TÁC DỤNG MIỄN DỊCH CỦA THUỐC ĐÔNG Y
Thứ tư - 05/11/2014 14:08
Quan niệm của Đông Y (ĐY) “Tự ngã thức biệt”, “bài trừ dị kỷ”. Bình thường, chức năng miễn dịch của cơ thể có 3 loại tác dụng lớn :

HÌnh minh họa
I.KHÁI NIỆMQuan niệm của Đông Y (ĐY) “Tự ngã thức biệt”, “bài trừ dị kỷ”. Bình thường, chức năng miễn dịch của cơ thể có 3 loại tác dụng lớn :-Tự thân ổn định (trung hoà các dị nguyên).-Cố định các dị nguyên (vô hiệu hoá).-Dự phòng các bệnh truyền nhiễm, cảm nhiễm.Theo Von Piquet (1929-1974), phản ứng miễn dịch bao gồm : choáng phản vệ, loại bỏ protein lạ, mày đay, nổi mẩn, …., cố định dị nguyên ở vùng viêm không cho lan rộng ra toàn thân. Nhưng do quá mức (thái quá) mà cơ thể không tự bảo vệ được mình mà còn gây ra rối loạn chức năng các tổ chức cơ quan trong cơ thể.Quan điểm ĐY, theo Tần Vạn Chương và Nại Duy Lập (Thượng Hải, 1988) :“Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hưChính khí tồn nội, tà bất khả can”.Nghĩa là : Tác nhân gây bệnh ở da cơ sẽ làm tổn thương sức đề kháng của cơ thể, và ngược lại sức đề kháng tốt thì tác nhân gây bệnh không thể xâm phạm vào da, cơ thể được.II.NỘI DUNG2.1.Mối liên hệ giữa dược lý, miễn dịch với lý luận Đông Y :Lý luận hư, thực, vệ khí, can tỳ của ĐY với quan điểm miễn dịch học hiện đại có nhiềuđiểm gần nhau. Hai nguyên tắc điều trị lớn của ĐY là phù chính và trừ tà có sự tươngquan mật thiết với miễn dịch trị liệu :-chính hư lấy phù chính là chủ;-tà thực lấy trừ tà là chủ;-hư thực kiêm hiệp là kết hợp cả phù chính và trừ tà.Phù chính là nâng cao sức đề kháng, trừ tà là đuổi tác nhân gây bệnh. Thông qua tác dụng phù chính với trừ tà để điều hoà sự ổn định và tăng cường chức năng miễn dịch bảo vệ cơ thể đạt được mục đích bài trừ tà và khống chế bệnh tà.+Hư chứng : là chỉ chính khí bất túc, cơ thể phát sinh phản ứng miễn dịch quá mạnh, như bệnh miễn dịch tự thân-tự miễn như lupút ban đỏ hệ thống (Systemic lupus erytomathesus ), cũng có thể là chức năng miễn dịch của cơ thể quá suy giảm mà mất đi phản ứng miễn dịch đối với kháng nguyên hoặc giảm khả năng chống viêm nhiễm.Đối với các chứng bệnh, phần lớn phải dùng thuốc phù chính để điều trị. Thuốc phù chính phần lớn có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể.+Thực chứng : là chỉ tà khí hữu dư nên phải dùng phương pháp trừ tà để điều trị; tức là phải trọng dụng các thuốc thanh nhiệt giải độc, thuốc hoạt huyết hoá ứ, thuốc trừ phong thấp. Các thuốc này phần lớn có tác dụng ức chế chức năng miễn dịch của cơ thể hoặc là vừa ức chế vừa hỗ trợ, tức là ngoài ức chế miễn dịch còn có tác dụng tăng cường miễn dịch.+Phù chính trừ tà là nguyên tắc điều trị quan trọng của ĐY, cũng là phương pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa chính và tà. Sự liên quan chặt chẽ giữa phù chính và trừ tà với miễn dịch liệu pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều trị một số bệnh tự miễn như lupút ban đỏ, xơ cứng bì, bệnh vảy nến (ngân tiết bệnh), … và nham chứng (ung thư).Có nhiều báo cáo tổng kết nghiên cứu :-thuốc bổ khí huyết phần lớn có tác dụng tăng cường miễn dịch;-thuốc điều hoà âm dương phần lớn có tác dụng điều tiết miễn dịch;-thuốc sơ phong thanh nhiệt phần lớn có tác dụng tiêu viêm thoái mẫn;-thuốc tiêu viêm hoá ứ phần lớn có tác dụng ức chế miễn dịch.2.2.Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc phù chính.ĐY cho rằng”Hư tắc bổ chi”. Nhưng hư chứng có hay không có suy giảm chức năng miễn dịch? Có một số người cho rằng, phù chính có thể là tiền đề cho tăng cường công năng miễn dịch. Bệnh lupút ban đỏ chủ yếu liên quan với thận hư tiên thiên bản tạng bất túc ?Tần Vạn Lập nghiên cứu về bản chất của bệnh đã phát hiện đa số bệnh nhân bị lupút ban đỏ có biểu hiện triệu chứng thận hư. Sau khi ông cho những bệnh nhân này dùng thuốc bổ thận liều nhẹ thì các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng đều được cải thiện rõ rệt.Trong nghiên cứu cơ chế thận hư, các tác giả đã chứng minh được thuốc bổ thận có thể điều chỉnh và nâng cao tính phản ứng hệ thống của chất vỏ thượng thận và tuyến yên. Điều này có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn trong việc dùng kích tố nội tiết.Trong những thập kỷ gần đây, kết hợp Đông Tây Y để điều trị các bệnh tự miễn ngàycàng được phát triển và đã thu được hiệu quả cao. Tại các trung tâm nghiên cứu ĐY của Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, có nhiều tác giả nhận thấy lupút ban đỏ, viêm da cơ, xơ cứng bì, … đều là chứng hư ở mức độ khác nhau. Sau khi điều trị bằng thuốc phùchính thì hầu hết các bệnh nhân, qua kiểm tra xét nghiệm và lâm sàng, đều thấy các chỉ tiêu miễn dịch được cải thiện, bệnh ổn định.Theo nghiên cứu của Bệnh Viện Hiệp Hoà Bắc Kinh, điều trị bệnh viêm da cơ cấp tính bằng Thanh doanh giải độc thang gia giảm và điều trị viêm da cơ mãn tính bằng Bổ trung ích khí (Tỳ vị luận; chủ trị : tỳ vị khí hư, kém ăn, tinh thần mỏi mệt, sợ lạnh, tự ra mồ hôi, hoặc khí hư phát sốt, đau đầu, sợ lạnh, thích uống nước nóng, hụt hơi biếng nói, mạch hư đại vô lực, khí hư hạ hãm, tiểu tiện không tự chủ, phụ nữ bị băng lậu, sa tử cung; gồm : Hoàng kỳ 20g, Nhân sâm, Bạch truật đều 16g, Đương quy 12g, Thăng ma, Sài hồ đều 4g, Trần bì, Cam thảo đều 8g)gia giảm kết hợp với kích thích tố và điều trị hỗ trợ khác, hiệu quả điều trị là tốt 24 ca, không kết quả và tử vong là 3 ca (vì có kết hợp với ung thư) trong số 27 bệnh nhân được điều trị.Những nghiên cứu của các địa phương trên đã chứng minh các thuốc bổ ích khí huyết có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch (Nhân sâm, Bạch truật, Tử hà sa, Ngũ gia bì, Hà thủ ô, …).Theo Lưu Minh Nhuệ (Tạp chí Trung Y, 1995), nghiên cứu điều chế thuốc từ Hoàng kỳ để điều trị bệnh vảy nến thể thông thường, tác giả dùng Hoàng kỳ chế (gồm : Hoàng kỳ sắc, cao Hoàng kỳ và Hoàng kỳ dạng tiêm) để điều trị 204 bệnh nhân bị bệnh vảy nến thể thông thường, thấy kết quả : khỏi hoàn toàn 47 (20,6% ), khỏi cơ bản 62 (30,4% ), tiến triển tốt 94 (44,6% ), không kết quả 9 (4,4% ). Tổng số bệnh nhân có tỷ lệ tốt là 95,6%. Theo dõi chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị Hoàng kỳ chế tễ thấy ở những bệnh nhân vẩy nến thể thông thường đều có tác dụng tăng cường miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Trong những năm gần đây, Hoàng kỳ được dùng làm thuốc bổ khí và còn được dùng trong điều trị bệnh tạo keo (collagénose) ngày càng nhiều; vì người ta cho rằng, Hoàng kỳ có tác dụng kích thích các trung tâm miễn dịch của cơ thể.Tất cả những nghiên cứu trên, một mặt là ứng dụng sự điều tiết miễn dịch của thuốc phù chính trừ tà; mặt khác là nghiên cứu dược lý học và miễn dịch để phát hiện chuyển hoá lympho bào trên thực nghiệm, thông qua phương pháp kiểm trắc nghiệm. ĐY đã nghiên cứu 4 phương thuốc bổ :Bổ khí : Tứ quân tử thang (Hoà tễ cục phương; chủ trị : dinh vệ khí hư, tạng phủ khiếp nhược, tâm phúc trướng đầy, kém ăn, sôi bụng, ỉa lỏng, nôn oẹ; gồm : Nhân sâm 8g, Phục linh 10g, Bạch truật 12g, Cam thảo 4g).Bổ huyết : Tứ vật thang (Hoà tễ cục phương; chủ trị : hai mạch xung nhân hư tổn, huyết hư huyết trệ, kinh nguyệt không đều, rốn và bụng đau thắt, băng trung lậu hạ, huyết tụ thành hòn cục gây đau từng cơn và tất cả những chứng huyết hư, mất huyết gồm : Xuyên khung 12g, Đương quy, Bạch thược đều 16g, Thục địa 24g).Bổ âm : Lục vị địa hoàng hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết; chủ trị : can thận âm hư, lưng gối mềm yếu, chóng mặt hoa mắt, tai ù tai điếc, mồ hôi trộm, di tinh, triều nhiệt, xương nóng âm ỉ, lòng bàn chân tay nóng, tiêu khát, mạch tế sác; gồm : Thục địa 32g, Hoài sơn, Sơn thù đều 16g, Đơn bì, Phục linh, Trạch tả đều 12g).Bổ dương : Sâm phụ thang (Phụ nhân lương phương; chủ trị : nguyên khí hư tổn nhiều, dương khí thoát đột ngột, chân tay quyết lạnh, mồ hôi ra lạnh và dính, thở khẽ, suyễn gấp, đại tiện lỏng, mạch vi muốn tuyệt; gồm : Nhân sâm 20g, Phụ tử 40g; Sinh khương 10 lát, Đại táo 2 quả).Người ta đã chứng minh và kết luận một số bài thuốc trên có khả năng xúc tiến chuyểnhoá lympho bào, kích thích phản ứng miễn dịch tế bào và hình thành kháng thể.Thực tế lâm sàng đã chứng minh các loại bệnh thuộc hư chứng, dù ở các mức độ khác nhau, đều có suy giảm chức năng miễn dịch rõ rệt. Vì vậy, khi dùng các phương thuốc phù chính để bổ dưỡng đã thu được hiệu quả nhất định.2.3.Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc trừ tà :Theo ĐY : Tà thực lấy trừ tà là chủ để điều trị, tức là khu trừ bệnh tà, khôi phục lại sự cân bằng của cơ thể mà đạt hiệu quả điều trị. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu đã phát hiện nhiều loại thuốc trừ tà có khả năng điều trị chức năng miễn dịch của cơ thể.Thuốc trừ tà thường dùng là các nhóm thuốc : hoạt huyết hoá ứ, thanh nhiệt giải độc, thuốc sơ phong trừ thấp.Các nghiên cứu cho thấy, đại bộ phận các thuốc hoạt huyết hoá ứ có tác dụng ức chế phản ứng miễn dịch bệnh lý của cơ thể. Đối với một số bệnh tự miễn và phản ứng biến thái thì có hiệu quả rất tốt. Một số tư liệu đã chứng minh một số thuốc hoạt huyết hoá ứ có tác dụng tăng cường công năng miễn dịch cơ thể. Những năm trước đây, người ta chỉ chú ý đến tính kháng khuẩn, kháng siêu vi khuẩn của thuốc thanh nhiệt giải độc, thì ngày nay người ta đã phát hiện ra nhiều loại thuốc thanh nhiệt giải độc có tác dụng tăng cường công năng miễn dịch của cơ thể. Tuy nhiên cũng có một số thuốc thanh nhiệt giải độc lại có tác dụng ức chế miễn dịch. Ngoài ra nhiều loại thuốc sơ phong trừ thấp có tác dụng tiêu viêm thoái mẫn.2.3.1.Tác dụng ức chế miễn dịch của thuốc trừ tàTrong những năm gần đây, bằng kết hợp Đông Tây Y, các nghiên cứu ứng dụng một số thuốc trừ tà để điều trị bệnh tự miễn và bệnh biến thái phản ứng tình trạng quá mẫn cảm gây phản ứng quá mẫn đã thu được kết quả tốt. Y Học hiện đại (YHHĐ) cho rằng : sở dĩ bệnh tự miễn và phản ứng biến thái tính bệnh tật là do kích thích của kháng nguyên đã phát sinh phản ứng miễn dịch quá mẫn, gây nên một loạt các biến đổi chức năng trong cơ thể.Quan sát lâm sàng và thực nghiệm, người ta thấy một số thuốc trừ tà có tác dụng ức chế các phản ứng quá mẫn, tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều đạt kết quả điều trị tốt.Học viện Y I Thượng Hải chọn mặt bệnh lupút ban đỏ để nghiên cứu tác dụng của thuốc “hoạt huyết hoá ứ là chủ”.-Cẩm Hồng Phương dùng bài thuốc Hoạt huyết hoá ứ gồm : Đại hoàng, Hồng hoa, Xích thược, Bạch thược, Tần cửu, Hoàng tinh, Cam thảo để điều trị lupút ban đỏ. Dựa vào chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị, tác giả kết luận thuốc hoạt huyết hoá ứ có tác dụng ức chế phản ứng quá mẫn.-Tần Vạn Chương lấy dịch chiết của Xích thược, Hoàng đằng dưới dạng thuốc tiêm và dùng thuốc hoạt huyết hoá ứ điều trị lupút ban đỏ, quan sát điều trị đến khi bệnh ổn định thấy các chỉ tiêu miễn dịch của nó đều được cải thiện. Đồng thời trải qua hàng chục năm nghiên cứu kết hợp dùng vị thuốc “Lôi công đằng chế tễ” (chế phẩm từ cây rau má) đểđiều trị lupút ban đỏ, tác giả nhận thấy tỷ lệ khỏi cao (79,4~91% ), các triệu chứng phátsốt, đau khớp, tổn thương da đều được cải thiện; các tổn thương nội tạng đều có chuyển biến tốt; các xét nghiệm về hệ thống máu, albumin niệu, chức năng gan và thận đều được cảI thiện tốt, tốc độ máu lắng hạ thấp; các chỉ tiêu miễn dịch tế bào, globulin miễn dịch, chức năng tế bào lympho đều có chuyển biến tốt. Tác giả rút ra kết luận : Lôi công đằng có tác dụng chống viêm, điều tiết công năng miễn dịch. Những nghiên cứu của Bệnh ViệnY I Thiên Tân đã ứng dụng thuốc thanh nhiệt giải độc : Kim ngân hoa, Liên kiều, Bản lam căn (rễ của Thanh đại diệp-lá chàm mèo-cây bọ mắm) nhưng Thanh đại diệp là chính để ức chế phản ứng quá mẫn trong điều trị lupút ban đỏ có hiệu quả rõ rệt.Học Viện Trung Y Quảng Châu dùng bài Thanh ôn bại độc ẩm (Dịch chẩn nhất đắc; chủ trị : hoả nhiệt biểu lý đều thịnh, sốt cao phiền táo, khát nước nôn khan, đau đầu như búa bổ, hôn cuồng nói sảng, phát ban chảy máu mũi, viêm não B, viêm màng não,…; gồm : Thanh cao 40g, Sinh địa, Tê giác đều 24g, Xích thược, Cát cánh, Liên kiều, Trúc diệp đều 10g, Hoàng cầm, Huyền sâm, Tri mẫu, Đơn bì, Chi tử đều 8g, Hoàng liên, Cam thảo đều 6g) để điều trị bệnh viêm da thần kinh cũng thu được kết quả tốt. Thuốc thanh nhiệt giải độc không những có tác dụng kháng khuẩn, kháng bệnh độc cảm nhiễm mà còn có thể ức chế phản ứng quá mẫn, tiêu trừ phức hợp miễn dịch, từ đó ức chế có hiệu quả các phản ứng miễn dịch.2.3.2.Tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc trừ tà :-Căn cứ vào nghiên cứu thực nghiệm các hội chứng “thực chứng”, người ta nhận thấy một số thuốc hoạt huyết hoá ứ và thanh nhiệt giải độc có tác dụng tăng cường miễn dịch bao gồm :+số lượng bạch cầu tăng cao,+xúc tiến bạch cầu khổng lồ tăng thực bào,+xúc tiến tăng chuyển hoá tế bào lympho,+hình thành các IL2 (Interleukin 2), và+hình thành kháng thể.Thông qua sử dụng một số thuốc điều trị trên lâm sàng, nhiều tác giả đã thu được kết quả nhất định. Tổng hợp các báo cáo phát hiện :+phương thuốc Bạch hổ thang (Thương hàn luận; chủ trị : dương minh khí phận nhiệt thịnh, sốt cao mặt đỏ, ra nhiều mồ hôi, miệng khô lưỡi ráo, phiền khát, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng khô, mạch hồng đại có lực; cảm cúm, viêm não B, viêm màng não tuỷ, các chứng cảm nhiễm cấp tính; gồm : Thạch cao sống 40g, Ngạnh mễ 20g, Tri mẫu 12g, Cam thảo 4g) có tác dụng xúc tiến chức năng thực bào của đại thực bào tương đối tốt.+bài Quế chi gia truật thang có tác dụng ức chế quá mẫn, trung hoà kháng nguyên và sản sinh kháng thể.Thực nghiệm còn chứng minh :+bài thuốc Bài nùng thang và Bài nùng tán đều có tác dụng ức chế rõ đối với bạch cầu đa nhân. Kết quả thực nghiệm trên chuột cống cho thấy 2 phương thuốc trên đều có tác dụng ức chế và xúc tiến dòng bạch cầu đa nhân, tác dụng này phụ thuộc vào loại thuốc và nồng độ thuốc;+bài thuốc Tiểu thanh long thang (Thương hàn luận; Chủ trị : Thương hàn biểu chứng chưa giải, dưới tâm có thuỷ khí, nôn khan phát sốt mà ho, khát hoặc ỉa chảy, hoặc nấc, tiểu tiện không lợi, bụng dưới đầy hoặc suyễn; Dật ẩm, thân thể nặng nề đau; Viêm khí quản mạn, hen suyễn, phế khí thũng; gồm : Ma hoàng, Quế chi, Thược dược, Can khương, Cam thảo đều 12g, Bán hạ, Ngũ vị tử đều 16g, Tế tân 6g) có tác dụng ức chế globulin E miễn dịch (IgE), ức chế quá mẫn.Ngoài ra, các loại thuốc trừ tà, thuốc lợi thấp sơ phong phần nhiều có tác dụng tiêuviêm thoái mẫn.-Các phương thuốc thường dùng là :+Ma hoàng thang (Thương hàn luận; chủ trị : Thái dương bệnh phong hàn ở biểu, đầu gáy cứng đau, đau mình đau lưng và các khớp xương đau, phát sốt, sợ lạnh, sợ gió, không mồ hôi, ngực đầy mà suyễn, mạch phù khẩn; gồm : Ma hoàng 6g, Hạnh nhân 8g, Quế chi, Cam thảo đều 4g)+Sơ phong thanh nhiệt ẩm,+Trừ thấp vị linh thang,+Tần cửu ngưu bàng thang,+Đan bì ẩm,+Toàn trùng phương,+Lương huyết giải độc thang+Long đởm tả can thang. (Lan thất bí tàng; chủ trị : can kinh hoả bốc lên gây nên đau sườn, miệng đỏ, mắt đỏ, tai sưng hoặc điếc, hoặc can kinh thấp nhiệt dồn xuống làm cho tiểu tiện vẩn đục, sưng bộ phận sinh dục, ngứa bộ phận sinh dục và đau; gồm : Long đởm thảo, Sài hồ, Đương quy, Mộc thông đều 8g, Hoàng cầm, Chi tử, Trạch tả đều 12g, Sinh địa 14g, Xa tiền tử 16g, Cam thảo 4g)-Những báo cáo lâm sàng về tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc trừ tà ngày càng nhiều, nhưng thực nghiệm chưa được đầy đủ. Tuy nhiên, người ta cũng thống nhất kết luận thuốc phù chính và trừ tà đều có tác dụng điều tiết miễn dịch. Trên lâm sàng thường dùng kết hợp cả hai phương pháp này để điều trị bệnh ngoài da.-Theo báo cáo của Vương Đức Tuệ, phối hợp thuốc phù chính trừ tà với Lôi công đằng (Tích tuyết thảo, Rau má) để điều trị 36 bệnh nhân vảy nến (ngân tiết bệnh) thấy có hiệu quả khá mỹ mãn. Trong điều trị, tác giả đã chọn dùng Lôi công đằng kết hợp với biện chứng luận trị, lựa chọn một số thuốc phù chính trừ tà để tổ chức phương thuốc :+Một số vị thuốc thường dùng để trừ tà : Thổ phục linh, Bạch hoa xà thiệt thảo, Tử thảo, Hoàng liên, Hoàng cầm, Sơn đậu căn, Long quý, Ô tiêu xà, chích Ngô công, Bạch cương tàm, Kim ngân hoa, Khổ sâm, Xuyên khung, Đan sâm, Nga truật, Đại hoàng, Thuyền thoái.+Một số vị thuốc thường dùng để phù chính : Đảng sâm, Hoàng kỳ, Hà thủ ô, Sinh địa, Xích thược, Bạch thược, Bạch truật, Phục linh, Hồng táo, Hoàng tinh, Sơn dược, Bạch biển đậu, Thích Ngũ gia bì, Thích Hoàng kỳ (Hoàng kỳ gai).-Theo báo cáo của Tôn Khánh Quý : Dùng các thuốc thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hoá ứ và bổ dưỡng khí huyết kết hợp với Quế chi tạo thành Quế thanh thang đã điều trị khỏi cho 9 bệnh nhân vảy nến thể mụn mủ.Dược : Phục linh, Đan bì, Bạch thược, Hoàng cầm, Sinh địa, Thục địa, Xuyên khung, Quế chi, Đào nhân, Hoàng bá, Đương quy đều 15g, Hoàng liên 10g, Hoàng kỳ 30g.Kết luận :Tất cả những báo cáo dẫn liệu trên chứng tỏ thuốc phù chính trừ tà dùng để điều trị có liên quan mật thiết đến vấn đề miễn dịch. Chính vì vậy, sử dụng các thuốc này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong điều trị lâm sàng.
Nguồn tin: LY.Lê Đắc Quý