NGUỒN GỐC TRUNG Y
Hoàng đế |
Những gì chúng ta biết được về sự thực hành Trung y suốt đời Chiến Quốc và đời Hán là chủ yếu góp nhặt từ các chuyên luận của các tác giả vô danh về triết lý và y thuật. Các tác giả Trung Quốc ngày xưa có xu hướng gán tác phẩm của mình cho tam hoàng ngũ đế, các y sư truyền thuyết, hay các bậc thầy của họ. Khi nghiên cứu y thuật, các y sư ngày xưa thường sao chép các đoạn bản thảo và sắp xếp chúng theo một thứ tự nhằm phản ánh sự kế tục của các y sư bậc thầy thuộc nhiều trường phái khác nhau. Điều này giải thích sự hiện diện của bốn sưu tập lớn về các y luận châm cứu, được biết chung dưới tên Hoàng Đế Nội Kinh. Hoàng Đế là một vị vua truyền thuyết, tương truyền sống khoảng 2697-2597 TCN, và được xem là cha đẻ của Trung y. Đa phần lý thuyết trongHoàng Đế Nội Kinh (biên soạn khoảng đầu công nguyên) được trình bày qua lời vấn đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá, một vị quan cũng là chuyên gia về châm cứu và các vấn đề huyền bí.
Giá trị mà những bậc học thức nhìn nhận đối với các y luận này có thể giải thích sự hiện diện của những sưu tập đầu tiên về các tư liệu tương tự trong các ngôi mộ đời Hán, thí dụ như 3 ngôi Hán mộ được phát hiện tại Mã Vương Đôi, thuộc Trường Sa, tỉnh Hồ Nam hiện nay. Trong số các văn bản khai quật ở ngôi Hán mộ số 3 thì có 7 văn bản đề cập lý thuyết âm dương, lời chú cúng tế, phòng trung thuật, tĩnh tọa, và các phương thuốc bào chế từ thảo dược, động vật, và các chất liệu gia dụng.
Sự phát triển mau chóng của thương mại nói chung và của kỹ thuật ấn loát nói riêng vào đời Minh đã giúp phổ biến kiến thức y học. Sự giao tiếp trực tiếp giữa y sư và đệ tử không quan trọng bằng việc các y điển quan yếu được phổ biến rộng rãi hơn trước. Trong các gia đình theo nghiệp y, các thế hệ con cháu đã xuất bản và đề cao tác phẩm y học của gia tiên. Rõ ràng việc tường thuật các ca chẩn trị thành công này đã chứng minh các quan điểm lý thuyết và thể hiện những kỹ thuật mới. Những y án cũng trở nên phổ biến hơn, giúp người ta thấy được lý thuyết Trung y được vận dụng trong thực tế ra sao.
Sau cùng, văn chương, nhất là các tiểu thuyết từ đời Minh và đời Thanh đã tạo một ấn tượng muôn màu về sự phức tạp và tinh tế của thế giới Trung y.
Y SƯ VÀ Y THUẬT
Hoa Đà |
Tôn Tư Mạc |
Trong khi sự phát triển dược học là một phần chủ lực của thuật luyện đan Đạo giáo, thì các nhà sư từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc sau thế kỷ I TCN đã bắt đầu bào chế thuốc cũng như đặt ra cách ăn chay, tham thiền, và các bài tập điều tức. Bùa chú và pháp nội quán dùng để trị các bệnh do tà quái gây ra.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách thực hành y thuật mang tính chất mê tín đã bị hạn chế. Tuy nhiên, Trung y vẫn tiếp tục phát triển ở tầm mức địa phương và địa vị của Trung y đã được khôi phục phần nào sau khi Cộng sản nắm quyền.
KHÍ VÀ SINH LÝ HỌC CON NGƯỜI
Những yếu tố quan trọng nhất trong cơ thể con người là tinh, khí thần. Khí trong cơ thể là yếu tố vô hình mà mỗi cá nhân chỉ có thể cảm nhận hay một y sư có thể nhận biết qua sắc mặt và cử chỉ của bệnh nhân hoặc qua việc bắt mạch. Những tư liệu cổ xưa nhất như văn tự khắc trên đồ đồng đời Thương và đời Chu đã có chữ khí 氣 và chữ khí liên quan đến thực phẩm dinh dưỡng (trong chữ khí 氣 có chữ mễ 米 là gạo).
Giữa thế kỷ IV cn, chữ khí được dùng để mô tả một chất liệu cơ bản trong cõi tự nhiên giúp tăng cường sự sống trong thế giới biến thiên. Nó cũng được dùng để mô tả sự cường điệu về các cảm giác được trải nghiệm với thân thể như nóng bức, đau đớn, khoái lạc, và đam mê. Như vậy đã có một sự chuyển biến quan trọng của quan niệm về khí: từ quan niệm khí là những đặc tính môi trường mà ta có thể quan sát cho đến quan niệmkhí là cái mà thân thể tuân theo như bốn mùa, rồi đến quan niệm khí là một yếu tố của cơ thể mà mỗi cá nhân đều có thể khống chế nó.
CẤU TRÚC CƠ THỂ CON NGƯỜI
Các huyệt để châm cứu |
Những quan niệm của người Trung Quốc về các cấu trúc và chức năng khác nhau của cơ thể đã phản ánh thực tế chính trị, tôn giáo, và triết lý của Trung Quốc, và chúng phục chế từng phương diện của thế giới con người và thiên nhiên trong giải phẫu học cũng như sinh lý học. Các y điển đã mô tả cơ thể con người giống như một tiểu vũ trụ, mà mỗi bộ phận cơ thể tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi non, sông ngòi, động vật, thảo mộc, v.v...
Các y điển đã mô tả cơ thể con người giống như một tiểu vũ trụ, mà mỗi bộ phận cơ thể tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi non, sông ngòi, động vật, thảo mộc, v.v...
Người ta cho rằng trong thân thể có chư thần và hồn phách. Thí dụ thần ngụ ở tim (tâm thần) giúp ta thông minh mẫn tiệp. Các y điển đời Hán đã mô tả về hồn và phách có thể gây ra bệnh tâm lý và chứng chiêm bao mộng mị. Người ta cho rằng khi một người chết thì hồn và phách của kẻ ấy vẫn còn quanh quẩn nơi mộ phần, và nếu không được cúng bái thì vong hồn đó sẽ quấy phá người sống.
Suốt đời Chiến Quốc, thuyết âm dương đã mô tả tính chất lưỡng diện (nhị nguyên) trong cơ thể: trong-ngoài, trên-dưới, nóng-lạnh, v.v... Các triết gia về chính trị thuở ban đầu đã tiếp thu và phát huy thuyết âm dương bằng cách bổ sung sự tương tác của ngũ hành. Khi được vận dụng để trị bệnh, ngũ hành phải tương thích với các yếu tố như tứ thời, mầu sắc, tình cảm, ngũ tạng, các chức năng sinh lý, cũng như là các kinh lạc châm cứu.
Sức khoẻ của mỗi cá nhân có thể được xét qua các triệu chứng cụ thể và sự tương khắc hay tương sinh của ngũ hành. Bằng cách kích thích những huyệt vị tức là châm cứu trên cơ thể bệnh nhân, y sư có thể điều chỉnh tình trạng sức khoẻ của người đó.
Sau cuộc thống nhất Trung Quốc của Tần Thuỷ Hoàng Đế, kinh điển Trung y cũng phản ánh sự thống nhất trong một quan niệm mới mẻ về cơ thể. Tất cả các phương diện sinh lý của con người đều chịu ảnh hưởng của một nguyên lý thống nhất, đó là khí. Cơ thể cũng được xem là một vương quốc, và mỗi bộ phận chính là một cơ quan hành chính.
Đốt ngải cứu (moxa) |
CHÂM CỨU
Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là cha đẻ của châm cứu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh, thân thể gồm 12 kinh mạch và nguồn sinh lực là khí lưu thông qua chúng. Nội Kinh còn mô tả 10 kinh mạch nối liền lục phủ ngũ tạng đến da. Trên da có các huyệt vị mà ta có thể dùng kim châm (gọi là châm huyệt) hay đốt ngải cứu. Dụng cụ ban đầu để châm chưa phải bằng kim loại, mà bằng đá, gọi là biếm. Hứa Thận đã giải thích trongThuyết Văn Giải Tự rằng: «Biếm là dùng đá, châm để trị bệnh.» Nghĩa là ban đầu người ta dùng mảnh đá sắc bén để rạch vỡ những chỗ tụ máu hoặc có mủ.
Biếm để trị liệu |
Thần y Biển Thước (Tần Việt Nhân) |
DƯỠNG SINH
Tại Trung Quốc, dưỡng sinh bao gồm các sự thực hành để thân thể khang kiện và tinh thần minh mẫn. Dưỡng sinh cũng liên quan đến Đạo dẫn, vốn là sự luyện tập trị liệu ở mức độ cao hơn. Trong các kinh điển đời Chiến Quốc, thuật ngữ «dưỡng sinh» thường xuất hiện trong các lý luận về nhân tính. Mạnh Tử (372-289 tcn) tin tưởng vào việc nuôi dưỡng mầm thiện trong tâm mỗi người. Đối với ông, trau dồi đức dũng và nhântức là dưỡng khí với các kỹ thuật hô hấp đúng đắn. Trên những miếng ngọc đời Chiến Quốc đã ghi khắc những mô tả sớm nhất về các phép thực hành tăng cường khí để cho ảnh hưởng của thiên nhiên tác động vào thân thể.
Toạ thiền |
Một bài học quan trọng mà y học đã tiếp thu từ dưỡng sinh là hầu hết các y sư minh triết đều biết bảo dưỡng thân thể trước khi khi bệnh tật phát sinh. Họ biết thận trọng trong việc ẩm thực, phòng trung, và các sinh hoạt thường ngày.
Cũng từ dưỡng sinh người ta biết cách dẫn khí lưu thông trong thân thể. Việc tập trung tư tưởng vào đan điền (tức là những trung tâm chuyển hoá) rất là bình thường trong phép quán sổ tức (đếm hơi thở). Rốt cuộc châm cứu đã tiếp thu phép tập trung tư tưởng này để điều khiển khí của bệnh nhân qua cách thao tác kim châm có chủ ý. Các y điển thường hướng các quy tắc dưỡng sinh theo mục đích của y thuật. Trong khi tĩnh tọa nhấn mạnh nhiều vào dưỡng khí thì y thuật nhấn mạnh việc quân bình tinh-khí-thần. Điều này được thấy qua kỹ thuật đạo dẫn, một phương pháp rất phổ biến trong lịch sử Trung Quốc và được lưu truyền hiện nay qua các bài tập khí công và uốn dẻo đa dạng
DƯỢC PHẨM VÀ THỨC ĂN TRỊ LIỆU
Các dược điển xưa nhất hiện tồn đã được khai quật tại Mã Vương Đôi. Chúng chứng minh việc sử dụng rộng rãi các chất liệu làm dược phẩm trong đời Chiến Quốc và đời Tần–Hán.
Mọi thứ từ thực phẩm và cây cỏ thông thường cho đến côn trùng và các chất bài tiết của người hay súc vật đã được phối hợp và điều chế thành vô số các dược phương dưới các hình thức cao-đơn-hoàn-tán để trị bệnh cho con người. Một số chất ở dạng tươi hoặc khô, giã hay bằm. Một số ở dạng tễ và bào chế với rượu hay giấm, một số khác được sắc trong siêu .
Mặc dù khoảng 156 trong số chừng 224 dược chất được đề cập trong bộ sưu tập tư liệu phong phú nhất khai quật trong ba ngôi Hán mộ ở Mã Vương Đôi đã được đối chiếu với các dược chất sử dụng trong Trung y về sau này, nhưng các tư liệu này hầu như không cho thấy các quy tắc của Trung y cổ xưa. Các dược phương liên hệ trực tiếp đến bệnh chứng chứ không nhắc đến sự tương ứng của âm dương và ngũ hành. Nhiều liệu pháp còn vận dụng vu thuật
Trương Trọng Cảnh (142-220) |
Việc tùy táng các tư liệu y dược này trong ba ngôi Hán mộ ở Mã Vương Đôi (Trường Sa, Hồ Nam) xảy ra năm 168 tcn. Gần 700 năm sau đó, Đào Hoằng Cảnh (452-536) mới biên soạn Thần Nông Bản Thảo Kinh. Đây là dược điển cổ nhất của Trung Quốc hiện tồn, luận bàn 365 loại dược vật, 252 loại thực vật, 67 loại động vật, và 46 loại khoáng vật. Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh Đào Hoằng Cảnh liệt kê các dược tính của dược liệu tương tự theo hệ thống hành chính trong vương quốc. Dược liệu phân làm ba hạng: thượng, trung, hạ; mỗi hạng có chức năng vương 王 (vua) hay thần 臣(bầy tôi). Thuốc nào làm khang kiện thân thể và ích thọ diên niên thì xếp vào loại «thuốc vua» (vương dược 王 藥); thuốc nào chỉ có tác dụng trị bệnh mà thôi thì xếp vào loại «thuốc bầy tôi» (thần dược 臣 藥).
Năm 659, triều đình đời Đường bảo trợ một tập thể do Tô Kính chủ biên, biên soạn quyển dược điển tên là Tân tu Bản Thảo. Dược điển này gồm 844 vị thuốc kèm hình vẽ minh họa. Căn cứ nguồn gốc tự nhiên của các vị thuốc, sách phân chúng làm 9 loại: ngọc thạch, cỏ, gỗ, cầm, thú, côn trùng, cá, quả, rau. Triều đình đời Đường đã qui định dược điển này làm tư liệu giảng dạy chính thức cho các y sinh. Ảnh hưởng của dược điển này rất lớn và được truyền sang Nhật Bản.
Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh (142-220) là y điển xưa nhất hiện tồn luận bàn căn nguyên của bệnh dựa trên cơ sở âm dương và đề ra các dược phương tương ứng. Y điển này có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà lý luận y dược về sau, nhất là ảnh hưởng đến truyền thống y dược của Nhật Bản.
Lý Thời Trân (1518-1593) |
Tuy nhiên, vào thế kỷ VII Tôn Tư Mạc chủ trương việc dùng thực phẩm để phòng bệnh và trị bệnh. Theo ông, một y sư sau khi khám bệnh và xác định được căn nguyên bệnh thì trước tiên phải dùng thức ăn để trị bệnh (ẩm thực liệu pháp), khi nào liệu pháp này thất bại thì mới dùng đến thuốc.
Một trang của bản thảo cương mục |
Tịch cốc (hạn chế hoặc không dùng ngũ cốc) cũng là cách diên niên ích thọ. Tuy nhiên có người phản bác rằng: trong chữ khí 氣 có chữ mễ 米 (gạo) tức là một loại ngũ cốc. Gạo (hay ngũ cốc) tạo ra khí, vậy tịch cốc lẽ nào có thể làm cho khí hưng vượng để khiến con người được diên niên ích thọ?
2. Wolfram Eberhard, A History of China, University of California Press, 1977.
4. Một số trang Web của Trung Quốc về đề tài này. Các hình ảnh vay mượn từ các trang web này.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn