BỔ CỐT CHỈ 補 骨 脂
Psoralea corylifolia L.
Xuất xứ: Khai Bảo Bản Thảo.
Tên Hán Việt khác: Phá cố chỉ (Khai Bảo Bản Thảo), Bà cố chỉ (Dược Tính Bản Thảo), Hồ phi tử (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Thiên đậu, Phản cố chỉ, Bà cố chỉ, Bồ cốt chi (Hòa Hán Dược Khảo), Hắc cố tử (Vân Nam Trung Dược), Hồ cố tử (Trung Dược Chí), Cát cố tử (Giang Tây Trung Dược).
Tên khoa học: Psoralea corylifolia L.
Họ khoa học: Papilionaceae.
Tên gọi: Bồ có nghĩa là bổ, cốt là xương, chỉ là mỡ. Thuốc có tác dụng bổ gân xương nên gọi là Bổ cốt chỉ.
Mô tả: Cây thảo cứng, ít phân nhánh, cao tới 1m. Lá chỉ có 1 lá chét hình trái xoan, có răng thô, cả hai mặt có nhiều tuyến hình mắt chim, màu đen. Hoa vàng đến hơn 20 cái xếp thành đầu hình trứng. Quả đậu hình trứng, hơi bị ép đen, sần sùi. Hạt đơn độc dính với vỏ quả, có màu nâu đen hay đen. Trên mặt hạt có các vân hình những hạt nhỏ giữa hơi lõm, mùi thơm, vị cay.
Địa lý: Gốc ở Ấn độ, hiện có trồng ở nhiều nơi trong nước ta.
Thu hái, sơ chế: thu hái vào tháng 9 lấy hạt phơi khô.
Phần dùng làm thuốc: Dùng hạt, hạt khô mẩy chắc đen, thơm, nhiều dầu, hơi nồng là thứ tốt. Hạt lép, nát, không thơm là xấu. Để nơi thoáng gió, cao ráo, mát.
Mô tả dược liệu: Bổ cốt chỉ dùng hạt chín khô, hình thận dẹt phẳng hoặc hình tròn, trứng dài khoảng 3mm đến 4,5mm, rộng chưa đến 3mm, vỏ ngoài màu nâu sậm hoặc màu nâu đen, có vết teo nhăn nhỏ hơi giống hình hạt, chính giữa lõm vào, chất hơi cứng, nhân hạt màu vàng hạt nâu có nhiều chất dầu mùi thơm nồng nặc.
Thành phần hóa học:
+ Psoralen, Isopsoralen (Khastgir H N và cộng sự, C A 1960, 54 : 12275a).
+ Angelicin (Liu Y L và cộng sự, Heterocycles q992, 34 (8) : 1555).
+ Xanthotoxin, 8-Methoxypsoralen (Hồ Nam Y Dược Công Lập Nghiên Cứu Sở, Trung Thảo Dược Thông Tấn 1979, 10 (1) : 13).
+ Psoralidin, Isopsoralidin (Khastgir H N và cộng sự, Tetrahedron 1961, (14) : 275).
Tác dụng : Ôn thận tráng dương đồng thời có tác dụng cầm ỉa.
Tính vị: Vị cay đắng, tính ấm,
Qui kinh: Vào kinh tỳ, Thận, Tâm bào lạc.
Chủ trị: Thân hư, di tinh, tiêu chảy, đái dầm.
Liều dùng: Dùng từ 3-9g.
Kiêng kỵ: Âm hư hỏa vượng, dương vật hay cương lên di mộng tinh, bón, đái ra máu, tiểu nhiệt, đỏ mắt, đắng miệng, khát nước do nội nhiệt, đỏ mắt do hỏa thượng lên, ăn vào đói liền, yếu nhiệt do phong thấp, yếu xương cấm dùng. Kỵ Vân Đài, huyết Dê và các loại huyết khác. Nó được hồ Đào, Hồ ma giúp thì càng tốt.
Bào chế:
1) Bổ cốt chỉ là một vị thuốc bằng hạt, bởi vì tính nó ráo cho nên không bao giờ dùng sống có hại, dùng muối tẩm 1 đêm đem sao khô dùng.
2) Tính táo độc nên phải dầm rượu 1 đêm, vớt ra dùng với nước chảy phía đông 3 đêm ngày, chưng từ giờ Tỵ đến thân rồi đem phơi nắng.
3) Sao qua với ít nước muối rồi phơi nắng cất dùng (Lôi Công).
Bảo quản: Phơi thật khô cất kỹ tránh ẩm.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
(1) Tính khí dễ ra dùng Bổ cốt chỉ, Thanh diêm, 2 vị bằng nhau sao tán bột, lần uống 6g với nước cơm (Tam Nhân Phương).
(2) Trị tiểu nhiều lần, do thận khí hư hàn, dùng Bổ cốt chỉ 10 lượng chưng với rượu. Hồi hương 10 lượng (sao muối) tán bột trộn hồ làm viên với rượu bằng hạt ngô đồng lần uống 100 viên với nước muối hoặc lấy bột này chấm thận heo nướng chín ăn (Phổ Tế Phương).
(3) Trẻ con đái dầm do bàng quang hư hàn dùng Bổ cốt chỉ, sao tán bột, mỗi đêm uống với nước nóng 5 phân (Anh Đồng Bách Vấn ).
(4) “Bổ cốt chỉ hoàn” trị hư nhược ở hạ nguyên, tay chân nặng nề, ra nhiều mồ hôi trộm do giao hợp thái quá, bài này có tác dụng mạnh gân cốt, ích nguyên khí gồm Bổ cốt chỉ 4 lượng chưng cới rượu. Hồ đào nhục 1 lượng (khử bì). Trầm hương tán bột 3g rưỡi, luyện mật làm viên bằng hạt ngô đồng lần uống 20-30 viên với muối, rượu nóng lúc đói, uống từ tiết hạ chí đến đông chí ngày 1 lần (Hòa Tễ Cục Phương).
(5) Hư hao suy nhược bất cứ đàn ông hay đàn Bà, ngũ lao thất thương, hạ nguyên hư hàn, các loại bệnh phong tay chân đau nhức, nhan sắc tươi tốt, mạnh khí, râu tóc đen. Dùng Bổ cốt chỉ 1 cân đem tẩm rượu 1 đêm phơi nắng rồi thêm vào 1 thăng dầu mè trộn đều sao cho đến khi nào hạt mè hết nổ thì thôi, xong rây bỏ mè đi, chỉ lấy Bổ cốt chỉ tán bột dùng giấm nấu bột gạo làm viên bằng hạt ngô đồng uống lúc bụng đói với rượu nóng, muôí. Có bài thuốc khác trị đau lưng do thận hư dùng Bổ cốt chỉ 1 lượng sao tán bột uống với rượu nóng lần 9g hoặc gia thêm Mộc hương 3g (Kinh Nghiệm Phương)
(6) “Thanh nga hoàn” Trị thận khí suy nhược, phong lạnh thừa cơ hội ấy nhập vào, hoặc khí huyết xung sát nhau làm đau lưng như muốn gẫy cúi ngửa khó khăn hoặc vì lao động quá độ ảnh hưởng tới thận hoặc phong thấp thương tổn vào lưng hoặc do chấn thương, hoặc do phong hàn bám vào thân thể hoặc do khí trệ không tán ra được đều làm chứng đau lưng như đeo vật nặng ở giữa lưng, dùng phá cố chỉ tẩm rượu sao 1 cân. Đỗ trọng bỏ vỏ sắt lát, sao nước gừng 1 cân. Hồ đào nhục bỏ vào 20 trái tán bột. lấy tỏi đâm nát lấy 1 lượng trộn làm viên bằng hạt ngô đồng uống với rượu nóng 20 viên 1 ngày lúc đói, đàn bà uống với giấm nhạt, uống luôn như thế khỏe mạnh gân cốt, thông huyết mạch, đen râu tóc, đẹp nhan sắc (Hòa Tễ Cục Phương).
(7) Dương vật không dịu xuống được tính khí tự chảy, có lúc đau như kim chích, bóp lại thì xìu mềm gọi là thận lậu, dùng Phá cố chỉ, Phỉ tử mỗi thứ 1 lượng tán bột mỗi lần làm 9g sắc 2 chén nước còn lại 6 phân, ngày uống 3 lần cho đến khi lành (Hạ tử ích kỳ tật phương).
(8) “Nhị thần hoàn” Trị ỉa chảy do tỳ thận suy hư, dùng Phá cố chỉ sao nửa cân. Nhục đậu khấu sống 4 lượng tán bột. Táo (loại thịt dầy) đâm bấy trộn các thức trên bằng hạt ngô đồng lần uống 50-70 viên lúc đói với nước cơm, có thể gia thêm 2 lượng Mộc hương gọi là “Tam thần hoàn” (Bản Sự Phương).
(9) Đau lưng do chấn thương ứ huyết, ngưng trệ, dùng Phá cố chỉ (sao), Lặc quế 3 phần bằng nhau tán bột lần uống hai chỉ với rượu (Trực Chỉ Phương).
(10) Dương khí suy tuyệt, dùng Phá cố chỉ 10 lượng đãi qua bỏ vỏ, rửa qua phơi nắng, tẩm rượu chưng rồi lại phơi nắng, rồi đâm giã rây nhỏ với hồ đào nhục 20 lượng ngâm qua với nước sôi bóc vỏ đi nghiền nhỏ như bùn, lấy mật tốt làm như kẹo mạch nha cất trong bình sứ, cứ sáng ngày lấy rượu nóng 2 chén trộn với 10 muỗng để uống xong ăn sáng để dè thuốc nếu không dùng rượu thì dùng nước nóng thay cũng được, dùng lâu thì sống lâu khoẻ mạnh, ích khí thông minh nhớ dai, sáng mắt, mạnh gân cốt. Kiêng kỵ các thứ Vân đài, thịt dê.
(11) Có thai đau lưng, dùng “Thông khí tán” Phá cố chỉ 2 lượng sao tán bột, trước hết nhai Hồ đào nhục nửa trái lúc đói với rượu nóng và 6g Phá cố chỉ (Phụ Nhân Lương Phương).
(12) “Dưỡng huyết phản tinh hoàn” Có tác dụng định tâm bổ thận, dùng phá cố chỉ sao 2 lượng, Bạch phục linh 1 lượng tán bột. Một dược 15g, lấy rượu ngâm đổ đầy 1 lóng ngón tay nấu chảy hòa với bột làm viên bằng hạt ngô đồng lần uống 30 viên với nước sôi (Chu Thị Tập Nghiệm Phương).
(13) Ỉa chảy, ỉa ra nước, lỵ mãn tính dùng Phá cố chỉ sao 1 lượng. Anh túc xác nướng kỹ 4 lượng tán bột luyện mật ong nước bằng hạt Nhãn lần 1 viên với nước gừng và Táo (Bách Nhất Tuyển Phương).
(14) Đau răng lâu ngày do thận hư, dùng Bà cốt chỉ 2 lượng, Thanh diêm nửa lượng sao tán bột xức vào (Ngự Dược Viện Phương).
(15) SÂu ăn răng nhức buốt lên đầu, dùng Bổ cốt chỉ sao nửa lượng. Nhũ hương 6g rưỡi tán bột xức vào hoặc làm viên nhét vào chỗ răng đau hàng ngày (Truyền Tín Thích Dụng Phương).
+ “Bổ cốt chỉ hoàn”: Bổ cốt chỉ, Thỏ ty tử, Hồ đào nhục mỗi thứ 9g . Trầm hương 5 phân, trộn mật viên uống lần 9g . Ngày 3 lần với nước muối. Trị di tinh, liệt dương. Có khi chỉ dùng 1 lượng Bồ cốt chỉ tán bột, lần uống 6g, ngày 2 lần với nước. Trị đái dầm.
2. Ấm tỳ chỉ tả: Dùng trong trường hợp ỉa chảy, kiết lỵ, do tỳ thận hư hàn.
“Nhị thần hoàn”: Phá cố chỉ, Nhục đậu khấu 2 vị bằng nhau, dùng gừng và táo làm hoàn, uống lần 9g , ngày 2 lần với nước.
Ngoài ra vị này còn trị phong bạch điến (Bổ cốt chỉ 1 lượng, bỏ vào cồn 75% 10ml ngâm trong 7 ngày xức ngày 1 lần nơi đau.
Tham khảo:
(1) Đàn ông đau lưng mỏi gối, không cất nhắc được việc gì, dưới bìu đài lở chảy nước, dùng Bổ cốt chỉ nó trục được khí lạnh đi, chữa được chứng tê lạnh, tiểu láu, bụng đau vì lạnh (Dược Tính Bản Thảo).
(2) Bổ cốt chỉ vị cay khí ấm không độc đó là vị thuốc “Dương trung chí âm” xuống nhiều mà lên ít nó nhập vào kinh tâm bào lạc. Mệnh môn, Tỳ kinh, nó làm ấm cho thủy tạng, trong âm sinh ra dương, đó là vị thuốc chủ yếu về bệnh Tráng hỏa mà ích cho thổ, trị được chứng ngũ thương thất lao, bởi những bệnh này mới bắt đầu ở tỳ và thận, là 2 kinh đã hư mà sinh ra phải dùng nó để làm ấm thủy tạng lại, bổ hỏa để sinh được thổ khí thì các khí chân dương đủ sức bổ để phát lên mới tiêu được cơm nước, xay lọc được thức ăn thành chất bổ để hóa huyết là những chất tinh túy từ Tỳ đưa lên Phế để nuôi ngũ tạng, nếu thất tình làm hại thì sinh ra bởi phong hay lạnh (hư hàn), do chỗ dương khí suy thì phong hàn thừa cơ đó bám vào làm gân xương đau nhức. Thận có hư hàn thì tinh mới chảy ra, vì thận chủ về tàng tinh nhưng tủy lại là gốc của tinh, nếu khí chân dương không được kiên cố thì những chứng trên sẽ biểu hiện ngay, nên phải làm cho nó bền vững tại gốc thì dương khí nó sẽ sinh ra ngay, tất nhiên những chứng kể trên phải lui hết. Đàn ông hay lấy tinh làm chủ, đàn bà lấy huyết làm chủ. Người đàn bà huyết sấu khí hư thì cũng như người đàn ông suy thận hàn, rồi sinh ra những bệnh khí hàn làm huyết thoái đi. Đàn ông thân lạnh thì tinh khí tự chảy, những vị ấm mà cay thì hay tán bởi hỏa hay tiêu tan các vật nên nó hay trụy thai (Cù hy Ung).
(3) Bổ cốt chỉ chững được chứng thận tiết, thông được Mạng môn, ấm được đơn điền, thu liễn tinh thần (Lý Thời Trân).
(4) Bổ cốt chỉ vị cay đắng, khí ấm nó nhập Tỳ kinh, Thận kinh, Đại trường kinh nó làm ấm thận, ôn tỳ tiêu hóa được cơm nước chữa được chứng đau lưng, chân lạnh mỏi, ỉa chảy do thận suy, yên thai, di mộng tinh, đái dầm, liệt dương, bìu đái lở ẩm ướt, đau nhức các khớp sương. Bổ cốt làm ấm được cả Thủy lẫn Thổ tiêu hóa được thức ăn rồi đưa chất bổ lên Can tỳ, thu liễm được chứng hoạt tinh, tiết tả, di tinh, đới hạ. Những sách khác đều ca tụng nó là vị thuốc làm sống lâu tăng tuổi thọ tuy không hoàn toàn tin tưởng nhưng đó cũng là vị thuộc đáng kể vậy (Hoàng Nguyên Ngự).
(5) Bổ cốt chỉ là vị thuốc cây đắng mà lại ấm, màu đen. Các sách đều ghi rằng nó có tác dụng thu liễm thần minh, làm cho hỏa trong tâm bảo lạc với tướng hỏa trong Mạng môn tương hòa với nhau nhờ thế mà Nguyên dương càng được bền vững kiên cố, xương tủy đầy đủ, đó chính là có ý lợi dụng những cái khí vị của nó ấm và đắng. Lại nữa nó có tính sáp rít là để chữa những chỗ thoát đi, những chứng ngũ lao thất thương, vì hỏa suy sinh ra chứng đau lưng, chân lạnh vì thận lạnh thì tinh tự chảy, thận hư thì ỉa chảy, đàn bà thận hư thì hay sinh non, dùng Bổ cốt chỉ rất hay. Nếu nhận chứng không thông, hoặc vì khí hãm khí hư đến nỗi trụy thai thì bởi do chứng thủy suy hỏa thắng đã thấy tinh khí chảy ra rồi, hoặc tiêu chảy quá mà ngộ dùng Bổ cốt chỉ để cầm lại tức là giết người không giao, còn thảm hại hơn là gươm giáo sắc bén vậy (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Là yếu dược trị ngũ canh tả do Tỳ Thận dương hư (Thực Dụng Trung Y Học).
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn