HUYẾT ÁP CAO
Áp Huyết Cao - Hypertension - High Blood Pressure
A- Đại Cương
- Huyết áp cao là danh từ để chỉ trạng thái tăng áp lực của máu trong động mạch.
- Danh từ này do YHHĐ đặt ra căn cứ trên phát hiện của áp huyết kế ( máy đo huyết áp).
- YHCT trước đây không có danh từ huyết áp cao nhưng có những tên gọi như Huyễn Vựng (Vậng ), Can Dương Vượng... mà nội dung rất gần với các chứng trạng của bệnh Huyết áp cao.
- Huyết áp cao là bệnh có tỉ lệ mắc bệnh cao :
+ Châu Âu và Bắc Mỹ : 15 - 20 %.
+ Việt Nam : 6 - 12 %
( Theo thống kê của sách ‘ Bách Khoa Thư Bệnh Học 1990 ).
- Bệnh biến đổi thường xuyên :
+ Thay đổi trong ngày : ( ban đêm ít ( thấp ) hơn ban ngày ).
+ Theo tuổi : lớn tuổi bị nhiều hơn trẻ tuổi.
+ Theo giới : nam bị nhiều hơn nữ.
- Muốn biết rõ chính xác huyết áp cao cần phải dùng máy đo huyết áp ( huyết áp kế ).
- Khi đo huyết áp ta sẽ ghi nhận được 2 trị số :
+ Trị số HA tối đa ( còn gọi là HA Tâm Thu ) : tượng trưng cho áp lực máu trong động mạch lúc tim co bóp.
+ Trị số HA tối thiểu ( còn gọi là HA Tâm Trương ) : tượng trưng cho áp lực máu trong động mạch lúc tim dãn ra. Số tối thiểu này còn cho ta biết rõ về sức kháng của các động mạch nhỏ trong cơ thể.
Theo tổ chức Y Tế thế giới ( OMS - WHO ), một người được coi là huyết áp cao khi HA tối đa lớn hơn 140mmHg và HA tối thiểu lớn hơn 90mmhg. HA trung bình là 120/80 mmHg ( theo OMS) và 110/70 ( theo Viện Thống Kê Sinh Học Việt Nam ).
Tuy nghiên cũng cần lưu ý là đối với người lớn tuổi HA bình thường hơi tăng 1 ít do sức đàn hồi của mạch máu bị giảm. Một người bình thường trên 50 tuổi HA 160/90mmHg được coi là bình thường.
Ngoài ra, còn có loại HA cao sinh lý :
+ Buổi sáng HA hơi hạ, khi ăn no, có xúc cảm, sau buổi lao động, sau khi suy nghĩ căng thẳng...HA có hơi tăng một ít.
+ Phụ nữ có thai hoặc đang có kinh nguyệt, HA cũng hơi tăng.
B- Bệnh Danh
- YHHĐ trước đây gọi chung là HA cao, gần đây, dựa trên sinh lý học, các nhà nghiên cứu đè xuất nên gọi là HA tăng hoặc tăng HA.
- YHCT trước đây không có tên gọi là HA cao nhưng hiện nay giới YHCT cũng đã quen dần với tên gọi : HA cao, HA tăng.
C- Phân Loại
1- Theo YHHĐ.
Có nhiều cách phân loại khác nhau :
a- Dựa vào 2 trị số Tối Thiểu và Tối Đa, người ta chia ra làm 2 loại sau:
+ HA Cao Thể TÂM THU : khi chỉ có HA tối đa tăng cao, HA tối thiểu vẫn ở trong giới hạn bình thường. Thí dụ : 170/80mmHg, 195/80mmHg...
+ HA Cao Thể TÂM TRƯƠNG : khi cả 2 trị số HA tối đa và tối thiểu tăng cao hơn bình thường. Thí dụ : 180/95mmHg, 195/100mmHg...
Dựa vào sự tăng của HA tối thiểu, các nhà nghiên cứu có thể xếp loại mức độ nặng nhẹ trong bệnh HA tăng như sau :
* HA cao nhẹ ( giai đoạn 1 ) : HA tối thiểu 90 - 104mmHg
* HA cao trung bình ( giai đoạn 2 ) : HA tối thiểu 105 - 114mmHg
* HA cao nặng,trầm trọng ( giai đoạn 3 ) : HA tối thiểu 115mmHg.
b- Một số tác giả dựa vào tính chất nặng nhẹ, lành tính, ác tính mà chia ra như sau :
+ HA cao thường xuyên, có thể là lành tính và ác tính.
+ HA cao theo cơn : dựa trên cơ sở bình thường hoặc gần bình thường, có những cơn cao vọt.
+ HA dao động : trị số HA có lúc tăng lúc không.
c- Dựa vào nguyên nhân gây bệnh 1 số tác giả lại chia ra :
+ HA cao thứ phát : thường gặp ở người trẻ và trẻ em.
+ HA cao nguyên phát : thường gặp nơi người cao tuổi.
2- Theo YHCT.
YHCT chưa thống nhất về cách phân loại bệnh HA cao.
+ Nguyễn Như Lệ (VNam) trong ‘Tạp Chí Đông Y ‘ số 11\1967 phân loại HA cao theo Tạng : HA cao thể Can, Tâm, Thận, Tỳ...
+ Thịnh Quốc Vinh ( T.Quốc) phân loại theo Aâm Dương và Tạng.
+ Vương Kiến Dân ( T.Quốc ) phân loại theo Hàn - Nhiệt, Hư - Thực và Khí - Huyết.
+ Sở Nghiên Cứu Nội Khoa Viện Nghiên Cứu Trung Y ( T.Quốc ) phân loại theo Âm Dương, Tạng, Hàn Nhiệt và tên bệnh.
+ Sở Nghiên Cứu HA Cao của Trung Y Học Viện Thượng Hải phân loại theo Aâm Dương.
Trong các cách phân loại trên mỗi cách đều có ưu khuyết điểm riêng, tuy nhiên để cho phù hợp với quan điểm của YHCT, các nhà nghiên cứu đề nghị dùng cách phân loại theo Âm Dương của Viện Trung Y Thượng Hải.
Theo cách phân loại này, ta có 5 loại sau :
* Dương Thịnh : Can dương thượng cang, Can nhiệt thượng xung.
* Dương Hư : Thận dương hư, Dương khí trong ngực hư.
* Âm Hư Dương Thịnh : Âm hư Can vượng, Thận suy Can vượng.
* Âm Hư : Can Thận lưỡng hư, Tâm huyết hư.
* Âm Dương đều hư.
D- Nguyên Nhân
a- Theo YHHĐ.
Theo TCYTế thế giới thì 1 số ít trường hợp HA cao đã có nguyên nhân được biết rõ nhưng phần lớn ( trên 90% số trường hợp ) cho đến nay người ta vẫn chưa xác định rõ được nguyên nhân. Đối với những trường hợp này y học gọi là HA vô căn ( HA không rõ nguyên nhân ).
Theo TCYTế thế giới, một số nguyên nhân gây ra HA cao là:
1+ Yếu Tố Thần Kinh, Tâm Lý Xã Hội.
. Trong thời kỳ chiến tranh, HA cao nhiều hơn.
. Trạng thái căng thẳng thần kinh, không thoải mái, môi trường xã hội không thuận lợi : ở thành phố ồn ào, nhiều kích động hơn nông thôn...HA cũng cao hơn.
2+ Do Tăng Các Chất Nội Tiết.
Khi bị sợ hãi nhiều,cơ thể tiết ra chất Adrenalin và Noradrenalin làm mạch máu co lại gây ra HA cao.
3+ Yếu Tố Dinh Dưỡng
. Chế độ ăn uống hàng ngày có thể ảnh hưởng đến HA : ăn thừa năng lượng (calori) dẫn đến thừa cân nặng ở cơ thể, thừa mỡ cũng gây nên bệnh HA cao và bệnh nhiễm mỡ xơ mạch. Giữa 2 bệnh này có sự thúc đẩy qua lại : sự phát triển của bệnh này làm bệnh kia tiến triển hơn.
- Ăn thừa muối ( Nacl ) có ảnh hưởng đến việc tăng HA.
4+ Yếu Tố Di Truyền.
Có gia đình cả nhà hoặc cả họ đều bị HA cao.
b- Theo YHCT.
Theo Sở Nghiên Cứu Nội Khoa Viện Nghiên Cứu Trung Y Thượng Hải:
- Nguyên nhân chủ yếu của HA cao là Thất Tình ( 7 loại tình chí của YHCT : vui, buồn, giận...).
- Từ nguyên nhân thất tình dẫn đến 1 số yếu tố gây bệnh khác mà YHCT thường hay đề cập đến là Phong, Hỏa, Đờm, Hư.
Cụ thể là :
+ Lo buồn suy nghĩ, tinh thần căng thẳng đều có thể làm cho khí bị mất. Khí mất lâu sẽ hóa hỏa. Giận dữ (nộ ) làm hại Can ( Nội Kinh :”Nộ thương Can”), Can hỏa vượng lên gây ra nội phong.
+ Lo buồn,suy nghĩ làm hại Tỳ ( Nội Kinh : “ Tư thương Tỳ”), Tỳ hư khí suy không chế ngự được Thận sẽ sinh ra đờm thấp. Đờm thấp có thể sinh ra nhiệt và nhiệt có thể sinh ra nội phong.
+ Tỳ hư ảnh hưởng đến việc dinh dưỡng kém sút, làm cho tinh hậu thiên của các tạng suy kém gây ra Hư, nhất là đối với Thận âm.
+ Thận âm hư làm cho Can huyết hư không nuôi dưỡng được Can, nhẹ thì gây ra chứng Âm hư Can vượng, nặng thì sinh ra Can mộc nội phong.
Các yếu tố này tuy bao gồm Phong, Hỏa, Đờm, Hư nhưng chủ yếu là do Nội Phong và Hỏa vượng.
So sánh với các yếu tố gây bệnh của YHHĐ và YHCT có thể nhận thấy:
+ Về nhận thức : YHHĐ và YHCT đều cho rằng hoạt động tinh thần là nguyên nhân gây bệnh.
+ Về các yếu tố gây bệnh :
* Phong Hỏa, cụ thể là Can Hỏa, Can phong rất gần với hội chứng Stress, tinh thần căng thẳng...
* Đờm tương ứng với chứng Cholesterol máu cao.
* Hư ở đây có thể hiểu là hiện tượng thoái hóa của cơ thể, động mạch xơ cứng...
E- Triệu Chứng Lâm Sàng
a- Theo YHHĐ
Tổ chức YTT.Giới phân bệnh HA cao làm 3 giai đoạn :
+ Giai Đoạn I : người bệnh ở trạng thái dễ bị kích thích, thường hay kêu đầu đau, đau về buổi sáng và sau khi làm việc căng thẳng, đau từng cơn, cơn ngắn vài giờ hoặc cả ngày, có thể có cơn đau vùng tim ( 30%), có triệu chứng này chứng tỏ có dấu hiệu co thắt của động mạch vành. Người bệnh mệt mỏi, hồi hộp mặt đỏ hoặc tái do co thắt mạch máu ( HA tăng lên có người mặt đỏ có người mặt tái không nhất định ). Sờ mạch tay quay thấy đập căng, mỏm tim đập mạnh, có tiếng thổi Tâm thu cơ năng, HA dao động, trường hợp này nên làm các nghiệm pháp xem HA có cao không :
1- Nghiệm pháp ngừng thở : gây hiện tượng thiếu oxy, gây co mạch, HA sẽ cao (ngưng chừng một phút sẽ đo ).
2- Ngâm chân vào nước lạnh 40C chừng 2 - 3 phút, gặp lạnh mạch máu sẽ co lại, HA sẽ tăng lên ( nếu đúng thì HA sẽ cao lên ).
* Giai Đoạn 2 : HA cao thường xuyên có cơn cao kịch phát, đầu đau dữ dội, thở khó, phù phổi cấp do thất trái suy cấp. HA tối đa có khi lên đến 220/100mmHg, có thể bị xuất huyết não, hôn mê.
. Dấu hiệu rối loạn tuần hoàn não : chóng mặt, tai ù, muốn ói, đầu nhức dữ dội, có khi phát âm không rõ, có khi có hơi thoáng liệt, có khi ngất lịm...
. Đối với võng mạc : thị lự c giảm, có dấu hiệu ruồi bay hoặc sương mù, soi đáy mắt thấy mao mạch ngoằn ngoèo, phù nề hoặc xuất huyết.
. Đối với tim: có tiếng thổi tâm thu, nghe được tiếng thứ 2 do động mạch xơ cứng. Có cơn đau thắt ngực, loạn dưỡng cơ tim, nhồi máu cơ tim.
. Đối với thận: bị thiếu máu nhẹ ở thận gây rối loạn chức năng thận,nước tiểu có hồng cầu hình trụ.
+Giai Đoạn 3 : Triệu chứng lâm sàng giống giai đoạn II nhưng nặng hơn. HA cao cố định, nếu tụt xuống là nguy vì đã suy tuần hoàn nặng rồi.
Người bệnh thấy đầu đau, mất ngủ, trí nhớ giảm, mất khả năng lao động.
Cơn đau thắt tim tăng lên nhiều, suy tim độ 3,4, đe dọa nhồ máu cơ tim, xuất hiện phù nề, gan to, cổ trướng, tổn thương tuần hoàn não, muốn ói, co giật, bán hôn mê, xuất huyết não, không có đe dọa phù phổi cấp vì tuần hoàn đã giảm nhiều rồi.
. Mắt : tổn thương mắt nặng, có thể bị mù.
. Thận : tổn thương + thận viêm rõ, u rê huyết cao. Ở giai đoạn này ( III ) xuất huyết não và lượng đàm trong máu cao, người bệnh thường chết do nhồi máu cơ tim.
b- Triệu Chứng Lâm Sàng Của HA Cao Theo YHCT
Sách ‘Nội Khoa Học’ của Trung Y Thượng Hải và Thành Đô đều nêu ra 4 thể loại HA cao như sau :
1- Huyết Áp Cao Thể CAN DƯƠNG THƯỢNG CAN
a - Chứng : Chóng mặt, đầu đau mỗi khi căng thẳng, khi tức giận thì đau tăng, ngủ ít, hay mơ, dễ tức giận, miệng đắng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền.
b- Biện Chứng :
+ Chóng mặt, tai ù, đầu đau do Can dương bốc lên.
+ Mặt đỏ, dễ tức giận, ngủ ít, hay mơ, miệng đắng, lưỡi đỏ là biểu hiện của dương vượng.
+ Mạch Huyền là biểu tượng của Can.
c- Nguyên Nhân : Giận dữ làm hại Can, Can uất hóa hỏa, Can âm bị tổn thương, hao tổn, làm cho Can dương bùng lên gây ra bệnh.
d- ĐiềuTrị :
. Bình Can, tiềm dương, thanh hỏa, tức phong ( T. Hải ).
. Bình Can, tiềm dương, tư dưỡng Can Thận. ( T. Đô ).
+ Sách ‘Nội Khoa Học’ T. Hải và T. Đô cùng dùng bài: Thiên Ma Câu Đằng Ẩm (Tạp Bệnh Chứng Trị Tân Nghĩa): Thiên ma 8g, Tang ký sinh 16g, Ngưu tất 12g, Chi tử 8g, Dạ giao đằng 16g, Đỗ trọng 16g, Câu đằng 12g, Ích mẫu 16g, Hoàng cầm 12g, Phục linh 12g, Thạch quyết minh 20g. Sắc uống.
(Thiên ma, Câu đằng, Thạch quyết minh để bình Can, tiềm dương ; Hoàng cầm, Chi tử để thanh Canhỏa; Tang ký sinh để bổ Can, Thận; Dạ giao đằng, Phục linh để dưỡng tâm an thần).
2- Huyết Áp Cao Thể ĐỜM TRỌC TRUNG TRỞ
a- Chứng : Đầu choáng váng và nặng nề, hông bụng buồn đầy, muốn ói, ăn ít, ngủ li bì, lưỡi trắng, mạch Nhu Hoạt (T.Hải), Huyền Hoạt( T.Đô )
b- Biện Chứng :
. Đầu choáng, nặng nề : do đờm trọc ngăn trở thanh khí không đưa được lên đầu.
. Bụng đầy, muốn ói, ăn ít, ngủ li bì : do đờm trọc ngăn trở trung tiêu gây ra.
. Mạch Nhu biểu hiện của Thấp, mạch Hoạt biểu hiện của Đờm.
c- Nguyên Nhân : Do ăn nhiều các thức béo, bổ làm cho Tỳ Vị bị tổn thương khiến cho thanh dương không hóa thành tân dịch mà biến thành đờm thấp, khiến cho thanh dương không thăng lên được và trọc âm không giáng xuống được gây ra bệnh.
d- Điều Trị : + Táo thấp, tiêu đờm ( T.Hải ).
+ Táo thấp, bổ Tỳ, hóa đờm, khứ phong ( T.Đô).
3- Huyết Áp Cao Thể THẬN TINH BẤT TÚC
a- Chứng : Chóng mặt, mệt mỏi, hay quên, lưng gối đau yếu, tai ù, mất ngủ, di tinh, chân tay lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm,Tế. ( Dương hư ).
. Nếu thiên về âm hư : lòng bàn tay, chân và ngực nóng + bứt rứt ( ngũ tâm phiền nhiệt ), lưỡi đỏ, mạch Huyền, Tế ( T.Hải) hoặc Huyền Tế Sác ( T.Đô ).
b- Biện Chứng :
+ Thận tàng tinh, sinh tủy, Thận hư yếu gây ra di tinh, Thận hư tủy không thông được lên não gây ra chóng mặt, hay quên.
+ Lưng đau : dấu hiệu Thận hư ( Nội Kinh : Lưng là phủ của Thận ).
+ Thận chủ xương, Thận hư làm cho xương đau.
+ Thận khai khiếu ra tai, Thận hư sinh ra tai ù.
+ Chân tay lạnh : dấu hiệu thiên về dương hư.( dương hư sinh ngoại hàn ).
+ Mạch Trầm,Tế : Thận dương hư.
+ Lòng bàn tay, chân và ngực nóng, lưỡi đỏ, mạch Tế, Sác là dấu hiệu thiên về âm hư ( âm hư sinh nội nhiệt ).
c- Nguyên Nhân : Do tiên thiên suy yếu hoặc lao lực khó nhọc làm cho Thận tinh khô, Thận suy không sinh được tủy, tủy không thông được lên não gây ra bệnh.
d- Điều Trị :
+ Thiên về dương hư : bổ Thận, trợ dương, dùng bài Hữu Quy Hoàn.
+ Thiên về âm hư : bổ Thận, ích âm, dùng bài Tả Quy Hoàn.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn