Bệnh tiêu khát là khởi đầu của bệnh đái tháo đường (tiểu đường), nếu nhận biết và chữa kịp thời sẽ giúp người bệnh không chuyển biến sang bệnh ở thể nặng hơn…
Nguyên nhân bệnh: Do ăn nhiều đồ cay, ngọt, đồ béo hoặc do sang chấn thần kinh… tạo thành hỏa nhiệt, uất nhiệt làm tổn thương phế, vị và thận. Hỏa làm phế âm hư gây khát nhiều, uống nhiều; vị âm hư gây đói nhiều, ăn nhiều; nhanh đói, tuy ăn nhiều nhưng lại có dấu hiệu sút cân nhanh, mỏi mệt; thận hư gây tiểu tiện nhiều lần, uống bao nhiêu thì tiểu ra bấy nhiêu, nước tiểu thường nhìn thấy màu sánh vàng… khi xét nghiệm trong máu thấy có đường (glucose).
Phương pháp chữa bệnh: Dưỡng âm, thanh nhiệt sinh tân dịch làm cơ sở. Trên lâm sàng hội chứng của bệnh đái tháo đường chia ra 3 thể ở 3 vị trí: Thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu.
Bài thuốc gốc (Lục vị gia giảm thang): Thục địa 30g (làm theo bào chế của cổ phương); Hoài sơn, Kỉ tử, Mạch môn, Sinh địa mỗi vị 16g; Đan bì, Trạch tả, Bạch linh, Ngưu tất, Thạch hộc, Lộc giác xương (hoặc cao ban long) mỗi thứ 12g; Sơn thù 10g; Ngũ vị 4g (làm theo bào chế của cổ phương). Từ bài thuốc gốc, tùy vị trí chứng bệnh mà gia giảm cho phù hợp.
Chứng ở thượng tiêu: Khát nhiều, khô họng, môi khô đêm ngủ môi hay dính vào nhau phải nhấp nước bọt cho ướt mới nói được. Gia giảm: Sinh địa tăng lên thành 30g, Mạch môn tăng lên thành 25g, Thục địa giảm xuống còn 16 gam. Sắc uống vài thang thấy giảm khát mà đi phân lỏng thì quay trở về số lượng bài thuốc gốc.
Chứng ở trung tiêu: Hay đói, ăn nhiều chóng đói, môi khô miệng khát nhưng vẫn sút cân mỏi mệt, nóng, phiền. Gia giảm: Mạch môn tăng lên thành 25g, Sinh địa tăng lên thành 25g, Thạch hộc tăng lên thành 20g, Giảm thục địa giảm xuống còn 16g. Sắc uống vài thang thấy giảm khát mà đi phân lỏng thì quay trở về số lượng bài thuốc gốc.
Chứng ở hạ tiêu: Đi tiểu nhiều lần, nước tiểu vàng sánh đêm phải dậy 5 – 6 lần; khát, thích uống nước mát lạnh; nước tiểu vàng sánh, đại tiện táo khó. Gia giảm: Kỉ tử tăng lên thành 20g, Ngũ vị tăng lên thành 8g, Mạch môn tăng lên thành 20g, Trạch tả giảm xuống còn 6g, Bạch linh giảm xuống còn 6g); gia thêm Ích trí nhân 16g (tẩm muối làm theo bào chế cổ phương). Khi uống một số thang thấy đi tiểu đã giảm xuống ổn định thì dùng trở lại bài thuốc gốc. Lưu ý những người có tiền sử dạ dầy khi gia Ngũ vị 8g bài thuốc sẽ có vị rất chua, cần uống trước bữa ăn 5 phút để không gây đau dạ dày.
Cách sắc thuốc: Cho cả một thang thuốc vào xoong, siêu nhôm, ấm đất, nồi i-nox, nồi thủy tinh hay ấm điện đều được. Sắc luôn ba lần… Lần đầu đong 4 bát nước nhỏ, khuấy kĩ với thuốc, để 5 phút cho ngấm rồi bắc lên bếp đun. Sắc còn khoảng 1 bát con. Chắt thuốc đã sắc ra bát. Lần 2 và 3 đong 3 bát nước sắc đến khi còn nửa bát. Đổ 3 nước thuốc vào nhau, uống trong ngày.
Chế độ ăn khi uống thuốc: Ngày ăn 3 bữa, mỗi bữa ăn một bát cơm, 2 đến 3 bìa đậu phụ luộc, rau, có thể ăn miến nấu thịt nạc hoặc lạc giã nát. Nếu đói giữa tầm thì ăn thêm lạc rang. Cần kiêng các loại bánh ngọt, đồ cay nóng như rượu, ớt, hạt tiêu, thịt rang chua cay, măng cay, thịt mỡ…
Đối với những bệnh đã chuyển sang thành bệnh tiểu đường ở các tuýp khác nhau… thì có thể dùng bài thuốc gốc ở trên uống bổ dưỡng định kì hằng tháng uống cùng với thuốc Tây y (mỗi tháng sắc uống hỗ trợ từ 10 – 15 thang) để chống những biến chứng suy giảm chính khí của cơ thể (trong đó có 3 tạng phủ phế, vị, thận)