Ảnh minh họa
STRESS LÀ NHỮNG PHẢN ỨNG CỦA CƠ THỂ ĐỐI VỚI NHỮNG YẾU TỐ BẤT LỢI XẢY RA TRONG MÔI TRƯỜNG SỐNG. STRESS CÓ THỂ LÀM BẠN CĂNG THẰNG, KHÓ CHỊU, MỆT MỎI, MẤT NGỦ. KHỖNG CHỈ CÓ THẾ , NHIỀU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GẦN ĐÂY CÒN CHO BIẾT STRESS KÉO DÀI CÓ THẾ DẪN ĐẾN MẤT TRÍ NHỚ, BỆNH TIM MẠCH HOẶC GÂY VÔ SINH
STRESS LÀ NHỮNG PHẢN ỨNG CỦA CƠ THỂ ĐỐI VỚI NHỮNG YẾU TỐ BẤT LỢI XẢY RA TRONG MÔI TRƯỜNG SỐNG. STRESS CÓ THỂ LÀM BẠN CĂNG THẰNG, KHÓ CHỊU, MỆT MỎI, MẤT NGỦ. KHỖNG CHỈ CÓ THẾ , NHIỀU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GẦN ĐÂY CÒN CHO BIẾT STRESS KÉO DÀI CÓ THẾ DẪN ĐẾN MẤT TRÍ NHỚ, BỆNH TIM MẠCH HOẶC GÂY VÔ SINH
TÁC HẠI CỦA STRESS
Dẫn đến Mất trí nhớ
Nghiên cứu của các nhà khoa học Phần Lan vừa cho biết stress kéo dài là nguyên nhân lớn nhất gây ra bệnh Alzheimer, loại bệnh mất trí nhớ không hồi phục được hay xảy ra ở người già. Khi con người bị stress, nhịp tim, nhịp thở tăng, huyết áp và lượng cortisol trong máu cũng tăng.
Báo cáo của Tiến sĩ Nima Kivipelto và cộng sự thuộc trường Đại học Kuopio ở Phần Lan cho biết những người có đủ 2 yếu tố vừa cao huyết áp vừa lượng cortisol tăng lên trong máu có khuynh hướng bị bệnh Alzheimer gấp 3 lần nhiều hơn so với người không có 2 triệu chứng này. Đối với những bệnh nhân chỉ có hoặc huyết áp cao hoặc cortisol trong máu cao dễ bị Alzheimer nhiều gấp 2 lần người bình thường. Các nhà khoa học cho rằng khi cortisol đi vào não nó sẽ làm chết tế bào não và gây ra căn bệnh mất trí nhớ. Do đó, stress là nguyên nhân dẫn đầu gây ra bệnh này.
Trước đây, nhóm chuyên gia thuộc Đại học Y Albert Einstein ở New York cũng cho rằng phần hồi hải mã (hippocampus), vùng não liên quan đến việc hình thành trí nhớ, đặc biệt dễ bị tổn thương do stress. Nhận định này được đưa ra lần đầu tiên sau khi các bác sĩ chữa trị cho các nhà quản lý ở Phố Wall bị stress sau vụ tấn công khủng bố nhằm vào nước Mỹ ngày 11/9/2001. Các hình chụp não cho thấy phần hippocampus trên não của những người này bị thu nhỏ lại tương tự như đã diễn ra ở não của những người già bị chứng mất trí nhớ.
Khảo sát ở Mỹ cho biết bệnh Alzheimer đang có khuynh hướng trẻ hóa. Bệnh xảy ra ở lứa tuổi 40 và 50, trẻ hơn nhiều so với độ tuổi 60 hay 70 trở lên như trước đây. Người ta cho rằng kiểm soát stress sẽ giúp chống lại tình trạng này.
….Huyết áp cao và bệnh tim mạch
Những loại hormon do stress tiết ra tác động lên hệ thần kinh giao cảm gây co mạch, làm tăng nguy cơ gây tổn thương các tế bào nội mạc và sự phát triển những mảng xơ vữa ở thành động mạch dễ dẫn đến cao huyết áp. Ngoài việc làm tăng áp lực máu, stress tác động xấu đến các loại bệnh tim mạch do làm tăng nguy cơ máu đóng cục và một số yếu tố tiêu cực khác dẫn đến các cơn đau tim. Nghiên cứu ở trường Đại học Georgetown2 cho thấy stress không chỉ ảnh hưởng đến hành vi khiến người bệnh khó kiểm soát việc ăn uống, ngại vận động mà còn có hệ quả phát triển lượng mỡ nhiều hơn so với người bình thường dù với cùng một lượng calo ăn vào. Những điều này cũng là yếu tố dễ dẫn đến bệnh tim mạch.
John Clark, chuyên viên tư vấn stress thuộc Hội Kiểm soát Stress Quốc tế ở nước Anh phát biểu “Ít ai biết rằng có đến 75% cholesterol xấu trong máu không phải đến từ thức ăn giàu mỡ mà đến từ cortisol. Cholesterol là một phó sản của cortisol được sinh ra từ glucoza dư thừa trong cơ thể khi chúng ta bị
stress”. Hàm lượng cholesterol máu tăng cao đồng nghĩa với động mạch sẽ dễ bị nghẽn, gia tăng nguy cơ máu đóng cục và những cơn đau tim.
…và chứng vô sinh
Một nghiên cứu gần đây đã cho biết nam và nữ phản ứng tương đối khác nhau với những yếu tố gây stress. Các nhà khoa học trường Đại học California cho biết trong khi nam có khuynh hướng phản ứng “chiến đấu hoặc bỏ chạy” (fight or flight) thì nữ lại là “chăm sóc và thân thiện” (tend and befriend). Thay vì đánh trả ngay hoặc bỏ chạy khỏi kẻ thù thì những người nữ lại có khuynh hướng thỏa hiệp hoặc làm bạn với chúng. Chăm sóc và thân thiện có nguyên nhân liên quan đến cơ chế hóa học từ hoạt động nội tiết. Ngoài những hormon đặc trưng biểu thị stress, nghiên cứu đã thấy rằng stress làm tăng tiết hóa chất Oxytocin ở nữ giới. Oxytocin được mệnh danh là hóa chất kết nối, hóa chất của tình thương. Nó được tiết ra nhiều khi người nữ đạt cực khoái hoặc khi sinh con, khi cho con bú. Hơn nữa, hóa chất này còn có tác dụng ngăn cản sự thụ thai. Các nhà khoa học tin rằng lượng Oxytocin tăng cao trong máu thường xuyên có thể làm gián đoạn chu kỳ kinh nguyệt, giảm khả năng thụ thai, thậm chí có thể làm sẩy thai. Như vậy, về mặt ngắn hạn, nữ có phần thuận lợi hơn khi phải đối phó với stress. Tuy nhiên, về lâu dài, sự thỏa hiệp kể cả kiềm nén với stress có thể dẫn đến nhiều tác hại hơn so với nam. Giáo sư Clark khuyên những phụ nữ phải đảm đương những công việc nhiều áp lực hãy xin nghỉ phép 3 tháng trước ngày sinh để tránh những ảnh hưởng xấu đến việc sinh sản.
LÀM GÌ ĐỂ TRÁNH STRESS?
Hiện nay, kinh tế suy thoái, người nhiều, việc ít, mức độ cạnh tranh cao. Đối với những lao động trí óc hoặc công việc đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, lương cao thì mức độ stress càng cao. Tuy nhiên, stress hay không, mức độ đến đâu hoàn toàn tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân. Biết tổ chức tốt công việc và sắp xếp những thời khắc hợp lý để nghỉ ngơi, thư giãn sẽ giúp mỗi người có thể sống chung với stress mà vẫn bảo đảm tốt cả công việc, sự nghiệp và sức khỏe. Thực tế cho thấy vấn đề không phải là có bao nhiêu thời gian mà là sự sắp xếp và thực hành nó như thế nào.
Không nên bỏ qua những giấc ngủ trưa
Trong chu kỳ của một ngày sinh hoạt hoặc làm việc, khi những căng thẳng tâm lý kéo dài và liên tục là nguyên nhân gây ra stress dẫn đến mệt mỏi, gia tăng các nội tiết tố stress, suy giảm hệ miễn dịch thì giấc ngủ trưa có tác động ngược lại. Giấc ngủ trưa dù chỉ 10 hoặc 15 phút cũng có tác dụng làm gián đoạn những cảm xúc âm tính, giảm hoạt hoá các nội tiết tố stress. Do đó, giấc ngủ trưa đã tác động rất tích cực đến sức khoẻ. Nhiều khảo sát đã cho thấy giấc ngủ trưa ngắn không mất thêm bao nhiêu thời gian mà còn làm tăng năng suất và giảm số ngày nghỉ do bệnh tật.
Vận động và thư giãn
Là 2 yếu tố đối kháng nhưng đều cần thiết và bổ sung cho nhau để giữ gìn sức khỏe, kể cả chống stress. Vận động đều đặn hàng ngày dù chỉ 5 hay 10 phút đủ làm cho đổ mồ hôi không chỉ tăng sức mạnh cơ xương, tăng sức đề kháng mà còn có tác dụng giúp giải phóng năng lượng, phân tán nội tiết tố stress, tăng tiết những nội tiết tố tích cực như Endorphin, Serotonin giúp cải thiện tâm lý. Vận động và thư giãn Là 2 yếu tố đối kháng nhưng đều cần thiết và bổ sung cho nhau để giữ gìn sức khỏe, kể cả chống stress. Vận động đều đặn hàng ngày dù chỉ 5 hay 10 phút đủ làm cho đổ mồ hôi không chỉ tăng sức mạnh cơ xương, tăng sức đề kháng mà còn có tác dụng giúp giải phóng năng lượng, phân tán nội tiết tố stress, tăng tiết
những nội tiết tố tích cực như Endorphin, Serotonin giúp cải thiện tâm lý.
Yoga, thở & thiền
Nhiều phương pháp thở và các động tác của yoga hoặc ngồi thiền có thể tạo ra những đáp ứng thư giãn để điều hoà thần kinh giao cảm, kiểm soát cảm xúc, chống stress và gia tăng chất lượng cuộc sống. Ngoài ra, chế độ dinh dưỡng cũng có tác dụng tiêu cực hoặc tích cực đến stress. Ăn nhiều rau quả, ngũ cốc thô, các sản phẩm làm từ sữa ít chất béo, thịt nạc, ít mỡ bão hoà, hạn chế đồ ngọt, chất kích thích và các loại thực phẩm chế biến không chỉ giúp cải thiện sức khoẻ vật chất mà còn hỗ trợ tốt cho việc chống stress. Nói chung, ngoài việc lựa chọn những nghề nghiệp và công việc phù hợp, sinh hoạt hàng ngày cần bảo đảm thời gian thư giãn và vận động thể dục thích hợp để giải toả những căng thẳng trong cuộc sống. Để giúp kiểm soát cảm xúc và cải thiện sức khoẻ, không nhất thiết phải tốn nhiều thời gian. Cary Barbor, một chuyên gia điều trị tâm lý đã viết “Nhiều thí nghiệm gần đây đã chứng tỏ rằng chỉ cần những thời thiền đều đặn hàng ngày khoảng 10 phút mỗi lần cũng đủ gây ra những thay đổi đáng kể nơi cơ thể con người. Nghiên cứu cho thấy những đối tượng ngồi thiền với thời gian ngắn này cũng làm gia tăng sóng Alpha (sóng não chỉ sự thư giãn cơ bắp và sự thoải mái về tâm lý) và giảm bớt tình trạng lo âu, trầm uất” . Đơn giản hơn, thỉnh thoảng mỗi người có thể hướng sự chú ý của tâm thức vào một vài hơi thở của bản thân. Hít vào đến bụng dưới, thở ra chậm trong khi từ từ buông lỏng toàn thân, chú trọng buông lỏng phần vai, hai cánh tay.