Hiện nay việc phối hợp của nhiều thầy thuốc chưa đạt được những yêu cầu trên. Nhiều lúc, nhiều nơi còn mang tính hình thức, gây nhiều tốn kém, lãng phí.
Nhiều người mặc dù không có một chút hiểu biết nào về tương tác thuốc, vẫn tự kê đơn, tự ý mua, sử dụng đồng thời nhiều thuốc đông tây y, nhiều khi đã tự gây hại một cách vô thức.
Từ nhiều năm nay, nhiều nghiên cứu ở nhiều trung tâm lớn của nhiều nước đã tập trung vào tìm chiến thuật an toàn, hiệu quả trong phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây.
Cách đây nhiều thập kỷ, một số nhà nghiên cứu Nhật bản đã cố gắng phân loại thuốc tây theo âm dương, hàn nhiệt, làm cơ sở cho việc cho việc phối hợp với thuốc đông. Thí dụ Atropin được xếp trong nhóm dương dược do tác dụng làm mạch nhanh, làm khô, giảm tiết dịch; các thuốc thuộc nhóm hạ nhiệt, kháng sinh phần lớn được xếp vào nhóm âm dược … ý tưởng này rất độc đáo nhưng khi vận dụng thực tiễn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng.
Một số nhà nghiên cứu ở Trung Quốc có hướng sử dụng công dụng của một số thuốc tây theo pháp điều trị của Y học cổ truyền. Một trường hợp nấc kéo dài nhiều ngày, dễ tái phát, có táo bón, điều trị nhiều phương pháp không khỏi, đã được chữa khỏi bằng Magie Sulphat. Tác dụng nhuận tràng của thuốc được sử dụng trong phép hạ theo Y học cổ truyền với mục đích giáng vị khí nghịch là nguyên nhân gây nấc kéo dài.
Y học chắc sẽ phải trải qua nhiều năm nữa mới có được một chiến thuật hợp lý, toàn diện kết hợp thuốc Đông và thuốc Tây vì đây là một việc phức tạp, đòi hỏi rất tỉ mỉ, thận trọng.
Để đáp ứng yêu cầu kết hợp trong giai đoạn hiện nay cần chú ý vận dụng một số nội dung sau:
1. Phối hợp theo nguyên tắc tiêu bản kiêm trị, thuốc Đông điều trị bệnh chính, bệnh gốc, bệnh mạn. Còn thuốc tây chủ yếu trị bệnh bệnh cấp, triệu chứng:
Như trong viêm phế quản mãn, thể thận dương hư chủ yếu phải dùng bài thuốc Đông y có tác dụng bổ thận dương kết hợp chỉ khái bình xuyễn trọng dụng các vị như: Tế tân, Ba kích, Can khương, Phụ tử chế, Thục địa, Dâm dương hoắc...; có thể phối hợp thêm kháng sinh Tây y nhằm đẩy nhanh tốc độ chống viêm, trừ đàm.
2. Phối hợp nhằm tăng tác dụng của nhau:
- Kết hợp Penicilin cùng Hoàng cầm, Kim ngân vì hai vị thuốc này của Đông y có tác dụng ức chế tác dụng kháng thuốc của tụ cầu vàng, như vậy sẽ làm tăng tác dụng của kháng sinh.
- Phối hợp Nhân trần với Griseofulvin (Fulcin), ví trong Nhân trần có Dihydroxybenzene có tác dụng tăng tiết dịch mật qua đó làm tăng độ phân rã của Griseofulvin, như vậy sẽ làm tăng tác dụng của kháng sinh đường ruột này.
- Trong các bệnh lý động mạch vành, cao huyết áp; Tam thất, Xích thược hay được dùng phối hợp do hai vị này đều có tác dụng giãn mạch, giảm huyết áp, tăng cường lưu lượng máu qua động mạch vành, giảm gánh cho tim, giảm Cholestherol tỷ trọng thấp LDC trong máu.
- Phối hợp Cam thảo và Hydrocortison nhằm tăng tác dụng chống viêm của Hydrocortison vì Cam thảo cũng có tác dụng giống nội tiết tố vỏ thượng thận, mặt khác lại có tác dụng hạn chế những tác dụng không mong muốn của thuốc tây khi dùng kéo dài như gây suy tuyến thượng thận …
- Các bài thuốc Bổ trung ích khí, thập toàn đại bổ, Tiểu sài hồ thường hay phối hợp với các thước trị ung thư vì các thuốc này ngoài tác dụng bảo vệ tế bào gan, cải thiện cơ năng tạo máu còn có tác dụng hỗ trợ diệt tế bào ung thư.
- Phối hợp Thăng mạch tán, dịch truyền Đan sâm với các thuốc như Raceanis amin có khả năng làm tăng sức bóp, giảm tình trạng thiếu oxy của cơ tim.
3. Kết hợp nhằm làm giảm độc tính, tác dụng phụ của thuốc tây:
Thuốc tây y chủ yếu có nguồn gốc hóa dược, đơn chất, tinh khiết. Có tác dụng nhanh, mạnh nhưng là hoá chất vốn xa lạ với cơ thể nên độc tính, tác dụng phụ cũng không ít. Thuốc Đông y phần lớn có nguồn gốc tự nhiên, nhiều vị được sử dụng như thực phẩm, vốn quen thuộc, thân thiện với cơ thể nên được nghiên cứu kết hợp để hạn chế độc tính của thuốc tây.
- Cam thảo phối hợp với Corticoitkhi dùng dài ngày nhằm giảm tác dụng suy tuyến thượng thận, duy trì kết quả điều trị.
- Bạch cập, Hải phiêu tiêu khi phối hợp với các thuốc chống ung thư như Mercaptopurin, Ifosfamide giảm được tác dụng giảm bạch cầu của thuốc chống ung thư,lại vưa có tác dung cầm máu tiêu sưng, bảo vệ niêm mạc dạ dày.
4. Kết hợp nhằm mở rộng phạm vi điều trị:
- Prochlorperazine không dùng được cho những bệnh nhân tâm thần nhưng có chức năng gan kém vì thuốc này rất độc với gan. Tuy vậy khi dùng cùng với bột Trân châu có tác dụng giảm tác dụng độc của Prochorperazine phụ của thuốc với gan được giảm nên thuốc vẫn có thể được chỉ định cho những bệnh nhân này.
5. Kết hợp nhằm tăng cường sự hấp thu thuốc:
Griseofulvin, thuốc kháng khuẩn rất khó uống vì gây lợm giọng, buồn nôn, ỉa chảy, đau đầu; nhưng khi phối hợp với Nhân trần cao thì có thể tăng khả năng hấp thụ, giảm các tác dụng không mong muốn.
6. Không được phối hợp nếu làm giảm hiệu quả của nhau:
- Một số thuốc Đông y có vị chua như: Ô mai, Sơn tra, Nữ trinh tử, Ngũ vị tử… nếu cùng dùng với những thuốc Tây có tính kiềm như Aminophyline, Bicarbornat sẽ gây phản ứng trung hòa kiềm toan, từ đó giảm khả năng hấp thu cả hai loại thuốc.
7. Không được phối hợp nếu tạo ra chất độc mới:
Chu sa, Thần sa không được cùng dùng với một số thuốc Tây trong thành phần có Bromide, Iode… vì có thể tạo ra những chất độc mới như Clorua thủy ngân.
8. Không được phối hợp nếu ảnh hưởng xấu tới chuyển hóa thuốc:
Sơn tra, Ô mai … có khả năng làm toan hóa do đó có thể gây tăng hấp thu quá mức các thuốc có tính axit như Rifamicin, Aspirin dễ dẫn đến ngộ độc thuốc.
9. Không được phối hợp nếu thuốc đông và tây y có tác dụng đối kháng nhau:
Đan sâm và một số thuốc hoạt huyết trong Đông y không được cùng dùng với các thuốc đông máu trong Tây y như Vitamin K, Thrombin…. vì Đan sâm có tác dụng ức chế chức năng tiểu cầu, kích hoạt hệ men tan cục đông…
Những thuốc Đông y có Ma hoàng không được dùng cùng các thuốc hạ áp Tây y vì trong Ma hoàng có Ephedrin làm co mạch gây tăng huyết áp.
10. Không được phối hợp nếu gây tác dụng phụ có hại:
Rượu thuốc Đông y có chứa nhiều Ethanol khi dùng cùng các thuốc trấn tinh như Cloral hydrat, Prochloperazine… sẽ làm tăng tác dụng ức chế các trung khu có thể gây các cơn ngừng thở khi ngủ.
Để phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây đạt được yêu cầu an toàn, hiệu quả, kinh tế, mang lại lợi ích và đáp ứng yêu cầu của người bệnh, thầy thuốc lâm sàng cần thường xuyên cập nhật các kiến thức kinh điển và hiện đại của cả hai loại thuốc này. Kết hợp thuốc Đông và thuốc Tây không dễ dàng, không đơn giản như những lầm tưởng xưa nay nhưng là một yêu cầu tất yếu của thực tiễn, nếu sớm được thực hiện thành công chắc chắn sẽ mang đến cho nhân loại nhiều lợi ích to lớn.
Tác giả bài viết: BS. Nguyễn Phượng - Khoa học công nghệ Bắc Giang, số 6/2010, tr.41
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn