(Trích trong "Tử Siêu Y Thoại" của Nguyễn Tử Siêu, Việt Nam)
Nguyễn Đình Th, 47 tuổi. Do kinh doanh thất bại, trong lòng buồn bực. Khi buồn, thường đem rượu ra uống không thiết ăn. Trước đó khoảng 10 - 15 ngày thường phát nhức đầu, buốt óc nhưng coi thường không để ý. Hôm đó sáng dậy, định đi làm, bỗng dưng ngã bất tỉnh, chừng 10 phút mới tỉnh nhưng tay chân bên trái đều liệt, không cử động được nữa. Đầu nhức dữ dội. Đã uống 2 thang thuốc của một thầy thuốc gần đấy. Uống thuốc vào, đầu càng đau thêm. Xem lại toathuốc, thấy dùng bài Bổ Dương Hoàn Ngũ Thang (Hoàng kỳ sống 20g, Quy vĩ 8g, Xích thược 6g, Địa long 4g, Xuyên khung 4g, Đào nhân 4g, Hồng hoa 4g).
Khám thấy: Tay chân bên trái vẫn bại liệt (sau khi bệnh 5 ngày mới mời tôi tới), đầu nhức như búa bổ nhăn nhó, rên rỉ rất đáng thương khai là trong bụng nóng như đốt.
Tôi cho là bệnh này do nghĩ nhiều, mất ngủ thành ra âm hư, dương thịnh. Thủy không thấm nhuần được mộc động thì phong sinh. Do đó, đờm thừa thế dồn lên, khí thừa thế thăng lên, dồn dập ào ạt, làm nghẽn lấp các thanh khiếu, gây ra chứng ngã ngất. Thiên ‘Sinh Khí Thông Thiên Luận’ (Tố Vấn ) ghi: "Huyết cùng với khí, dồn dập ngược lên, sẽ thành chứng đại quyết, chính là nguyên nhân chủ yếu của bệnh này. Theo danh từ mới, chứng này có thể gọi là "não xung huyết" (xung huyết não). Mạch bên trái Huyền, Trường là đó nhiệt của rượu sinh ra. Đó cũng lại là nguyên nhân làm cho huyết khí dồn lên làm tắc nghẽn thanh khiếu. Thầy thuốc trước không nhận kỹ điều đó, lại dùng toàn loại thuốc trợ dương bồ khí để điều trị... nhưng mạch và chứng như vậy, làm sao chịu nổi sức thăng bổ của Hoàng kỳ. Sở dĩ đầu nhức như búa bổ, chính là kết quả của các loại thuốc thang bổ đó.
Chữa bệnh này, chủ yếu phải dồn huyết từ bộ phận trên xuống. Dùng Ngưu tất làm quân, do kinh nghiệm của tôi. Ngưu tất có tác dụng giáng huyết từ bộ phận trên xuống rất nhanh. Rồi dùng Các vị Long Cốt, Mẫu lệ (sống), Thạch cao, Giả thạch, Xuyên luyện, Huyền sâm, Long đởm, Cam thảo (sống)... làm tá sứ. Chủ yếu toàn bài là nhằm mục đích tiềm dương, giáng nghịch, thanh nhiệt, tức phong, theo phương pháp của Mạnh Anh, Sơn Lôi:
Ngưu tất 40g Bạch thược 24g
Thạch cao 40g Long đởm 16g
Cam thảo 8g Xuyên luyện 24g
Các vị trên làm thành 1 thang, mài rỉ sắt lấy nước, sắc uống. Uống hết 2 thang khỏi hẳn nhức đầu mạch cũng điều hòa, tay chân bên trái đã cử động được.
Đổi dùng:
Đương quy 20g Thiên môn 12g
Một dược 12g Bạch thược 20g
Hoàng kỳ (sống) 12g Hồng hoa 4g
Huyền sâm 20g Nhũ hương 12g
Uống hết 2 thang sau, đã chống gậy đi được. Trong bài này, sở dĩ dùng Hồng hoa là để hóa bỏ ứ huyết còn sót lại ở vùng ngực. Vì mạch đã điều hòa, đầu không nhức, có đủ khả năng hấp thu được sự ôn bổ của Hoàng kỳ, vì vậy mới dùng đến 12g để bổ thêm cho chính khí và giúp Quy, Thược, Nhũ, Một dược cho huyết mạch lưu thông dễ dàng, đồng thời lại có thể điều chỉnh bớt tính hàn lương của Huyền sâm và Thiên môn. Theo đơn sau, uống thêm 3 thang nữa, khỏi hẳn.
(Trích trong ‘Châm Cứu Đại Thành’ của Dương Kế Châu, Trung Quốc)
Năm Tân Dậu, ông Hạ Quý Trung bị bại liệt không đi lại được. Có thầy thuốc Hà Hạc Tùng đã chữa lâu mà chưa khỏi. Mời tôi đến xem. Tôi nói rằng: "Bệnh này chỉ cần châm một cây kim là khỏi bệnh". Ông Hạc Tùng nghe vậy xấu hổ rồi rút lui. Tôi liền châm huyệt Hoàn khiêu (Đởm 30), quả nhiên đi lại được.
Những tin mới hơn