Vẩy nến là một bệnh khá phổ biến sau eczema, theo tài liệu nhiều tác giả nước ngoài trong nội trú chiếm 4-8% và ngoại trú 2-7% so với tổng số bệnh ngoài da đến khám và điều trị. Bệnh ít gây ảnh hướng đến sức khoẻ chung (trừ một số thể nặng) nhưng là bệnh dai dẳng hay tái phát nên ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt, lao động và tâm trí người bệnh.
Bệnh thường phát về mùa Đông, ở da đầu và mặt ngoài tứ chi, nặng thì có thể phát ra toàn thân, có thể kèm theo sưng đau các khớp tay chân.
Sách Phong Môn Toàn Thư viết: “Vùng tổn thương lõm như đồng tiền lớn, bên trong mầu hồng bên ngoài mầu trắng, châm kim vào không chảy ra máu, chảy ra nước mầu trắng như mầu bạc. Lúc đầu phát ra ở cơ thể rồi sau đó phát ở mặt”.
Bệnh vảy nến.
NGUYÊN NHÂN
Do ngoại tà khách ở bì phu: Lục dâm (phong, hàn, nhiệt, thấp, thử, táo) xâm nhập vào phần cơ, phu làm cho khí của Phế vệ không được tuyên thông, làm cho kinh lạc bị ngăn trở, ứ đọng lại ở da (phu tấu), không nuôi dưỡng được da gây nên. Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận viết: “Tấu lý hư yếu, phong và khí xâm nhập vào, huyết ứ lại không nuôi dưỡng được cơ nhục gây nên bệnh”.
Do Tình Chí Nội Thương: Thất tình bị ức chế, uất kết lâu ngày hoá thành hoả, hoả nhiệt hoá thành độc tà vào phần doanh huyết, bên ngoài ảnh hưởng đến phu tấu (da), lỗ chân lông bị bít lại không thông, khí trệ huyết ứ gây nên bệnh.
Do Trúng Độc: Ăn nhiều thức ăn cay, nóng, tanh, tươi sống, trứng …khiến cho phong bị động, Tỳ Vị không điều hoà, khí trệ không thông, thấp nhiều cùng kết lại, thấm vào tấu lý, gặp phải hàn thấp, khí huyết tương bác nhau gây nên bệnh.
Do Mạch Xung và Nhâm Không Điều Hoà: Mạch Xung và Nhâm liên hệ với tạng Can và Thận, vì vậy kinh nguyệt và sinh dục là yếu tố làm cho mạch Xung và Nhâm không điều hoà, khiến cho âm dương của Can Thận thiên lệch gây nên, biểu hiện bằng âm hư nội nhiệt hoặc do dương hư ngoại hàn, lâu ngày làm cho âm dương đều hư hoặc chân hàn giả nhiệt hoặc chân nhiệt giả hàn.
Tóm lại, bệnh chủ yếu do rối loạn ở phần huyết: huyết nhiệt, huyết táo, huyết ứ. Bệnh lâu ngày làm cho tạng phủ bị ảnh hưởng theo, trong đó chú ý đến Can Thận.
CHẨN ĐOÁN
Cần phân biệt với:
Bạch Tiêu Phong (Can Tính Bì Chỉ Dật): Xuất hiện nhiều ở vùng đầu, thường có mầu trắng tro hoặc đục như mỡ, lâu ngày gây nên hói (rụng) tóc.
Phong Nhiệt Sang (Mai Côi Đường Chẩn): nốt ban chủ yếu ở vùng khô, có hình tròn, hơi trắng bạc, có thể tự khỏi.
Hồ Niệu Thích (Mao Phát Hồng Đường Chẩn): vết ban phía trên có đầu nhỏ mầu trắng đục, không làm trắng da và không rướm máu.
Vảy nến thể chấm giọt: cần phân biệt với sẩn giang mai II (cộm, màu đỏ sẫm, có viền Biệt), Á vảy nến thể giọt (vảy màu nâu, cậy bong ra thành một lớp như gắn xi).
Ở da đầu, da mặt trẻ em cần phân biệt với á sừng liên cầu.
Ở các móng cần phân biệt với nấm móng.
Ở nếp kẽ phân biệt với hăm kẽ, loét kẽ.
Thể Phong Nhiệt: Những nốt chấm xuất hiện nhiều, liên tục, lâu ngày to dần, mầu trắng đục, ngứa nhiều, mọc ở tay chân hoặc ở đầu, mặt, râu, gây hoại tử da sau đó có chấm xuất huyết. Kèm ngứa, sốt, khát, họng khô, đau, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi hơi vàng.
Thể Phong Huyết Táo (gặp ở thể bệnh kéo dài): Nhiều nốt ban chẩn mới ít xuất hiện, những nốt cũ mầu hơi đỏ, ngứa, mặt da khô, lưỡi ít tân dịch, rêu lưỡi hơi vàng mà khô.
Thể Phong Hàn: Nhiều vết chấm xuất hiện giống như đồng tiền hoặc từng mảng mầu hồng, trên mặt mụn có thể thối nát, phát bệnh quanh năm. Từ mùa đông đến mùa hè thường tự bớt hoặc giảm ẩn đi, lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng nhạt.
Thể Thấp Nhiệt: Nhiều vết chấm xuất hiện giống như nước trong lỗ rỉ ra, xuất hiện ở bên dưới bầu vú, vùng hội âm, khuỷ tay, hố mắt, vùng sinh dục, mầu da có mầu hồng xám, thường gom lại thành mảng lớn, vùng tổn thương chảy nước mầu trắng đục, hơi ngứa, miệng khô, không khát, cơ thể nóng, mệt mỏi, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi vàng hoặc có ngấn bệu.
Thể Huyết Nhiệt: Mới phát hoặc tái phát không lâu, vết sần nổi lên như dạng đồng tiền hoặc như bùn, thường nổi hạt nhỏ như ban chẩn, to nhỏ không đều, mầu hồng tươi, mọc nhiều ở tứ chi, có thể mọc ở vùng đầu và mặt trước, bề mặt của vết sần có mầu trắng đục, khô, vỡ nát có khi có rướm máu, kèm ngứa, tâm phiền, khát, táo bón, tiểu ít, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi hơi vàng
Thể Huyết Ứ: Vết ban mầu đỏ tối hoặc tím, to nhỏ không đều, bề mặt hơi lõm, khô trắng đục, không bong da, có một ít vết ban nhỏ mới xuất hiện kèm theo ngứa hoặc không ngứa, miệng khô, không muốn uống, lưỡi đỏ tối hoặc có điểm ứ huyết, rêu lưỡi trắng nhạt hoặc hơi vàng.
Thể Huyết Hư: Cơ thể vốn suy yếu, bệnh kéo dài lâu ngày, da chuyển sang trắng bệch, nhiều vết ban có dạng giống như từng mảng hoặc phát ra toàn thân, mầu hồng nhạt ướt hoặc nhạt tối, bong da có những vết ban mới xuất hiện, ngứa, nặng hoặc nhẹ mầu da cũng không thay đổi, kèm chóng mặt, ít ngủ, ăn uống kém, lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi ít, ít tân dịch.
Mạch Xung Nhâm Không Điều Hoà: Da nổi nhiều nốt sẩn đặc biệt vào thời kỳ kinh nguyệt, có thai, sinh đẻ, đa số trước khi có kinh, đang có thai và trước khi sinh thì phát nặng hơn, có một ít sau khi có kinh và sau khi sinh mới phát. Toàn thân nổi lên những vết ban mọc thành đám, mầu đỏ tươi sau đó trở thành trắng đục, lúc mới phát có những vết xuất huyết. Toàn thân hơi ngứa,tâm phiền, miệng khô, đầu váng, lưng đau, lưỡi đỏ sẫm hoặc đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng.
Nhiệt Độc Thương Doanh: Phát bệnh nhanh, toàn thân đều nổi ban đỏ, đỏ tím, đỏ sẫm, nóng, ấn vào thì nhạt mầu, sưng phù, bong da, toàn thân sốt cao, sợ lạnh, tâm phiền, khát, tinh thần uể oải, tay chân không có sức, lưỡi đỏ sẫm, ít tân dịch.
Phòng Bệnh
Chú ý loại trừ yếu tố nghi ngờ là nguyên nhân gây bệnh.
Nếu là bệnh mạn tính, chú ý tinh thần thoải mái, tránh mọi kích cảm có thể xảy ra.
Tránh dùng các loại thuốc có tính kích thích mạnh trong thời gian bệnh phát triển.
Tránh uống rượu, những thức ăn có men (yeast), các loại nước ngọt, trà đậm, cà phê thuốc lá, không ăn các chất cay nóng, mỡ heo, hạn chế ăn các loại chiên xào.
THAM KHẢO THÊM VỀ CÁCH TRỊ BỆNH VẨY NẾN
Ngân Hoa Hổ Trượng Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 2, 1982) : Ngân hoa, Hổ trượng, Đan sâm, Kê huyết đằng đều 15g, Sinh địa, Đương quy vĩ, Xích thược, Hoè hoa đều 12g, Đại thanh diệp 9g. Sắc uống.
Tác Dụng: Thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, thông lạc. Trị vẩy nến. Trị 25 ca bịnh 10 tháng trở lại, uống thuốc 4 tháng. Kết quả: khỏi hoàn toàn 8, có hiệu quả 8, có chuyển biến 9. tổng kết đạt 100%. Uống thuốc 6-21 ngày, trung bình 13,5 ngày.
Song Giải Nhị Diệu Tán (Tứ Xuyên Trung Y Tạp Chí 8, 1985) : Ngân hoa đằng 30g, Thuyền thoái, Phòng phong, Cương tằm, Bạch tật lê, Đơn bì, Xa tiền nhân đều 10g, Tử thảo, Hạ khô thảo, Thương truật, Hoàng bá đều 12g. Sắc uống. Nhẹ thì 2 ngày 1 thang, nặng thì ngày 1 thang.
Có thể dùng Khổ Sâm Thang (Khổ sâm, Địa phu tử đều 60g, Hương nhu, Bạc hà, Quán chúng, Uy linh tiên, Khương hoàng đều 24g, sắc lấy nước rửa ngày 2 lần.
Tác Dụng: Tán phong thông lạc, lương huyết giải độc, thanh nhiệt táo thấp. Trị ngưu bì tiễn.
Vương Tông Luân đã dùng trị nhiều ca Ngưu bì tiễn, kinh nghiệm qua 6-7 năm đều thấy có kết quả ổn định.
Xà Linh Thang (Hồ Bắc Trung Y 3, 1988) : O tiêu xà, Uy linh tiên, Bạch tiên bì, Xạ can, Quát lâu đều 10g, Xích thược, Đan sâm, Thổ phục linh, Bản lam căn, Khổ sâm đều 15g, Cam thảo 5g. Sắc uống.
Tác Dụng: Thanh nhiệt lợi thấp, lương huyết khứ phong. Trị ngân tiêu bệnh. Đã trị 13 ca, khỏi hoàn toàn 11, hiệu quả ít 1, có tiến bộ 1. Đạt kết quả 100%. Uống từ 3-5 thang.
Ích Khí Thông Lạc Thang (Cát Lâm trung Y Dược 6, 1987): Hoàng kỳ, Kim ngân hoa đều 50g, Phòng phong, Giáp châu, Tạo giác thích, Địa long, Tử thảo, Thuyền thoái đều 15g, Xà thoái 5g, Bạch chỉ, Cam thảo đều 10g. Sắc uống.
Tác Dụng: Bổ khí giải độc, sấu phong thông lạc. Đã trị 50 ca, lâm sàng khỏi 36, hiệu quả ít 8, có kết quả 6. tỉ lệ đạt 100%.
Ngân Tiêu Tán (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 2, 1986): Ô xà, Bạch tiên bì, Đan sâm, Kim ngân hoa, Địa phu tử đều 30g, Kinh giới, Phòng phong, Thuyền thoái, Khổ sâm, Xích thược, Liên kiều đều 20g, Phù bình, Tử thảo đều 15g, Cam thảo 10g. Tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6-9g với nước.
Tác Dụng: Thanh nhiệt giải độc, lương huyết, hoạt huyết, khu phong, thông lạc, chỉ dưỡng. Trị ngân tiêu bệnh (vẩy nến). Đã trị 47 ca, khỏi hoàn toàn 41, có hiệu quả 5, không hiệu quả 1. Đạt tỉ lệ 97,87%. Uống 27 ngày đến 3 tháng. Thường uống 1 tuần là bắt đầu có kết quả.
Hạ khô thảo nam (cây Cải trời – Blumea subcapitata) 80-120g, Thổ phục linh 40-80g. sắc với 500ml nước trong 3 giờ ở nồi hấp 150oC, còn 300ml. Chia làm 3-4 lần uống trong ngày. Thời gian điều trị trung bình 79 ngày (ngắn nhất 23 ngày, nhiều nhất 148 ngày).
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn