lạnh đau, tử cung lạnh, không thể thụ thai.
Điều trị: Tán hàn, noãn cung.
Có thể dùng Ngải Phụ Noãn Cung Hoàn (Thẩm Thị Tôn Sinh): Ngải diệp 90g, Hương phụ 180g (nấu 1 đêm ngày với 5 tô giấm, quết nhừ, dùng lửa nhỏ sấy khô), Đương quy 90g, Tục đoạn 150g, Ngô thù, Xuyên khung, Bạch thược, Hoàng kỳ đều 60g, Sinh địa 30g, Quan quế 15g. Tán bột, trộn giấm hồ bột làm viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 50 - 60 viên, với nước sôi pha giấm, cách xa bữa ăn.
Ôn Thổ Dục Lân Thang (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Ba kích nhục (bỏ tim, tẩmrượu), Phúc bồn tử (tẩm rượu chưng) đều 30g, Sơn dược (sao), Bạch truật (sao khử thổ), đều 15g, Nhân sâm 9g, Thần khúc (sao) 4g, sắc uống.
Ôn Thận Hoàn ( Thẩm Thị Tôn Sinh): Thục địa, Thù du nhục đều 90g, Ba kích 60g, Đương quy, Thỏ ty tử, Lộc nhung, Ích trí nhân, Sinh địa, Đỗ trọng, Phục thần, Sơn dược, Viễn chí, Tục đoạn, Xà sàng tử đều 3g. Tán bột, trộn với mật làm thành viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 12g với rượu nóng.
Nếu không cố nhiếp được tinh nên tăng thêm Lộc giác, thêm Long cốt, Mẫu lệ.
Hóa Thủy Chủng Tử Thang (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Ba kích 30g (tẩm nướcmuối), Bạch truật 30g, Nhân sâm 9g, Thỏ ty tử 15g, Khiếm thực, Phục linh đều 15g, Xa tiền tử (sao rượu) 60g, Nhục quế 3g. Sắc uống.
+ Chứng Nhiệt: Nóng âm ỉ trong xương do hư lao, sốt về chiều, kỳ kinh không đều, lượng kinh ít.
Điều trị: dùng bài Thanh Cốt Tư Âm Thang (Trung Y Phụ Khoa Học): Mẫu đơn bì, Mạch môn đông (bỏ lõi), Huyền sâm (rửa rượu), Sa sâm đều 15g, Bạch truật (sao, khử thổ) 9g, Thạch hộc 6g, Ngũ vị tử 1,5g. Sắc uống.
Thương Truật Đạo Đờm Thang (Phụ Khoa Ngọc Xích): Thương truật (chế),Hương phụ (chế) đều 60g, Nam tinh, Bán hạ, Chỉ xác, Xuyên khung, Thần khúc đều 30g, Hoạt thạch phi 120g, Trần bì, Phục linh đều 45g. Tẩm nước Gừng, làm thành viên viên uống.
+ Thấp Đờm: Kinh nguyệt không đều, mầu kinh nhạt, lượng nhiều, có thể béo, chóng mặt, hồi hộp, đới hạ, nhạt miệng, rêu lưới nhờn.
Hậu Phác Nhị Trần Thang (Thiên Kim Yếu Phương): Phác tiêu, Mẫu đơn,Đương quy, Đại hoàng, Đào nhân đều 9g, Hậu phác, Cát cánh, Nhân sâm, Xích thược, Phục linh, Quế tâm, Cam thảo, Ngưu tất, Quất bì đều 6g, Phụ tử 18g, Mang trùng, Thủy điệt, mỗi thứ 1 0 con. Tán bột, dùng rượu tốt và nước, mỗi thứ 5 tô sắc còn 3 tô, chia 4 lần uống. Ngày 3 lần, đêm 1 lần, cách 3 giờ uống 1 lần, uống xong trùm mền nằm cho ra mồ hôi. Mùa đông thì ngồi cạnh lò sưởi cho nóng.
+ Ứ Huyết: Đã nhiều năm không thụ thai, kinh nguyệt đến sau kỳ, lượng kinh ít hoặc nhiều, mầu kinh đỏ tối, có máu cục, hoặc kinh ra không dứt, khi có kinh kém vui vẻ, bụng dưới đau, ấn vào đau hơn, trước khi hành kinh thì đau, da thịt khô táo, mắt sẫm đen, lưỡi đỏ tím, rìa lưỡi có điểm ứ huyết, mạch Huyền Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, hoá ứ, ôn kinh, thông lạc. Dùng bài Thiếu Phúc Trục Ứ Thang (Y Lâm Cải Thác): Tiểu hồi, Can khương, Diên hồ sách, Một dược, Đương quy, Xuyên khung, Nhục quế, Xích thược, Bồ hoàng, Ngũ linh chi.
(Tiểu hồi, Can khương, Nhục quế ôn kinh, tán hàn; Đương quy, Xuyên khung, Xích thược dưỡng huyết, hoạt huyết, hành ứ; Một dược, Bồ hoàng, Ngũ linh chi, Diên hồ sách hoạt huyết, hoá ứ, chỉ thống).
Nếu huyết ứ lâu ngày hoá nhiệt, thấy bụng dưới đau rát, ấn vào đau, kinh nguyệt ra nhiều, mầu đỏ tối, dính, có hòn cục, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác. Dùng phép thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, hoá ứ. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang thêm Hồng đằng, Bại tương thảo, Ý dĩ nhân, Kim ngân hoa.
Nếu kèm huyết hư, váng đầu, hoa mắt, hoảng sợ, ít ngủ. Dùng phép dưỡng huyết, hoạt huyết. Dùng bài Điều Kinh Chủng Ngọc Thang (Vạn Thị Phụ Nhân Khoa): Quy thân, Xuyên khung, Thục địa, Hương phụ, Bạch thược, Phục linh, Trần bì, Ngô thù du, Đơn bì, Diên hồ sách (Trong bài có Tứ Vật Thang (Khung, Quy, Thục, Thược) để dưỡng huyết, điều kinh; Phục linh, Trần bì kiện Tỳ, hoà Vị; Hương phụ, Đơn bì, Diên hồ lý khí, hoá ứ, chỉ thống; Ngô thù du ôn thông huyết mạch).
+ Khí Uất: Thất tình tổn thương làm kinh không đều, tâm thần kém vui, bụng tức sườn đau, hồi hộp, tinh thần mỏi mệt.
Dùng bài Điều Kinh Chủng Ngọc Thang (Cổ Kim Y Giám): Thục địa, Phụ tử (sao) đều 18g, Quy thân (rửa rượu), Ngô thù du, Xuyên khung đều 12g, Bạch thược dược, Bạch Phục linh, Trần bì, Diên hồ sách, Mẫu đơn bì, Can khương đều 9g, Quan quế, Thục ngải đều 6g. Thuốc trên chia ra 4 phần, mỗi phần thêm 3 lát gừng sống sắc uống lúc đói. Đợi đến ngày có kinh mới uống, mỗi ngày một phần.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn