Theo Y học cổ truyền, kỷ tử vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh phế, can, thận, có thể bổ can thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt, thường dùng làm thuốc bổ toàn thân, chữa các chứng hư lao, mệt mỏi, suy nhược, di, mộng tinh.
Quả kỷ tử chín có hàm lượng các sinh tố B1, B2, B6, C và E. Đặc biệt, kỷ tử cũng chứa khoảng 0,1% betaine và nhiều polysaccharides. Betaine là một chất kích thích sinh dục có tác dụng gây tăng trọng và đẻ sai ở các loại vật thí nghiệm. Polysaccharides có tác dụng tăng cường tính miễn dịch bằng cách gia tăng khả năng thực bào của tế bào bạch cầu, số lượng và tính hoạt hoá của các loại kháng thể interleukin 2 và interferon.
Polysaccharides trong kỷ tử cũng giúp nâng cao khả năng biến dưỡng và cải thiện đường huyết trong bệnh đái tháo đường. Các nhà khoa học cũng xem kỷ tử như 1 loại adaptogen có khả năng điều chỉnh tình trạng tâm lý và nâng cao thể chất để giúp người bệnh nhanh phục hồi từ những vết thương hoặc dễ vượt qua những sự cố gây stress trong cuộc sống.
Kỷ tử còn được đánh giá cao ở khả năng chống oxy hoá. Ngoài sinh tố C, E và Selenium, những carotenoids trong kỷ tử được cho là nguồn caroten tốt hơn so với cà rốt. Hợp chất zeaxanthin đặc biệt ích lợi cho việc cải thiện vi tuần hoàn ở các tĩnh mạch, mao mạch và làm gia tăng tính đàn hồi của mạch máu. Tính chất này của kỷ tử giúp bảo vệ những tổ chức ở vùng da, vùng mắt, tóc.
Điều này giải thích hiệu quả đẹp da, mượt tóc, mắt sáng trong nhiều cổ phương có sử dụng kỷ tử cũng như tác dụng phòng ngừa các biến chứng ở da, ở mắt và ở các chi của bệnh đái tháo đường ngày nay. Thất bảo mỹ nhiệm đơn và Ích thọ địa tiên hoàn, 2 toa thuốc làm đẹp và sống lâu được ghi lại trong rất nhiều sách thuốc cổ của Đông y là thí dụ.
Nguồn tin: (Theo Bee)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn