04:28 ICT Thứ sáu, 14/02/2025

Danh mục nội dung

Liên hệ

Trang nhất » Tin Tức » Cây thuốc - Vị thuốc

Liên hệ

ĐƯƠNG QUY 當 歸

Thứ sáu - 04/03/2011 06:30
Cây nhỏ sống lâu năm, cao 45 - 70cm, có thể đến 1m. Rễ cọc hình chùy có rễ phụ giao thoa lại với nhau có mùi thơm nồng.

ĐƯƠNG QUY   當 歸

Angelica sinensis (Olive) Diels.

Xuất xứ: Bản Kinh.

Tên gọi : Vị này có công năng điều khí dưỡng huyết, làm cho khí huyết đi bậy trở về vị trí chức năng của nó nên gọi Đương quy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Tên Khác : Can quy ( Bản Kinh ), Sơn kỳ, Bạch kỳ ( Nhĩ Nhã), Văn vô, Tần quy (Bản Thảo Cương Mục ), Thảo đầu quy ( Biệt Lục), Mã vĩ quy, Đại cần, Danh bệ, Tượng mã, Khích hy, Nữ nhị thiên, Địa tiên viên, Di linh chi, Tăng am thảo ( Hòa Hán Dược Khảo), Đương quy, Tần đương quy, Tây đương quy, Toàn đương quy, Đương quy thân, Bạch quy thân, Đương quy vĩ, Đương quy tu, Du đương quy, Tửu sao đương quy, Thổ sao đương quy ( Đông Dược Học Thiết Yếu). 

Tên khoa học: Angelica sinensis (Olive) Diels, (Angelica polymorphaMaxim.var. sinensis Olive).

Họ khoa học: Họ Hoa Tán (Apiaceae).

Mô tả : Cây nhỏ sống lâu năm, cao 45 - 70cm, có thể đến 1m.  Rễ cọc hình chùy có rễ phụ giao thoa lại với nhau có mùi thơm nồng. Thân hình trụ, có rãnh dọc,  màu hơi tía, phần trên phân nhánh. Lá mọc so le, cuống dài 3 - 12cm, Lá kép xẻ lông chim 3 lần, 3 đôi lá chét. Đôi lá chét ở phía dưới có cuống dài, đôi lá chét trên đỉnh không có cuống, lá chét lại xẻ 1-2 lần nữa, mép có răng cưa, phía dưới cuống phát triển dài gần 1/2 cuống, ôm lấy thân. Cụm hoa hình tán kép, gồm 12-20 tán, dài ngăn không đều, có khi hơn . Hoa màu xanh trắng, hoa rất nhỏ. Quả bế có rìa màu tím nhạt. Toàn cây nhẵn và có mùi thơm đặc biệt.

Mùa hoa quả : tháng 7 - 8 .

Địa lý: Đương quy được trồng nhiều ở các huyện Dân, Vũ Độ, Vũ Sơn, Huyên Văn, Tây Lễ, trong đó huyện Dân có sản lượng và chất lượng tốt nhất. Các  tỉnh Thiểm tây, Tứ xuyên cũng có trồng. Vị Đương quy hiện vẫn còn phải nhập từ Trung quốc và Hàn quốc, tuy đã được du nhập và di thực trồng ở Sapa ( Hoàng liên sơn) nhưng chưa đạt kết quả. Thường mọc ở độ cao 2000 - 3000 mét so với nước  biển , ưa đất pha cát.

Thu Hoạch : Thời gian thu hoạch là  sau tiết Sương giáng 3-5 ngày , hoặc  vào mùa Thu, thu hoạch quá sớm, sản lượng sẽ giảm, chất lượng không đạt. Nếu để quá muộn mới thu hoạch thì đất cứng lại, rễ dễ bị trầy sát, gây thiệt hại.

Sơ Chế: Sau ngày Bạch lộ thì cắt phần thân cây trên mặt đất đi, cắt cao hơn mặt đất 3cm  để sau này dễ đào. Sau khi đào lên, để nơi thoáng gió mấy ngày rồi bó 2-5 cây thành 1 bó. Không nên phơi ở nơi râm mát vì vỏ sẽ bị xù xì, biến thành mầu xanh. Nếu phơi nắng thì vỏ sẽ biến thành mầu đỏ, dầu chảy ra, ảnh hưởng đến chất lượng thuốc.   Thường làm giàn tre cao khoảng 1,3 - 1,7m, xếp Đương quy lên : 1 lớp nằm để nằm, 1 lớp đứng, rồi để nằm ngang mấy lớp, tất cả dầy khỏang 30-50cm. Sao đó lấy cây Đậu, Bạch dương và củi cây liễu đốt, xông lên. Không được xông trực tiếp mà chỉ để cho khói nong nóng lên giàn ( làm như vậy Đương quy sẽ lên mầu đẹp). Sau khi vỏ rễ đã trở thành mầu đỏ tươi hoặc  mầu vàng kim tuyến ( cần xông như vậy khoảng 15 ngày ), lại dùng than để sấy ( lúc sấy không được nóng quá cũng không được để lửa sấy gián đoạn). Sau khi đã khô được 8/10 thì bớt lửa đi, để thuốc tự khô.Trong cả quá trình sấy như vậy cần khoảng 80-90 ngày thì mới được thành phẩm hoàn toàn.

Phần dùng làm thuốc : dùng rễ ( Radix Angelicae Sinensis) của cây đã trồng được 3 năm.   

Mô tả dược liệu : Rễ khô chia làm 2 phần : đầu và rễ, toàn bộ dài chừng 15 - 22cm, đầu phình lớn, thô, khoảng 21 - 32cm, ở đầu hơi hõm xuống, chính giữa có gốc vết của thân, lá, chung quanh có những vòng quanh dầy, nhỏ. Gần vùng rễ có nhiều vết nhăn, mặt ngoài mầu vàng nâu hoặc  nâu tro, ở đầu rễ chất cứng dòn, dễ cắt. Rễ trụ thô mà ngắn, phần dưới có nhiều rễ con làm thành như đuôi ngựa. Rễ nhánh thô khoảng 9mm, nhỏ, dài, quăn queo, mầu nâu vàng, có vết nhăn không quy tắc, chất mềm dẻo, khó bẻ. Lớp mặt vỏ cắt ngang tương đối dầy, từ chính giữa có dạng vết lan tỏa ra ngoài. Rễ mùi thơm đậm, vị ngọt, hơi đắng, sau cay là  loại tốt (Dược Tài Học).

Bào chế :

+ Rễ ủ mềm, phơi qua cho ướt đều cả trong và ngoài, thái phiến, phơi khô. Nếu ngâm rượu thì cứ 100kg Đương quy thì dùng 10 lít rượu, cho vào chảo, đun nhẹ lửa, sao qua (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Bỏ phần cuối rễ đi rồi lấy rươụ ngâm 1 đêm (Lôi Công Bào Chích Luận).

+ Lấy rượu rửa sạch đất bụi. Trị bệnh ở phần trên : ngâm với rượu. Trị bệnh ở ngoài thì rửa qua rượu hoặc  sấy lửa hoặc  phơi nắng cho khô mới cho vào thuốc ( Trân Châu Nang).

+ Rửa qua rễ bằng rượu ( nếu không có rượu thì rửa nhanh bằng nước  sau đó vẩy cho ráo) ủ 1 đêm cho mềm, bào mỏng 1mâm. Nếu muốn để được lâu thì rửa bằng nước  và muối, sau đo phải sấy nhẹ qua Lưu huỳnh (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

Bảo quản :

+ Cần để nơi khô, ráo, thoáng gió. Tránh ẩm nóng làm hỏng mất tinh dầu thơm.

+ Phơi nắng, lúc củ đang còn nóng, lấy giấy gói lại,  cho vào hũ để cất giữ thì sẽ không sợ sâu ăn ( Bản Thảo Cương Mục).

Thành phần hóa học:

+ Thành phần chính của Đương quy là tinh dầu 0,2-0,4%, tỉ trọng ở 15o là 0,955, mầu vàng sẫm, trong chứa 40% Acid tự do và 29 loại thành phần, chủ yếu là Ligustilid, N. Butyliden Phtalid ( C12H1202) , O. Valerophenon Carboxylic Acid (C12H14O4), N. Butylphtalid, Tetradecanol, Safrol, Bergapten ( C12H8O4), Sesquiterpen, Dodecanol, Tetradecanol, P. Cymen, Carvacrol, Cadinen, 0,25 - 0,4%Vitamin B12, Acid Folinic, Biotin, dầu Lipit và 23 nguyên tố kim loại (Trung Dược Học).

+ Aspartic acid, Serine, Glutamic acid, Methionine, Histidine (Trần Diệu Tổ,  Cao Đẳng Học Văn Hóa Học Học Báo 1984, 5 (4) : 515).

+ Lysine, Argine, Threonine, Tyrosine, Proline, Glycine, Alanine, Cystine, Valine, Leucine, Isoleucine, Tryptophane, Phenylalanine (Lâm Mậu, Dược Học Học Báo, 1979, 14 (9) : 529).

+ Galactose, Arabinose, Xylose, Glucuronic acid, Galactorunic acid (Ngô Chiếu Thành, Trung Thảo Dược 1983, 14 (9) : 410).

+ Ligustilide dimer (Hon P và cộng sự, Phytochemistry 1990, 29 (4) : 1189).

Tác dụng dược lý :

+ Tác dụng 2 chiều đối với tử cung : Rễ của Angelica Sinensis có 2 thành phần : 1 thành phần kích thích tử cung, 1 thành phần ức chế tử cung :  Chất tan vào nang hoặc  cồn không phải tinh dầu có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập, còn chất bốc hơi sôi ở nhiệt độ cao và dầu Đương quy có tác dụng ức chế và lúc áp lực trong tử cung cao thì thuốc làm tăng co bóp tử cung. Trên chuột nhắt được nuôi với thức ăn có 5% Đương quy trong 4 tuần thấy ở tổ chức gan, lượng tiêu thụ Oxygen tăng và năng lực sử dụng Glucosa ở tử cung tăng. Trong tử cung, sự tổng hợp Acid Nucleic không tăng nhưng lượng ADN tăng rõ rệt, do đó Đương quy có tác dụng gây tăng sinh tử cung. Đương quy còn có tác dụng gia tăng sự tổng hợp Protid khiến  tử cung dầy lên. Đương quy còn có khả năng chống sự thiếu hụt Vitamin E phòng ngừa sẩy thai nhưng không thể hiện rõ tác dụng như Oestrogen (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Đối với Tim mạch : Đương qui có tác dụng làm giãn động mạch vành, giảm tiêu hao lượng Oxy của cơ tim, giảm ngưng tập của tiểu cầu, chống sự hình thành huyết khối, có tác dụng làm giảm rối lọan nhịp tim và hạ Lipid huyết. Cao nước  Đương qui hoặc  dạng chiết với Ether tác dụng trên tâm nhĩ thỏ cô lập, kéo dài giai đoạn trơ, do đó có tác dụng đối kháng với chứng cuồng nhĩ gây thực nghiệm bởi Acetycholin hoặc  kích thích điện và đối kháng với hoạt tính gây tăng nhanh nhịp tim của Cà độc dược (Trung Dược Học).

+ Theo dõi tác dụng của tinh dầu Đương qui đối với huyết áp và hô hấp của thỏ, mèo và chó thì thấy rằng tùy theo lượng lớn hoặc nhỏ tinh dầu tiêm vào mạch máu mà tác dụng có khác nhau: 

. Liều nhỏ : huyết áp hơi hạ thấp, hô hấp hơi bị  kích thích hoặc  bị ảnh hưởng rất ít.

. Liều trung bình : huyết áp hạ thấp nhiều hơn, hô hấp khó khăn.

. Liều cao : huyết áp hạ rất mạnh , hô hấp khó khăn rõ rệt, cuối cùng hô hấp ngưng lại, gây chết.

tác dụng gây ra hô hấp khó khăn đối với thỏ ít hơn so với chó và mèo vì vậy có thể nói độ độc của Đương qui đối với huyết áp hoặc  hô hấp rất thấp (Lưu Thiệu Quang, Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1935, 21 : 611).

+ Tác dụng làm giãn cơ trơn phế quản và giảm cơn hen suyễn [  bình suyễn] ( Trung dược lâm sàng ).

+ Đương qui có tác dụng bảo vệ gan, phòng ngừa Glycogen gan giảm thấp ( Trung Dược Ưùng Dụng Lâm Sàng ).

+ Đương qui có tác dụng  nhuận trường, thông tiện ( Trung Dược Ưùng Dụng Lâm Sàng ).

+ Đương qui có tác dụng làm tăng chức năng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể, tăng khả năng thực bào của đại thực bào, thúc đẩy sự chuyển dạng Lympho bào. Tuy nhiên có tác giả cho rằng Đương qui có tác dụng ức chế miễn   dịch ( Trung Dược Học).

+ Tác dụng lợi tiểu : do thành phần đường mía trong Đương qui : Cao nước  thô của Đương qui có tác dụng hưng phấn đối với cơ trơn ruột non và bàng quang của súc vật thí nghiệm (Trung Dược Học).

+ Tác dụng kháng khuẩn : Năm 1950, Lưu Quốc Thanh báo cáo nước  sắc Đương qui có tác dụng ức chế các laọi trưch khuẩn Coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn thổ tả, trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn tán huyết. Tinh dầu Đương qui có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn Coli, trực khuẩn lỵ Flexner, trực khuẩn mủ xanh (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).   

Tính vị :

. Vị ngọt, tính ấm ( Bản Kinh ).

. Vị cay, rất ấm, không độc ( Biệt Lục).

. Vị cay, ấm, không độc ( Bản Thảo Thuật)

. ‘ Thần Nông, Hoàng Đế, Tang Quân, Biển Thước cho là vị ngọt, không độc - Kỳ Bá, Lôi Công cho là vị cay, không độc - Lý Thị cho là hơi ấm’ ( Ngô Phổ Bản Thảo).

. Vị ngọt, cay, tính ấm ( Trung Dược Đại Từ  Điển ).

Quy kinh :

-  Vào kinh thủ thiếu âm Tâm, Túc thái âm Tỳ, Túc quyết âm  Can (Thang Dịch Bản Thảo).

- Vào kinh Tâm, Can và Phế (Lôi Công Bào Chích Luận).

- Vào kinh Can,Tâm và Tỳ (Trung Dược Đại Từ Điển).

Tác dụng :

. Ôn tý, chỉ thống, trừ khách huyết  nội bí, bổ ngũ tạng, sinh cơ nhục ( Biệt Lục).

. Chỉ ẩu nghịch, hư lao, hàn nhiệt, phá ứ huyết, bổ bất túc ( Dược Tính Luận).

. Phá ác huyết, dưỡng tân huyết ( Nhật Hoa Tử Bản Thảo).      

. Qui đầu : phá huyết, Qui thân : hành huyết, Qui vĩ : chỉ huyết ( Trân Châu Nang ).

. Qui đầu : chỉ huyết, Qui thân : hòa huyết, Qui tiêm ( đầu nhọn) : phá huyết ( Thang Dịch Bản Thảo).

. Bổ huyết, hòa huyết, điều kinh, chỉ thống, nhuận táo, hoạt trường (Trung Dược Đại Từ Điển).

Chủ trị :

+ Trị nôn nghịch, ôn ngược, phụ nữ bị lậu hạ, các chứng mụn nhọt, ghẻ lở (Bản Kinh).  

+ Trị phụ nữ bị băng trung, trường vị bị lạnh, bổ cho các loại bất túc, ôn ngược, răng đau (Biệt Lục).

+ Trị đầu đau, ngực và bụng đau, nhuận trường vị, gân cốt, bì phu, ung thư (Bản Thảo Cương Mục).

+ Trị tất cả các chứng phong, chứng huyết , bổ tất cả các chứng lao ( Nhật Hoa Tử Bản Thảo).

+ Trị kinh nguyệt không đều, kinh bế, bụng đau, trưng hà, tích tụ, băng lậu, huyết hư, đầu đau, chóng mặt, liệt yếu, phong thấp, táo bón, xích lỵ, ung thư ghẻ lở, bị té ngã tổn thương (Trung Dược Đại Từ Điển).

Liều dùng :  6 - 20g.

Kiêng kỵ : 

. Trường vị hư yếu, tiêu chảy, bệnh ở Tỳ Vị : không muốn ăn, ăn không tiêu : kiêng dùng ( Thang Dịch Bản Thảo).

. Sợ lạnh, phát sốt, có dấu hiệu biểu chứng : không dùng ( Bản Thảo Hối Ngôn).

. Sợ vị Xương bồ, Hải tảo, Mẫu mông ( Bản Thảo Kinh Tập Chú).

. Thấp trở, trung mãn hoặc  tiêu chảy nhiều : không dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).

Đơn thuốc kinh nghiệm :     

+ Trị lưng đau do khí huyết ứ trệ kiêm hư hàn : Đương qui 40g, Thịt dê ( dương nhục) 200g, Sinh khương 20g, chưng cách thủy hoặc  sắc uống ấm ( Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục Thang - Kim Quỹ Yếu Lược).

+ Trị lưng đau do khí huyết ứ trệ kiêm hư hàn : Đương qui 16g, Quế chi 8g, Bạch thược 16g, Cam thảo phấn 10g, Sinh khương 4g, Hồng táo 20g, Đường phèn 40g, sắc uống ( Đương Qui Kiến Trung Thang - Thiên Kim Dực Phương ).

+ Điều khí dưỡng vệ, tư dưỡng khí huyết, trị mạch Xung, Nhâm bị hư tổn, kinh nguyệt không đều, vùng bụng rốn đều đau, băng trung, lậu hạ, huyết trưng, có thai mà bị lạnh, thai động không yên, máu ra không cầm, sinh xong bị hư thoát, phong hàn nội chuyển, ác lộ ( máu dơ) không ra gây nên tích tụï, bụng dưới cứng đau sinh ra nóng lạnh : Đương qui ( tẩm rượu, sao), Xuyên khung, Bạch thược, Thục can địa hoàng  ( chưng rượu), lượng bằng nhau. Tán bột, trộn đều. Mỗi lần dùng 12g, sắc uống nóng ( Tứ Vật Thang -  Hòa Tễ Cục phương ).

+ Trị con gái kinh nguyệt không đều : Đương qui 40g, Can tất ( sao cho bốc khói), Khung cùng đều 20g. Tán bột, luyện mật làm hoàn, ngày uống 8-12g với rượu ấm (Đương Qui Hoàn - Thánh Tế Tổng Lục).).

+ Trị phụ nữ có thai mà thai động không yên, bụng và lưng đau : Đương qui 20g, Thông bạch 0,4g. Sắc uống ( An Thai Ẩm - Thánh Tế Tổng Lục).

+ Trị kinh nguyệt đi ngược lên khiến cho huyết  ra đường miệng, mũi : Trước tiên lấy mực tầu ( đen - mát), mài ra lấy nước  cho uống sau đó dùng Qui vĩ, Hồng hoa đều 12g, sắc uống nóng ( Dị Giản phương ).

+ Trị huyết băng : Đương qui 40g, Long cốt 80g (sao cho đỏ lên), Hương phụ tử (sao) 12g, Tông mao khôi 20g. Tán bột. Mỗi lần dùng 12-16g uống với nước  cơm, lúc đói (Đương Qui Tán - Nho Môn Sự Thân ).

+ Trị huyết trưng, bụng trướng, mạch Sáp : Đương qui 120g, Quế tâm 60g, Bạch thược ( sao rượu) 60g, Bồ hoàng  (sao) 80g, Huyết kiệt 120g, Diên hồ sách 20g. Tán bột. Mỗi lần dùng 12g, sắc với rượu, uống  ấm (Đương Qui Bồ Diên Tán -  Y Lược Lục Thư).

+ Trị tâm huyết hư, hồi hộp, hay quên, mất ngủ, tâm phiền , bứt rứt : Đương qui 8g, Hoàng kỳ 40g, sắc uống ( Đương Qui Bổ Huyết Thang  - Nội Ngoại Thương Biện Hoặc  Luận).

+ Trị ra mồ hôi trộm, mất ngủ, ăn ít, hơi thở ngắn : Đương qui ( rửa rượu) 20g, Thục địa ( chưng) 12g, Liên nhục ( sao) 12g, Bạch thược (sao mật) 12g, Nhân sâm ( sao) 8g, Phục thần 6g, Đan sâm ( rửa rượu) 4g, Đan bì (sao rươụ) 4g, A giao (sao phồng ) 4g, Cao quy bản 10g, Ngũ vị tử (sao mật) 15 hột, sắc uống ( Thống Tàng Phương - Hiệu Phỏng Tân Phương ).

+ Trị ung nhọt lâu ngày , ung thư, thoát thư, động mạch viêm tắc : Đương qui 12g, Huyền sâm 16g, Kim ngân hoa 16g, Cam thảo 6g, (Tứ Diệu Dũng An Thang - Nghiệm Phương Tân Biên ) thêm Bồ công anh 16g, Đan sâm 12g, Xích tiểu đậu 12g, Xuyên sơn giáp 16g, Địa long 12g. Nếu bị thoát thư, ứ huyết nặng, thêm Hồng hoa 10g, Đào nhân  12g. Khí hư thêm Hoàng kỳ 16g,  Đảng sâm 12g  ( Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị táo bón do khí  bị hư : Đương qui 20g, sắc  với 40g dầu mè, uống ( Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị chân tay có huyết ứ do té ngã, chấn thương, phần mềm sưng đau, động mạch viêm tắc : Đương qui 12g, Đan sâm 20g, Một dược 6g, Nhũ hương 6g. Sắc uống (Hoạt Lạc Hiệu Linh Đơn - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).                

+ Trị hen suyễn : Mỗi ngày uống 9-12g Đương qui cao, chia làm 3 lần. 10 ngày là 1 liệu trình. Đã theo dõi kết quả 24 trường hợp phế khí thủng, 26 trường hợp phế khí thủng có biến chứng tâm phế mạn. Sau 5-6 liệu trình có kết quả tốt : lượng  thông khí được cải thiện rõ, hết hoặc  giảm ho đờm rõ ( ‘Quan Sát Đương Qui Trị Phế Khí Thủng Và Phế Khí Thủng Có Biến Chứng Tâm Phế Mạn’, Phạm Huyện, Hà Nam Trung Y Học Viện Học Báo 1978, 2 : 31).

+ Trị nửa đầu đau : Mỗi lần uống 100mg Đương qui tố, ngày 3 lần. Đã theo dõi 35 trường hợp, có kết quả 82,9% ( ‘Theo Dõi Kết Quả Điều Trị Nửa Đầu Đau Bằng Uống Đương Qui Tố’, Đường Vạn Nghi và cộng sự, Bắc Kinh Y Học Học Báo 1988, 2: 95).      

+ Trị rối lọan nhịp tim : Dùng dung dịch Đương qui 25-50%, 60-120ml tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc truyền nhỏ giọt ngày 1 lần hoặc  dùng uống dạng sirô Đương qui 150%, 20ml x 3 lần/ ngày. 15 ngày là  1 liệu trình. Đã trị 100 trường hợp rối loạn nhịp tim trong đó có 70 trường hợp rối loạn nhịp thất, có kết quả 36 trường hợp; bệnh mạch vành loạn nhịp thất 30 trường hợp, có kết quả 25 ( tỉ lệ kết quả 83,3%); trị 3 trường hợp rung nhĩ, kết quả rõ là 1 trường hợp (‘Sơ Bộ Quan Sát 100 Trường Hợp Rối Loạn Nhịp Tim Điều Trị Bằng Đương Qui’, Tưởng Tích Gia và cộng sự, Trung Y Tạp Chí 1981, 7 : 54).

+ Trị động mạch xơ cứng : dùng dung dịch tiêm ‘Phức Phương Đương Qui’ 40ml (mỗi 100ml  có 10g Đương qui, 10g Xuyên khung, 8g Hồng hoa) cho vào 60ml dung dịch muối sinh lý truyền tĩnh mạch, 40-60 giọt/phút, ngày 1 lần hoặc  mỗi ngày tiêm  bắp 4ml ( mỗi 10ml có Đương qui 2,5g, Xuyên khung 2,5g, Hồng hoa 5g),  ngày 1 lần, 25 lần là 1 liệu trình. Đã trị 52 trường hợp, trong đó truyền tĩnh mạch 33  trường hợp. Kết quả rõ : 13, tiến bộ : 19; tỉ lệ kết quả : 84,2% ( Khoa Thần Kinh Tổng Y Viện Quân Khu  Thẩm Dương : ‘Sơ Bộ Nhận  Xét 52 Trường Hợp Mạch Não Xơ Cứng Điều Trị Bằng ‘Phức Phương Đương Qui’, Tân Trung Y Tạp Chí 1977, 1 : 23).

+ Trị nửa đầu đau : Theo dõi điều trị 35 trường hợp, mỗi ngày cho uống 100mg Đương qui tố, ngày 3 lần. Kết quả 82,9%. (‘Theo Dõi Kết Quả Điều Trị Nửa Đầu Đau Bằng Uống Đương Qui Tố’, Đường Vạn Nghi và cộng sự, Bắc Kinh Y Học Học Báo 1988, 2 : 95) .

+ Trị lưng đùi đau : Tiêm dịch Đương qui và Xuyên khung ( 1 số ít tiêm bắp hoặc  tiêm vào huyệt ), hàng ngày hoặc  cách nhật, 10 ngày là  1 liệu trình, có kết quả thì dùng tiếp, không kết quả thì ngưng dùng. Đã chữa hơn 1.000 trường hợp ( có đầy đủ tư liệu : 337 trường hợp ), khỏi : 215, có tiến bộ : 112, không kết quả : 10. Tỉ lệ kết quả : 97% ( Chu Dụng Hào, Phép Hoạt Huyết Hóa Ưù Trị Lưng Đùi Đau - Tân Trung Y Tạp Chí 1980 , 2 : 34).

+ Trị mất ngủ : Dùng dịch tiêm Đương qui 4ml ( mỗi ống 2ml5  Đương qui), tiêm  huyệt An miên 2 bên, mỗi bên 2ml , mỗi ngày hoặc  cách nhật, 10 lần là 1 liệu trình. Theo dõi 50 trường hợp, sau 1 liệu trình, khỏi : 12, có kết quả 32, không kết quả : 6. Tỉ lệ kết quả chung là  88%.( Vương Ninh Sinh, Thủy Châm Dịch Đương Qui Trị Mất Ngủ, Trung Tây Y Kết Hợp Tạp Chí 1983, 5 : 319).

+ Trị đái dầm : Dùng 5% dịch tiêm Đương qui, thủy châm các huyệt Thận du ( B.quang

23), Bàng quang du ( Bq. 28), Đại trường du ( Bq. 25), Quan nguyên (Nhâm 4), Trung cực ( Nhâm 3), Tam âm giao ( Tỳ 6), Di niệu huyệt ( của Thủ châm ở giữa nếp lằn ngang đốt 1-2 ngón tay út), mỗi lần chọn 3-4 huyệt, mỗi huyệt tiêm khoảng 0,5-1ml, ngày 1 lần, tiêm 1 tuần không kết quả thì ngưng tiêm. Đã trị 87 trường hợp, theo dõi trên 2 năm. Kết quả 1 lần tiêm : khỏi  28, 2-5 lần : khỏi 34, tiến bộ rõ :11, không theo dõi được : 9 ( Thang Truyền Quân,’Đương Qui Thủy Châm Trị Đái Dầm’, Xích Y Tạp Chí 1977, 4 : 21).

+ Trị  xoang mũi viêm mạn : Sau khi dùng cồn vô trùng da mũi, dùng 5% dịch Đương qui đã tiệt khuẩn (pH5 ) 1ml thêm 1 ít Procain 0,5%, dùng kim nhỏ số 4 1/2 tiêm vào 2 huyệt  Nghinh hương ( Đtr. 20), mỗi bên 0,5ml ngày 1 lần, 7 lần là 1 liệu trình. Đã trị 32 trường hợp trong đó có 4 trường hợp mũi viêm dị ứng đều khỏi; mũi viêm đơn thuần 17 trường hợp, khỏi 13, kết quả rõ : 2, giảm nhẹ : 2 ; mũi viêm phì đại 11  trường hợp, khỏi : 6, kết quả rõ : 1, giảm : 3 , không kết quả : 1 (Khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Nhân Dân Số 4 Thành Phố Cát Lâm : ‘Giới Thiệu Dịch Đương Qui Thủy Châm Điều Trị Mũi Viêm Mạn’, Tân Y Dược Học Tạp Chí 1974, 9 : 17).

+ Trị chứng trọc đầu : Dùng Đương qui, Bá tử nhân  mỗi thứ  500g, tán bột, luyện mật làm hoàn bằng hạt đậu, ngày uống 3 lần, mỗi lần 12g, sau bữa ăn. Đã trị hơn 40 trường hợp, kết quả tốt ( Tiết Duy Chấn : ‘Điều Trị Trọc Đầu Bằng Trung Dược’, Thiểm Tây Trung Y Tạp Chí, 1987, 9 : 419).

Tham khảo                         

. Đương qui... tác dụng dẫn huyết về các kinh sở qui của nó vì vậy gọi là Đương qui’ ( Bản Thảo Đồ Giải).

.  Đương qui vị cay, tính rất ấm, không độc, vị ngọt làm  hòa hoãn, vị cay làm tán ra, làm nhuận, vị ấm làm thông sướng. Đi vào kinh thủ thiếu âm (Tâm), túc  quyết âm (Can) vào cả túc thái âm (Tỳ), là thuốc chủ yếu về hoạt huyết, bổ huyết, vì vậy, trị được chứng ho, khí nghịch. Chứng ôn ngược nóng rét khó chịu ở bì phu là do tà khí ở kinh quyết âm. Hành huyết thì tà khí nơi kinh quyết âm tự giải, do đó, nóng rét từng cơn cũng theo đó mà khỏi. Phụ nữ lấy huyết làm chủ, chứng băng lậu, đái hạ, không có con là do huyết khô. yêu cầu  chứng ung nhọt độc, nếu đã vỡ mủ thì thì ôn bổ để trừ ủng tắc bên trong, bổ huyết thì sinh da non. Chứng tổn thương do kim khí ( dao búa) lấy hoạt huyết, bổ huyết làm chính, chứng phong đòn gánh (phá thương phong ) cũng vậy, sắc lấy nước  uống. Chứng nội hư thì bên trong bị hàn, vị ngọt ấm thì ích huyết vì vậy có khả năng ôn trung. Huyết ngừng thì sinh đau, hoạt huyết thì đau tự khỏi. Huyết tràn ra ngoài màng hoặc ở trong đường ruột gọi là Khách huyết, được ấm được cay thì khách huyết tự tán ra. Tắc nghẽn bên trong là công hiệu bổ huyết của vị ngọt ấm. Trúng phong co cứng ( kính chứng), mồ hôi không ra là do phong tà thừa hư khiến huyết  tràn ra ngoài, khí được cay ấm thì huyết hành, huyết hòa, vì vậy, chứng  co cứng tự mềm ra mà mồ hôi ra được. Chứng tý (tê) là do phần huyết bị bị tà khí xâm lấn gây ra co rút, đau. Phong, hàn, thấp 3 loại tà khí hợp lại thành chứng tý, huyết hành thì tà khí không đến chiếm đóng được, vì vậy, chứng tý tự khỏi. Nội hư trúng hàn là do thình lình trúng phải tà khí. Khách khí là hàn khí đến từ bên ngoài , ôn trung thì hàn khí tự giải tán.Hư lãnh là nội hư, huyết không dinh dưỡng phần cơ bắp gây nên lạnh vậy, bổ ngũ tạng, sinh cơ nhục là bởi tạng thuộc âm, âm là huyết, âm khí đầy đủ thì dinh huyết thịnh vượng mà cơ nhục trường vậy. Người bị hư lãnh phải dùng ( Đương quy) liều cao hơn  ( Bản Thảo Kinh Sơ).                

. Đương qui vị cay, tính ấm, nhuận, các sách ghi là vị thuốc tốt nhất vào Tâm, sinh huyết, chạy dọc theo các mạch là huyết phủ. Các mạch đều thuộc về Tâm, Tâm không có huyết dưỡng thì mạch không thông, huyết không có khí trợ thì huyết không hành. Đương qui khí vị cay ấm, không lo sợ nó quá phát tán cũng không lo nó qua hòa hoãn, được sự ôn trung, nhuận của nó, là vị thuốc dương trong âm vì vậy có khả năng thông Tâm, sinh huyết, la loại thuốc khí trương âm. Do đó, tất cả các chứng âm huyết hư, dương không có chỗ dựa mà thấy các chứng huyết khô, huyết táo, huyết thoát, huyết bế... nên dùng thuốc này làm chính để trị. Theo ghi nhận thì Qui đầu có tác dụng cầm máu, dẫn huyết đi lên; Qui thân thì dưỡng huyết, giữ phần giữa; Qui vĩ thì phá huyết, dẫn huyết đi xuống. Cổ phương dùng Đương qui hợp với Bạch thược, Khung cùng, Địa hoàng dùng chung gọi là tổng tễ Tứ Vật Thang vì :

            * Kết hợp với Xuyên khung được dịp trưởng dưỡng sinh phát.

            * Hợp với Địa hoàng được nguồn tự hóa, tư dưỡng.               

            * Hợp với Bạch thược được gốc của âm liễm dương.

Như vậy thì huyết mới tư sinh được. Nếu như huyết hư mà khí không cố giữ được  thì nên trợ thêm Nhân sâm, Hoàng kỳ. Huyết nhiệt thì trợ thêm Điều cầm, Hoàng liên, Huyết tích tụ thì trợ thêm Sài cát, Thăng ma, Quế. Phần Vệ nhiệt mà biểu không liễm thì trợ bằng Đại hoàng...thùy theo bệnh mà gia giảm dùng. Muốn làm cho huyết trệ được thông, huyết hư được bổ, huyết khô được nhuận, huyết loạn được thuận, khiến huyết với khí trợ cho nhau, khí với huyết củng cố nhau mà không dẫn đến tán loạn không chỗ về. Sách gọi tên nó là Qui, nghĩa là ý này. Khí nghịch mà thấy ho thì nên dùng Đương qui để hòa huyết, huyết hòa mà khí giáng vậy. Chứng hàn uất mà thấy ngược ( sốt rét), lỵ, thắt lưng đau, đầu đau, bụng đau thì nên dùng Đương qui để tán hàn. Hàn tán đi thì huyết tự hòa vậy. Chứng huyết hư mà có phong tà, không ra mồ hôi, nên dùng Đương qui để dưỡng huyết thì phong tự giải vậy. Ngoài ra, ung nhọt, lở loét mà thấy đau khác thường, cơ bắp mất dinh dưỡng mà da không nhuận, đồng thời mạch Xung bị bệnh mà thấy khí nghịch, phần lý cấp, mạch Đới bị bụng đau, thắt lưng đau như ngồi trong chậu nước ... cũng đều lấy ý là huyết hư không có chỗ nương tựa. Khi được Đương qui thì mủ rút, đau giảm, nhọt tiêu, độc bị khử, da bóng mượt, không còn những bệnh khô héo mất dinh dưỡng vậy. Nhưng Đương qui vị cay, có công dụng phát tán, người khí hư hỏa vượng không nên dùng. Vị ngọt thì ủng trệ, người Tỳ Vị hư hàn nên kiêng dùng. Chất nhuận thì tính hoạt, người bị tiêu chảy nên kiêng dùng , không thể không hiểu rõ mà biện bạch. Còn như sách đã ghi rằng Đương qui vào kinh Tâm lại ghi rằng vào Can và Tỳ, chẳng qua là Đương qui bổ huyết mà Can và Tỳ đều có ý thống lãnh các tạng ( Bản Thảo Đồ Giải).

. Đương qui hợp với Xuyên khung, Tế tân làm thuốc dẫn thì chữa được đầu đau, mắt đau, răng đau do huyết hư; hợp với huyết dược như Ý dĩ, Ngưu tất thì có thể dẫn thuốc đi xuống để chữa bệnh lưng đau, chân bại liệt do huyết không tưới nhuần tới gân; hợp với khí dược như Nhân sâm, Ô dược, Ý dĩ thì có thể tưới nhuần phần biểu để chữa thấp độc, gân co rút; Dùng Đương qui làm tá cho Sâm, Kỳ thì bổ khí huyết, hư lao mà cầm mồ hôi, sinh da non. Làm tá cho Thục địa, Bạch thược thì có thể dưỡng huyết, tư âm mà bổ Thận. Dùng với Bạch thược mà giảm đau, chữa kiết lỵ. Hợp với Miết giáp, Sài hồ thì chận đứng được nóng lạnh mà trừ chứng sốt rét. Hợp với Trần bì, Bán hạ có thể cầm nôn mửa. Hợp với Viễn chí thì có thể dưỡng Tâm, làm yên được cơn hồi hộp. Đương qui làm tá cho Quế, Phụ thì nóng, ôn trung mà tán hàn. Đương qui làm tá cho Nga truật. Khiên ngưu thì phá huyết mà tiêu chứng trưng, hà. Đương qui cho vào thuốc dưỡng huyết, hòa huyết thì nên sao với rượu; chữa phần trên thì tẩm rượu, chữa bệnh ở ngoài thì rửa rượu, chữa bệnh đờm thì rưới nước  Gừng, phơi khô; Trị nôn ra máu, chảy máu cam, băng huyết thì tẩm giấm sao qua, nên dùng ít. Qui đầu hay cầm máu mà đi lên, Qui vĩ hay phá huyết mà đi xuống, Qui thân dưỡng huyết mà cố thủ ở phần giữa. Toàn qui hay hoạt huyết mà chạy. Đương qui là thuốc chủ yếu của huyết phận, cay, ấm mà tán, là khí ở trong huyết dược, vì vậy khi huyết mà loạn uống vào thì yên, có khả năng làm cho tất cả huyết đều trở về kinh mạch đáng lý ra phải về, cho nên mệnh danh là Đương qui’ ( Dược Phẩm Vậng Yếu) .

.  Đương qui cay đắng là  được vị của Địa hỏa, khí hơi ấm, được tính của Mộc mà chất lại trơn nhuận, được sự ẩm ướt của đất cho nên hoa được chất nước , giúp cho Tâm sinh huyết để lưu hành đến Can. Về công năng sinh huyết , không có thứ thuốc đặc hiệu nào khác có thể sánh được [với Đương qui] -  Đương qui dùng đầu, dùng đuôi có chỗ khác biệt: tính của đầu thì đi lên, cho nên chủ sinh huyết, tính của đuôi đi xuống cho nên chủ hành huyết ( Bản Thảo Vấn Đáp).

.  Đương qui và Kê huyết đằng đều bổ âm, hoạt huyết, nhưng Đương qui bổ huyết mạnh hơn hoạt huyết vì vậy Đương qui là yếu dược bổ huyết, còn Kê huyết đằng hoạt huyết mạnh hơn hoạt huyết vì vậy Kê huyết đằng là thuốc tốt cho hành huyết (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng Chỉ Mê).                  

Phân biệt : Việt Nam nhập 2 loại Quy : Angelica Sinensis (Oliv.) Diels của Trung Quốc vào đầu những năm 60 và A. Uchyamana Yale của Hàn Quốc vào đầu những năm 70.

            Ở Trung quốc, ở Thiểm tây có loại Angelica Taxìoliata Diels, ở Hà nam có Angelica Tochiliensi Wef, ở Tứ xuyên có Angelica Valida Diels, ở Tây tạng có Heracleum Cancians Wall, ở Hàn quốc có Angelica Uchiyamana Yabe, ở Nhật bản có Ligusticum Acutilobum Sieb. et Zucc hoặc Ligusticum Acutiloba ( Sieb. et Zucc) Kitagawa.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Đăng nhập thành viên

Thăm dò ý kiến

Cách tổ chức thông tin trên theo bạn là?

Rất thân thiện

Rất đẹp

Hợp lý

Khó sử dụng

Logo Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa
Logo Cơm Chay Dưỡng Sinh Liên Hoa
Các món ăn Liên Hoa quán