Tỷ lệ người mắc bệnh tăng huyết áp (THA) tăng dần theo tuổi tác. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có thể tính khái quát: ở lứa tuổi 35, cứ 20 người thì có 1 người bị THA; vào lúc 45 tuổi, cứ 7 người thì có 1 người bị THA; trên 65 tuổi thì 1/3 số người bị THA. THA có thể gây nhiều biến chứng nghiêm trọng. Kinh nghiệm y học cổ truyền điều trị THA rất phong phú. Sau đây là một số dược thảo và bài thuốc có thể áp dụng để điều trị THA ở cộng đồng.
Dược thảo trong thành phần bài thuốc trị THA
Câu đằng: Một số loài câu đằng có tác dụng hạ huyết áp chủ yếu do hoạt chất rhynchophyllin. Cơ chế tác dụng có thể do ức chế hệ thần kinh giao cảm, làm giãn các mạch máu ngoại vi. Để điều trị THA, nhức đầu, hoa mắt, ngày dùng 6 - 15g dạng thuốc sắc. Chú ý nếu dùng phối hợp với các vị khác thì sắc trước các vị đó, khi gần được mới cho câu đằng vào.
Cúc hoa vàng.
Cúc hoa vàng: Có tác dụng điều trị tốt trên bệnh nhân THA. Tác dụng hạ áp có thể do ức chế phản xạ vận mạch nguồn gốc trung tâm và do ức chế adrenalin; đồng thời cúc hoa vàng có tác dụng làm tăng độ bền mao mạch. Liều dùng mỗi ngày 8-16g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị khác.
Dâu tằm: Vỏ trong của rễ Dâu (cạo bỏ vỏ ngoài) có tác dụng hạ huyết áp do cơ chế kích thích phó giao cảm. Nó gây giãn mạch ngoại biên. Để trị THA, ngày dùng 4 - 12g vỏ trong rễ Dâu, có khi đến 20 - 40g, dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Đỗ trọng: Vỏ thân Đỗ trọng có tác dụng hạ huyết áp do ảnh hưởng trên trung tâm vận mạch ở hành tủy và trên dây thần kinh phế vị, gây giãn mạch ngoại vi và lợi tiểu. Để trị THA, ngày dùng 12 - 20g sắc uống.
Đương quy: Rễ Đương quy được dùng làm thuốc trị THA. Ngày dùng 10 - 20g, thường phối hợp với các vị khác, dạng thuốc sắc hay rượu thuốc.
Hạ khô thảo: Để trị THA, ngày dùng 40g, sắc uống sau bữa ăn, uống liên tục 10 ngày, nghỉ 7 ngày, rồi lại tiếp tục.
Hòe: Hoa hòe được dùng chữa THA thể nhẹ và vừa, hạn chế chảy máu não trong phạm vi nhất định nhờ tác dụng làm bền vững thành mạch. Ngày dùng 6 - 20g nụ hòe sao vàng, sắc uống hoặc hãm như hãm chè.
Ngưu tất: Viên bào chế từ cao Ngưu tất và saponin Ngưu tất đã được áp dụng để điều trị cho bệnh nhân THA, kết quả đã làm giảm huyết áp ở 83% số bệnh nhân THA được điều trị; huyết áp trung bình từ 180/100mmHg giảm xuống 145/90mmHg. Giảm rõ rệt các triệu chứng nặng đầu, tức ngực, chóng mặt, mỏi mệt, giảm trí nhớ. Ngày dùng 8 - 12g rễ Ngưu tất sắc uống, thường phối hợp với các vị khác.
Tang ký sinh: Được dùng phối hợp với các dược thảo khác để trị THA. Ngày dùng 8 - 12g, dạng thuốc sắc và thuốc hãm.
Vừng: Vừng đen được dùng phối hợp với các vị khác để trị THA.
Các bài thuốc trị THA
Bài 1: Câu đằng 10g, Xuyên khung 5g, Quế chi 3g, Cam thảo 2g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2: Vỏ trong Rễ dâu, Sơn dược, Tri mẫu, Bắc sa sâm, Huyền sâm, mỗi vị 15g; Sinh địa, Mẫu đơn bì, Táo ta, Hà thủ ô đỏ, mỗi vị 10g; Phục linh, Thạch xương bồ, Đương quy, Hoàng cầm, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 3: Đỗ trọng 20g, Hoàng bá 10g, Sa nhân 6g, Cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 4: Hạ khô thảo, Bồ công anh, Thảo quyết minh (hạt Muồng) sao, mỗi vị 20g; Cúc hoa, Lá dâu, Mã đề, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 5: Tang ký sinh 12g, Mẫu lệ 20g, Hà thủ ô 16g; kỷ tử, Sinh địa, Quả dâu chín, Ngưu tất, mỗi vị 12g; Trạch tả 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 6: Vừng đen, Hà thủ ô, Ngưu tất, lượng bằng nhau. Tán nhỏ, trộn với Mật ong làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10g.
Bài 7: Chữa THA ở bệnh nhân bị giãn tim, thở hổn hển, chóng mặt, có triệu chứng ứ trệ máu: Cúc hoa vàng 6g; Mạch môn, Hà thủ ô, mỗi vị 15g; Sinh địa, Đương quy, Ngũ vị tử, Táo ta, Huyền sâm, mỗi vị 10g; Phục linh, Thạch xương bồ, Cam thảo, Đảng sâm, mỗi vị 6g; Chi tử 3g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 8: Chữa THA ở bệnh nhân có bệnh thận: Đương quy 10g; Trắc bá (hạt), Táo ta, Phục linh, Vỏ trai, mỗi vị 15g; Sinh địa, Đảng sâm, mỗi vị 10g, Vân mộc hương 6g, Hoàng liên 3g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 9: Chữa THA với các triệu chứng tim đập nhanh, ứ trệ máu ở mạch ngoại biên, da xanh tím, tê các ngón tay chân: Ngưu tất 25g; Đương quy, Sinh địa, Mạch môn, Long đởm, Chi tử, Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Thạch cao, mỗi vị 30g; Lô hội, Đại hoàng, Hà thủ ô, mỗi vị 15g; Tri mẫu 10g; Vân mộc hương 6g. Tán bột cho thêm Mật ong, làm viên 0,5g. Uống mỗi lần 4 viên, ngày 3 lần. Nên ăn thức ăn có Gừng.
Bài 10: Chữa THA, đầu choáng váng, ngón tay hơi tê, khó ngủ: Nụ hòe (sao vàng), Thảo quyết minh (sao), hai vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 5g, mỗi ngày 10 - 20g, hãm uống thay chè.
Tác giả bài viết: Gs. Hoàng Thị Nhu
Nguồn tin: (health.vnn.vn)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn