02:14 ICT Thứ bảy, 07/12/2024

Danh mục nội dung

Liên hệ

Trang nhất » Tin Tức » Thư viện Đông y » BẢN THẢO VẤN ĐÁP

Liên hệ

BẢN THẢO VẤN ĐÁP (Quyển Thượng)

Thứ hai - 04/07/2011 15:02

BẢN THẢO VẤN ĐÁP

Quyển thượng

 

 

1.Hỏi: Thuốc là các thứ sâu bọ, đất, đá, cỏ, cây, rễ, vỏ, đối với người là khác loài mà trị được bệnh của người, tại sao vậy ? .

 

Đáp:Trời đất chỉ là hai khí âm dương lưu hành mà thành ngũ vận (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ), đối đãi nhau mà làm ra lục khí (Phong Hàn = Thử Thấp = Táo = Hoả). Người sinh ra gốc ở trời, gần với đất, tức là chịu ngũ vận lục khí của trời đất chi phối để sinh ngũ tạng lục phủ. Tuy với người khác nhau, nhưng không bên nào là không thụ khí của trời đất để sinh ra. Đặc biệt là vật thiên về một khí mà người thì được trọn vẹn khí của trời đất. Ví như, khí trong nhân thể, hơn kém nhau thì sinh ra bệnh tật, nên phải mượn dược vật thiên về một khí, để điều hoà sự hơn kém trong nhân thể, khiến cho trở lại hoà bình thì hết bệnh. Vì mượn Âm Dương ở dược vật để biến hoá Âm Dương ở Nhân thân, cho nên Thần Nông dùng thuốc để trị bệnh.

 

2.Hỏi:Thần Nông nếm thuốc, lấy ngũ vận lục khí của trời đất , phối với lục phủ ngũ tạng của người, phân biệt tính vị, để trị trăm bệnh, có thể nói rõ ràng tính vị. Gần đây phương pháp Tây y, hoàn toàn dựa vào mổ xẻ xem xét, nói người xưa ở trung Quốc chưa thấy tạng phủ, phối hợp chuyện không có, không đủ bằng cớ, phải vậy chăng?.

 

Đáp: Không phải như vậy. Ngưòi Tây phương mới sáng lập phép làm thuốc cho nên phải mổ xẻ mới biết tạng phủ. Các vị thánh y xưa ở Trung Quốc định ra danh mục ngũ tạng lục phủ, rõ ràng sáng suốt, ngày nay cần gì dùng phép mổ xẻ lại nữa. Xưa Thần Nông sáng lập y dược, hoặc đã mỗ xẻ xem xét, hoặc Thánh Nhân thấy rõ ràng tạng phủ, không cần phải bàn. Nhưng định ra danh mục ngũ tạng lục phủ, mà có vật thật, chưa thấy tạng phủ không làm được như vậy. Sao nói rằng thánh nhân xưa chưa thấy tạng phủ?. Linh Khu Kinh nói : “Ngũ tạng lục phủ, có thể mổ xẻ mà xem”. Theo lời kinh ấy, thì biết thánh xưa đã mỗ xẻ xem xét rồi. Vả chăng người phương tây mổ xẻ xem xét chỉ biết từng lớp, mà không biết kinh, mạch, chỉ biết hình tích, mà không biết khí hoá. Đối với Trung y gần đây, trao qua đổi lại có chỗ ưu chỗ khuyết. Nếu so với bản Nội Kinh của thánh xưa, thì Tây y thua xa vậy.

 

3.Hỏi:Người Phương tây nói rằng họ dùng thuốc căn cứ thí nghiệm. ở Trung Quốc chỉ phân khí vị để phối với ngũ tạng, chưa được thí nghiệm, không bằng phương pháp của tây y. Có phải như vậy không?

 

Đáp:Ở Trung Quốc trải qua Thần Nông nếm thuốc định ra hình sắc khí vị, chủ trị tạng phủ bách bệnh, không sai một mảy may. Nói rằng nếm thuốc tức là thí nghiệm. Trải qua sự xác định của các bậc thánh nhân đã rõ ràng rồi. Đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến thí nghiệm.

 

4.Hỏi:Phép xác định thuốc, lấy hình sắc khí vị, phân biệt ngũ hành, phối hợp với tạng phủ, chủ trị bách bệnh, thật là đầu mối của dược lý. Hình với Lý phải tương cảm. Lại có khi không luận theo hình, sắc, khí, vị, ví như : hỗ phách hút hạt cải, đá nam châm hút kim, Dương khởi thạch bay lên được, rắn sợ rít, rít sợ cóc, cóc sợ rắn, khiếp sợ lẫn nhau, điều không theo hình sắc khí vị, tại sao ?.

 

Đápó là lấy tính để trị, xét định thuốc theo hình sắc, khí, vị, chính là để xét tính. Nếu biết rõ tính, thì cái lý về hình, sắc, khí, vị đã bao gồm trong đó rồi. Cho nên xét định thuốc, trước hết phải xét định tính. Như đá Nam Châm lâu ngày thì hoá thành, sắt tức là mẹ của sắt. Hút kim loại được vì cùng một khí thì tìm nhau (đồng khí tương cầu), con đến với mẹ. Lấy tính dược mà bàn, đá thuộc kim, mà sắt thuộc thuỷ. Đá Nam Châm gồm cả tính của Kim Thuỷ mà quy vào thận. Cho nên về chủ trị vào được trong Thận, hút được khí của phế kim để về cội. HỖ PHÁCH là nhựa thông vào đất mà hoá ra. Cây Thông là Dương thì nhựa nó cũng là Dương, tính hay nhớt dính. Lâu ngày hóa thành tính dính hút đông đặc, vì chất nước đặc cứng ở ngoài, phần Dương liễmvào ở trong, chà sát thì sinh nhiệt, Dương khí phát ra ở, ngoài, mà bản thể là dính hút, cho nên gặp hột cải thì hút;ngừng chà sát thì lạnh, Dương khí lại vô trong, mà tính thì thu hút, cho nên gặp hột cải thì hút.

Hồn của con người là Dương, chứa trong âm phận của Can Huyết, đối với Dương khí của Hỗ Phách, chứa trong âm phách chẵng khác nhau. Cho nên HỖ PHÁCH có công năng an hồn, định phách. Hoá học phương Tây nói rằng đá nam châm và Hỗ Phách bên trong có điện khí, cho nên hút được là do điện lực, có điện âm, có điện dương. Hễ một vật có điện dương gặp một vật có điện âmthì hút nhau. Vật có điện âm gặp vật có điện dương thì hút nhau. Nếu vật có điện âm gặp vật có điện âm thì đẩy nhau, vật có điện dương gặp vật có điện dương thì đẩy nhau. Bàn rất kỹ. Hỗ phách hút được hạt cải mà không hút được sắt; đá nam châm hút sắt mà không hút hạt cải vì điện lực không đồng. Người phương Tây đơn độc lấy khí luận, không như Trung Quốc lấy cả chất luận, thì lý rất rõ ràng. Chất của đá nam châm là sắt, cho nên đồng loại theo nhau mà hút sắt.Hỗ phách có chất nhớt dính, cho nên hút hạt cải. Xét định tính dược, cần xét định cả Thể và Dụng.

DƯƠNG KHỞI THẠCH sinh ở trong hang núi THÁI DƯƠNG là gốc của Vân mẫu Thạch. Núi này mùa đông không có tuyết, mùa hạ sinh mây phần Dương đi lên, hoặc vì theo hoả khí mà bay lên hoặc vì theo khí mặt trời mà bay lên. Hễ người mắc bệnh dương khí hạ hãm, liệt dương, dùng Dương Khởi Thạch để đưa khí dương lên, cũng là đúng theo ý nghĩa lấy dương giúp dương.

Rắn hình dài giống với Thủy khí, bò quanh theo Mộc khí, ở Thìn thuộc Tỵ (ở Thuỷ thuộc mộc). Theo tượng là phương Bắc, theo sau là Thương long đều thuộc về Trời. Biết là Rắn sinh ra bởi 2 khí Thủy Mộc.

Con Rít sinh ở phương Tây, trong đất khô ráo, mùi cay, là do khí táo Kim sinh ra. Rắn sợ Rít là vì Kim ức chế đượcMộc. Rít sợ Cóc, là vì Cóc có tinh của Thuỷ sinh nơi ẩm thấp, thấp lấn táo, cho nên Rít sợ Cóc. Cóc sợ Rắn, lại vì Phong khí lấnThấp khí nghĩa là Mộc khắc Thổ. Theo đó, thì hễ sợ nhau, chống nhau, lý do đều có thể tuỳ loài mà suy.

 

5.Hỏi:Vật đều có tính. Sở dĩ thành tính như vậy, tại sao?.

 

            ĐÁP: Thành tính như vậy, do nơi sinh ra. Do nơi khí dương mà sinh ra thì tính dương; do nơi khí âm sinh ra thì tính âm; hoặc là do khí âm trong dương, đều thấy tính thành ra khác nhau. Còn trước sau cũng nguyên một vật, tuỳ theo hình sắc khí vị thay đổi, mà sau mới xét định được tính. Như NHÂN SÂM hoặc gọi là bổ Khí thuộc Dương, hoặc gọi là sinh Tân thuộc Âm, đó là chỉ thiên về khí, Vị, mà không xét đến lý: do đâu sinh ra, nên không xét định được tính. Tôi (ĐƯỜNG TÔN HẢI) từng hỏi người QUAN ĐÔNG và một người bạn ĐÀO THỨ NGÔ đi chơi Liêu Đông về, nói rất rõ ràng, đối với sự ghi chép trong CƯƠNG MỤC rằng không khác. Bài ca về NHÂN SÂM ghi trong BẢN THẢO:

Ba nhánh năm lá,

Như tôi đến cầu

Lưng dương hướng âm,

                          Rừng cây tương tầm !

Tôi nghe mấy người cũng nói: NHÂN SÂM sinh ở Liêu Đông, nơi rừng cây ẩm thấp, nếu có người trồng cũng phải trồng ở trong rừng ẩm. Vì mọc nơi ẩm thấp, thấm nhuần khí âm thuỷ nên mùi vị đắng ngọt mà có chất nước, phát ra ba nhánh năm lá, tức là số dương; mầm móng đó ở trong nơi ẩm thấp sinh ra, là từ âm sinh dương, cho nên trong âm vị ngọt đắng, có lúc sinh nhiều khí Dương,Nguyên khí trong thân thể con ngườitừ trong thận thuỷ thông đạt lên Phế, sinh ở nơi âm mà xuất hiện nơi dương. Đồng một lý với NHÂN SÂM, cũng là do Am mà sinh Dương. Vì vậy Nhân sâm cũng có công năng hoá khí. Khí hoá ra thì đi lên, ra ở miệng mũi, tức là tân dịch. Nhân Sâm sinh Tân Dịch là theo lý đó, chứ không phải theo mùi vị mà thôi đâu. Nhưng bàn theo khí,vị, thì trong mùi ngọt đắng có phát sinh ra khí, cũng chỉ là khí dương sinh ra do nơi âm.

 

6.Hỏi:NHÂN SÂM không sinh ở Đông Nam, mà sinh ở phương Bắc. ngày xưa sinh ở Thượng Đắng. ngày nay sinh ở Liêu Đông, Cao Ly đều là phương Bắc. Tại sao vậy ?

 

            ĐÁP:Đó chính là cái lý về nơi sinh sản của Nhân sâm. Không xét đến chổ này thì khó hiểu được chân tính của nó. Vì phương Bắc thuộc Thuỷ, theo quẻ Khảm, quẻ Khảm phía ngoài là Âm, trong là Dương, Nhân sâm sinh ở phương Bắc, chính là Dương ở trong Âm. Quẻ Khảm là Thuỷ, khí Thiên Dương đều ở trong Thuỷ phát ra; xem như người phương Tây dùng lửa nấu nước là nơi phát ra; hơi lan tràn ra gặp vật lại hoá ra nước, khi biết nước là mẹ của khí. Khí từ ở nước sinh ra. Trong nhân thể, Thận và Bàng quang thuộc Thuỷ; trong Thuỷ có dương hoá khí đi lên, ra miệng mũi, làm ra hô hấp, tràn ra lông da thành Vệ khí; đó là do Dương trong Thận và Bàng quang hoá khí mà tràn kháp cả.Cho nên Nội Kinh nói: chức năng của Bàng quang là chứa nước, khí hoá phát xuất ở đó (Châu Đô chi quan, khí hoá xuất yên ). Đó cũng là đồng một lý với Thuỷ theo Trời Đất có Dương, hoá làm khí để bủa khắp vạn vật. Theo Ngũ Hành Thuỷ thuộc phương Bắc, Nhân sâm sinh ở phương Bắc, có dương khí trong thuỷ cho nên hợp với khí hoá của người; vì vậy có công đại bổ khí. Không riêng gì Nhân sâm, mỗi thứ thuốc đều xét nơi sinh ra mà sau mới biết được tính. Như sinh ra ở phương bắc, có thứ thuốc Dương ở trong Âm, thì biết là sinh ở phương Nam có thứ thuốc Âm ở trong Dương, như châu sa. Nhân sâm là Dương thuộc Thuỷ, Châu sa là Âm thuộc Hoả. Châu sa sinh ở Thần Châu, gọi là Thần sa. Người đời dùng hai thứ Lưu hoàng, Thuỷ ngân nấu luyện biến thành màu đỏ, để giả làm Thần sa. Lại có Linh sa, cũng dùng hai thứ luyện thành, gọi là Nhị Khí Sa; đều gọi là có công năng bổ Thuỷ bổ Hoả, vẫn là theo phép của Bảo Phác Tử (1). Vì Bảo Phát Tử luyện Châu sa uống mà thành Tiên. Người sau noi theo, mãi đến nay.

            Còn có hai thứ thuốc Thần sa, Linh sa, đều dùng hai thứ Lưu hoàng, Thuỷ ngân luyện thành. Thuỷ ngân là thứ Âm trấp trong đá, Lưu hoàng là thứ dương trấp trong đá, hợp lại mà luyện âm của Thuỷ ngân biến thành Dương, màu sắc đỏ, giống với sắc của Châu sa, nhưng lại do người chế ra Âm trở thành Dương, tức là hết Âm, mà còn một mình Dương, lại có chất độc của hoả luyện dùng để trợ bổ Âm ích Dương thì không được, không bằng Châu sa thiên nhiên hun đúc trong Dương có Âm, phô bày Hoả sắc ra ngoài, chứa Âm thuỷ ở trong.

            Làm ra Linh sa, Thần sa phải dùng Lưu hoàng, Thuỷ ngân hai thứ luyện chung, biến ra màu đỏ, thì biết Châu sa cũng có tính của Lưu hoàng và Thuỷ ngân hợp lại, để biến thành màu đỏ thuần tuý. Nhưng Châu sa là khí Âm Dương của trời đất tự nhiên hun đúc, không mượn sức lửa, hết sức thần diệu. Không thể lấy Thủy ngân, Lưu hoàng mà bì với Châu sa này được. Châu sa có thủy khí ở trong hỏa thể, cho nên vào được Tâm, bổ Âm để an thần. Lại phép lấy Thủy ngân, đem Châu sa đốt thì Thủy ngân chảy ra. Cặn cáu đã đốt không dùng được, vì Thủy ngân thuộc Âm đã chảy ra rồi, không có Âm trong Dương nữa. Thủy ngân có độc, tích Âm mà không Dương. Cần hợp Lưu hoàng, Thủy ngân để làm Linh sa, Thần sa không phải tính chất trong Dương có Âm. Phân Thủy ngân, cặn cáu ra làm 2 thứ thì Âm Dương rất khác nhau, đều không phải bản tính của Châu sa. Chỉ có trời đất phương nam là ly hỏa, tự nhiên hun đúc thành Châu sa, ngoài có hỏa sắc, trong chứa Âm thủy, hợp với quẻ ly, có hình tượng ngoài Dương trong Âm, là thủy của quẻ khảm, Châu sa có màu sắc của hoả mà trong chứa Thủy ngân, tức là hình tượng ly hoả trong chứa khảm thủy. Cho nên bổ được thủy của khảm, để bù vào ly cung dưỡng huyết an thần là số một. Do đó có thể so sánh với Nhân sâm. Nhân sâm chứa Dương trong thủy nên bổ khí, Châu sa chứa Âm trong hoả nên bổ huyết. Một thứ sinh ở phương Bắc, một thứ sinh ở phương Nam. Dựa trên hai thứ đó thì biết được cái lý của nam bắc,thuỷ hoả, âm dương, khí huyết. Về nam bắc, thủy hỏa tuy không phải hẳn như vậy, xét ra điều có chỗ tuỳ thuộc. Cho nên phương bắc thuộc thủy, sinh nhiều thứ thuốc về khí phần, như hoàng kỳ. Phương nam thuộc hoả, sinh nhiều thứ thuốc về huyết phần, như Nhục quế.

 

7.Hỏi: Hoàng kỳ sinh ở Hán-trung (1), hoặc ở Cam túc, hoặc ở Sơn-tây, hoặc ở Bắc khẩu ngoại (2), nay tóm lại ở bắc phương mà luận, có đúng lý không?

Hán trung:xưa là một phủ nước sở chiếm thời chiến quốc, đời minh thanh xếp một phủ của thiểm tây, đờiquốc dân đãnggọi huyện nam trịnh.

Bắc khẩu ngoại:cửa ải ở tỉnh trực lệ thông ra biên giới phía bắc trung quốc.

 

Đáp: Tuy không hẳn ở phương bắc, nhưng về tính, sinh ra đều chứa dương khí trong thuỷ của bắc phương. Lấy phương bắc để lập luận, là nêu chỗ đắc khí tốt mà nói. Cho nên Hoàng kỳ lấy thứ sinh ở phương bắc làm tốt. Vì dương khí của trời đất, đều do nước ở dưới lòng đất, thấu ra mặt đất bay lên trời làm mây làm mù sưong lan tràn ra vật làm mưa móc, ở người làm hô hấp, chỉ là khí trong nứoc mà thôi.

Dương khí của con người, thì từ Khí hải của Thận và Bàng quang mà phát xuất, theo Tam tiêu, màng mỡ đi lên, đến Phế làm hô hấp, tràn ra lông da làm vệ khí, cũng là khí trong nước mà thôi.

Trong ngũ hành, thủy thịnh ở phương bắc, cho nên thuốc bổ khí đều lấy thứ sinh ra ở phương bắc là tốt, Hoàng kỳ sinh ở Hán trung Cam túc, rễ và thân cây đầy đặc, khí không nhiều mà lỗ trống ít. Hoàng kỳ ở Sơn tây, thân cây rỗng xốp, khí được nhiều, trong có lổ thông khí, mà rỗng xốp chưa bằng thứ sinh ở bắc khẩu ngoại, thân cây rất xốp, lỗ thông thủy khí lại lớn, cho nên biết là khí nhiều. Vì Hoàng kỳ rễ dài mấy thước, ăn sâu dưới đất, hút dẫn nước dưới lòng đất, đem lên sinh ra mầm lá. Khí tức là thủy, dẫn thủy tức là dẫn khí. Rễ rỗng xốp, lỗ trống lớn, dẫn thủy khí rất nhiều, cho nên khí thịnh mà bổ khí.

Trong nhân thể, khí sinh ở Thận, từ Khí-hải theo màng mỡ đi lên đến miệng mũi. Đối với khí của Hoàng-kỳ, do lỗ xốp đi lên đến mầm lá không khác. Lỗ xốp của Hoàng-kỳ, tượng màng mỡ trong thân thể, cũng có lỗ xốp thông thủy màng mỡ là Tam-tiêu, có công năng thấu suốt từ ngoài đến trong, đều lấy ý nghĩa Hoàng kỳ theo màng mỡ đi lên, thông ra ngoài. Hoàng-kỳ tía đen ngoài da xen lẫn sắc của Thủy Hoả, vì chứa dương khí trong Thủy, cho nên xen lẫn sắc của Thủy Hoả. Tam-tiêu là tướng Hỏa, dương ở trong Thủy, gọi là Thiếu-dương. Hoàng-kỳ thông ở giữa, tượng Tam-tiêu, dẫn khí của Thuỷ lên sinh mầm lá, là chứa dương trong Thủy mà sinh nên có xen lẫn màu Thủy Hỏa, là thứ thuốc hay của Tam-tiêu. Về khí thì như thế, còn về nhục thì sắc vàng vị ngọt, là sắc vị của Thổ. Hoàng kỳ vào sâu trong đất lại được dồi dào Thổ khí, vì vậy Hoàng-kỳ lại đại bổ Tỳ. Người đời nay không biết màng mỡ trong thân thể là Tam-tiêu, lại không biết lớp mỡ chài chằng chịt là vật của Tỳ, không biết màng mỡliền nhau, lại đâu biết Hoàng-kỳ bổ Tỳ Thổ, thông đến Tam-tiêu. Hiểu được mỡ chài chằng chịt là Tam-tiêu, lớp mỡ ấy là thuộc Tỳ thổ, thì hiểu được cái lý Hoàng-kỳ vào Tỳ kinh, thông đến Tam-tiêu.

 

 

8.Hỏi:Nhục-quế sinh ở phương nam, thấm nhiều hoả số 2 của đất, vào huyết phận là tất nhiên. Trong thận khí hoàn Trọng Cảnh lại dùng để hoá khí, mà không phải dùng hoá huyết, như vậy là thế nào?

 

Đáp:Huyết không cókhí thì không lưu hành, khí không có huyết thì không chỗ dựa. Khí huyết không phải chia lìa thành hai thứ. Trọng cảnh dùng để hoá khí là khéo dùng, không phải bản tính của Nhục-quế. Khí của nhân thân, sinh ở nhất dương trong Thận, nhờ lỗ mũi hít khí trời (thiên dương), qua Tâm hệ, dẫn Tâm Hỏa xuống giao với Thận, rồi làm cho Thận Thủy bốc hơi hóa khí bốc lên ra ở miệng mũi, Thận khí hoàn của Trọng-cảnh dùng nhiều Địa-hoàng, Sơn-dược, Đan-bì, Sơn-thù-du để sinh Thủy: dùng Linh, Trạch để lợi Thủy, rồi dùng Quế, để dẫn Tâm hỏa xuống giao với Thận, dùng Phụ-tử để phấn chấn thận dương làm bốc khí. Nhục-quế hóa khí được là như vậy. Đó là Trọng-cảnh khéo dùng Nhục quế, không phải Nhục-quế tự nó hóa khí được. Nếu đơn thuần dùng Nhục-quế, hợp với thuốc huyết phận, thì phần nhiều chạy vào huyết phần, không phải là thuốc của khí phần. Còn như Quế-chi, sắc đỏ vị cay cũng vào Tâm, Can, là thuốc của huyết phần. Mà Ngũ-linh tán, Quế-Linh-Cam-thảo ngũ vị thang, đều dùng để vào Bàng-quang hóa khí. Không phải Quế-chi tự nó hóa khí được, nhờ Linh, Trạch lợi Thủy, dẫn Quế-chi vào trong Thuỷ, để hóa Thủy làm khí. Đối với sự dùng Nhục-quế trong Thận-khí hoàn ý nghĩa giống nhau. Không thể nói đơn độc Quế-chi hóa khí được. Còn như Hoàng-kỳ-ngũ-vật thang trị huyết tý, Đương-quy tứ nghịch thang trị mình đau, đều dùng Quế-chi ôn thông huyết mạch. Biết là tâm hỏa sinh huyết. Hễ thấm nhuần hỏa khí, thì vào huyết phần, là lý nhất định.

 

9. Hỏi:Vào khí phận, vào huyết phận, chưa rõ được lý, xin nói lại.

Đáp: Thấm nhuần thiên thuỷ mà sinh ra vào khí phần. Thấm nhuần Địa hoả mà sinh ra vào huyết phần. Khí gốc ở trời, Vị gốc ở đất ; Khí dày thì vào khí phần; Vị đậm thì vào huyết phần. vào khí phận thì chạy đến thanh khiếu; vào huyết phận thì chạy đến trọc khiếu. Cũng như Tỏi (Đại-toán), khí nồng nặc cho nên khi vào khí phần, chạy đến thanh khiếu, lên trên làm cho mắt cay, mà xuống dưới làm cho nước tiểu hôi. Hồ-tiêu vị đậm, cho nên vào huyết phận, chạy đến trọc khiếu, ở trên làm cho miệng lưỡi dộp lở, ở dưới làm cho đại tiện rát đau, xem hai thứ ấy, thì biết cách biện luận vào khí phần, vào huyết phận. Vì được khí của Thiên Thuỷ mà sinh, vào khí phần NHÂN SÂM, HOÀNG KỲ là rất rõ ràng. Ngoài ra, như TRẠCH TẢ, DĨ NHÂN sinh ra ở Thủy mà lợi thuỷ; Hai vật đó giống nahu mà có khác. DĨ NHÂN sinh ở trên thân cây, thì hóa khí đi xuống, dẫn phế dương để thông xuống dưới; TRẠCH TẢ sinh ở dưới rễ, thì hoá khí đi lên, dẫn Thân âm thông với ở trên. HOA BÁCH HỢP úp xuống như trên trời rủ xuống, TOÀN PHÚC HOA hút sương mà sinh, gốc ở thanh khí của trời cho nên đều vào khí phận để liễm phế giáng khí. CHUNG NHŨ THẠCH, rủ xuống tượng trời, đá lại là thể của kim, cho nên chủ đưa phế khí xuống. TẮC KÈ sinh ở trong đá, được khí của kim thuỷ, cho nên thấm nhần phế kim, chuyên về lợi thủy, định suyễn; vì Thuỷ lưu hành thì khí hoá không có đàn ẩm ngăn cản, cho nên suyễn tự dừng. MẠCH MÔN, THIÊN MÔN, thấm nhuần Âm Thủy, đều nhuần tưới được phế để thanh khí phận. RỒNG là vật dương trong Thuỷ, người ta dùng LONG CỐT, là thứ đá ở trong đất không phải thuỷ tộc; nhưng đã thành hình rồng, thì gốc ở Dương khí của Thiên thủy sinh ra (thiên nhất thuỷ); đã thành hình rồng, lại không bay, mượn đá làm chất ẩn nấp ở trong đất, là nên chìm vào Phục khí, thu liễm tâm thần, đều dùng ý nghiã nạp khí. PHỤC LINH là nhựa của cây thông đọng lại ở rễ mà sinh ra, là Dương của trời, từ dưới trở lại trên. Dưới có Phục linh, Tùng ở trên chót, mầm mống của Phục linh gọi là UY HỈ CHI. Phục linh ở trong đất, khi lên ứng với mầm, được tính chất của Tùng thì có Mộc tính, có thể sơ thổ làm chất ngưng Thổ vị nhạt; sắc trắng, chủ thấm lợi, làm cho Thủy lưu hành. Khí không liên tiếp nhau, đi lên ứng với mầm, cho nên hoá được khí đi lên, mà bổ khí. Người phương Tây lấy Tùng hương (nhựa thông) chà xát thì phát điện khí, gọi trong Tùng Hương có nhiều điện khí. TÙNG HƯƠNG chìm vào trong đất, biến ra Phục linh, trong có điện khí, khí đó đi lên ứng với mầm, cũng như dây điện thông suốt nhau mà thôi. Người phương Tây gọi là điện khí, Trung Quốc chỉ gọi là Dương khí. TÙNG CHỈI (nhựa thông) thấm nhuần tính của Dương, chìm vào trong đất hoá ra Phục linh. Dương khí phát ra, tưới rót xa xôi để sinh UY HỈ CHI; không phải khí hoá mạnh, làm sao được như vậy? Khí trong thân thể, nhất Dương trong Thủy hoá ra; chất của Phục linh thấm vào làm cho Thủy lưu hành, mà khí đương được giúp đỡ để hoá sinh, vì vậy PHỤC LINH là thuốc cần yếu để hoá khí hành thuỷ.

            Phần biện luận trên đây, đều là được Dương của Thiên thủy sinh ra, cho nên đều vào khí phần. Còn các thứ vào huyết phận nhận định phải được vị của Địa Hoả sinh ra, như ĐƯƠNG QUI; XUYÊN KHUNG. Vì huyết trong thân thể là do chất nước ở dạ dày, được Tâm hoả hoá màu đỏ thành huyết. Hoá ra huyết rồi; tràn vào mạch, chuyển đến Bào cung, do Can quản lý. Cho nên các thứ thuốc vào huyết phận đều được Vị khí của Địa hoả và đi vào Can mộc. ĐƯƠNG QUI cay đắng, là được vị của Địa hoả; khí hơi ấm , được tính của Mộc, mà chất lại trơn nhuận được sự ẩm ướt của đất; cho nên hoá được chất nước, giúp cho Tâm sinh huyết để lưu hành đến Can. Trong Bản thảo, chỗ ghi riêng có nói : ĐƯƠNG QUI, cay ấm quá, hành huyết thì thừa, sinh huyết thì không đủ. Không biết rằng huyết trong thân thể, là do Trung tiêu được khí, lấy chất nước đưa lên Phế họ, vào Tâm nhờ Tâm hoả biến hoá ra màu đỏ mà thành huyết. TÂY Y nói chất nước của đồ ăn uống lên phế, đến hội quản ở cổ thành ra màu đỏ, xuống vào buồng Tâm. So với thuyết này cũng thấy nhờ Tâm hoả biến hoá mà thành huyết. Nội kinh nói Tâm huyết là như thế. ĐƯỜNG qui cay đắng, khí ấm nóng, chính là để làm cho Tâm hoả biến hoá, lấy chỗ trơn nhuần sinh chất nước, lấy chỗ cay ấm giúp Tâm hoả hoá sinh. Về công năng sinh huyết, không có thứ thuốc đặc hiệu nào khác có thể sánh được. Phương hoà huyết của Trọng Cảnh, không ngoài ÔN KINH THANG; phương thuốc SINH HUYẾT, không ngoài PHỤC MẠCH THANG. Ôn kinh thang: cay ấm giáng lợi, đồng công năng với XUYÊN KHUNG Phục mạch thang cay ấm tươi nhuận, đồng công năng với ĐƯƠNG QUI. Biết Tâm hoả biến hoá chất dịch thành huyết, thì biết Phục mạch thang sinh huyết, và biết Đương qui là thuốc sinh huyết.

XUYÊN KHUNG vị rất cay đắng, được tính rất nóng của Mộc Hoả; chất không nhu nhuận; tính chuyên tẩu tán; cho nên chuyên chủ lâm huyết của TâmCan lưu hành. Đắng là vị của hoả; đắng mà thêm cay, thì tính ấm có công năng sinh huyết. Nếu chỉ đắng mà không cay, thì tính mát, mà chuyên chủ tiết huyết.

HỒNG HOA sắc đỏ tự nó vào huyết phận, mà đắng thì có công năng tiết huyết. Vả lại tính của hoa đều nhẹ nhàng, đi lên ra ngoài, cho nên HỒNG HOA tiết huyết ở ngoài, ở trên cửa cơ phu mạch lạc.

ĐAN BÌ về sắc vị cũng cùng loại với Hồng hoa mà tính của rễ thông xuống, không giống với hoa cho nên chủ ở trong, và tiết huyết của Trung hạ tiêu.

ĐÀO HOA đỏ mà nhân vị đắng, đều được tính và vị của Địa hoả. Nhân (hột) lại có sinh khí cho nên ĐÀO NHÂN có công năng phá huyết, cũng có công năng sinh huyết, THUYẾN THẢO sắc đỏ, vị đắng, rễ rất dài; cho nên sức đi xuống rất mạnh, chuyên về giáng tiết hành huyết.

 

 

10. Hỏi: Đắng được hỏa vị, vào tâm để thanh hỏa tiết huyết, có thể biết được lý. nhưng các thứ có vị cay là được vị của phế kim, mà cũng vào được huyết phận, như nhục quế, quế chi,tử tô, kinh giới như thế là thế nào?

 

Đáp: Hễ thuốc được vị chua, đều được tính kim thâu (thâu liễm); được vị cay, đều được tính mộc ôn (mộc làm ấm) đó là lý tương phản, tương thành của ngũ hành. tâm hỏa sinh huyết, nhờ cậy nhiều vào can mộc sinh hỏa; như thế có nghĩa là con hư thì bổ mẹ. cho nên ôn can tức là ôn tâm. nhục quế rất cay thì ấm nhiều, tuy được kim vị (vị của kim) mà thành ra tính của mộc hỏa, cho nên chủ vào huyết phần của tâm can, để giúp huyết hóa sinh QUẾ BÌ rất có công năng đi lên; Phục mạch thang của Trọng Cảnh dùng QUẾ CHI vào Tâm giúp hỏa để hóa huyết. Tính của VIỄN CHÍ cũng giống quế chi, nhưng quế chi thông ra bốn bên, Viễn Chí là chất rễ lại rất nhỏ, chủ vào Tâm kinh, để tán cái huyết trệ trong Tâm mà thôi. Chẵng những cỏ cây thuộc hỏa vị vào huyết phận; lại như mã (ngựa) là hỏa là loại (thú nuôi thuộc hỏa), cho nên MÃ THÔNG cũng có công năng giáng Hỏa để hành huyết; TÁO NHÂN thấm đượm sắc đỏ của hỏa, cho nên cũng vào Tâm dưỡng huyết. Tóm lại huyết sinh ở Tâm, hễ được tính vị của địa Hỏa đều vào huyết phận.

 

11. Hỏi: SINH ĐỊA chất nhuần, trong chứa chất nước, A Giao nhờ nước nấu thành, vốn tính Thủy âm. Hai thứ ấy đều có công năng sinh huyết, sao vậy ?

 

Đáp:Hào âm trong quẻ Ly, tức là khảm thủy. A Giao, SINH ĐỊA lấy thủy giúp Hỏa, chính là lấy Khảm bù cho Ly; có chất nước âm đó, rồi sau nước được Tâm hỏa biến ra đỏ tức là huyết. Chính Nội Kinh nói: trung tiêu lấy chất nước, nhờ Tâm hỏa biến ra đỏ thành huyết. Biết được lý đó thì biết được sự sinh hóa của huyết. Theo đó thì biết các thứ thuốc vào huyết phận.

 

12. Hỏi: Nam Bắc đất khác nhau: thuốc sinh ra ở đó, đã được sinh ra có Thủy, Hỏa, Khí, Huyết: tiên sinh nói rồi. Còn như đông nam, trung ương chẵng có đều khác biệt, sao không bàn đến ?.

 

Đáp:Thủy hỏa ở Nam Bắc phân biệt rõ ràng. Nhưng âm dương cọ sát, ở Nam chưa hẵn không có Bắc khí; ở Bắc chưa hẵn không có Nam khí. Đến như đông nam tuần hoàn. Trung ương lưu thông bốn phía, khí xen lẫn lưu hành, cho nên không thể phân. Nhưng cũng có thể phân biệt được, như THANH MÔNG THẠCH, QUẤT HỒNG BÌ, HẠT TRÁI VẢI, đều thắm nhuần Mộc khí của phương đông, hoặc có công năng bình Can để hành đàm, hoặc có khả năng tán Can để giải uất, đều lấy khí sinh ở phương Đông là đươc tòan mộc khí, cho nen các thứ thuốc đó sản suất ở Quảng Đông là tốt. XUYÊN BỐI MẨU, SINH THẠCH CAO, TANG BẠCH BÌ đều thấm đưởm kim khí của phương Tây mà sinh ra , thì hoặc là lợi khí giáng đàm hoặc thanh kim khử nhiệt; đều lấy thứ sinh ở phương tây là được chất tốt của kim khí, cho nên mấy thứ thuốc đó sản xuất ở Tứ Xuyên, Quãng Tây là tốt còn như dùng rễ phía đông của cây Ly, dùng phần hướng về phía đông của THẠCH LỰU , là đều cốt lấy được Mộc khí. TRẮC BÁ DIỆP đều xoay về tây; khi dùng thì lấy nhánh phía tây, chỉ là để lấy nhánh có nhiều kim khí. Còn ở trung ương, có đầy đủ khí của bốn phía Đông, Nam,Tây, Bắc mà cũng có khí độc đắc của trung ương; như Hà Nam ở giữa thì sản xuất ĐỊA HOÀNG. Người ta thấy địa hoàng màu đen, không biết là trước khi chưng sái (chưng phơi), sắc nó vốn vàng. Trung nguyên ở Hà Nam, đất dày nước sâu, cho nên địa hoàng được khí ẩm ướt của trung ương sinh ra, trong thấm nhuần chất ẩm ướt. Người ta chỉ thấy Địa Hoàng chưng thành sắc đen, có công năng tư thận âm, mà thật sự không biết nó tư nhuận tỳ âm. Nội Kinh nói : Tỳ là chí âm trong âm; ĐỊA HOÀNG ẩm ước qui Tỳ; Tỳ âm đủ thì Can Thận tự nhiên được thắm nhuần. SƠN DƯỢC cũng lấy thứ ở HÀ NAM là tốt; vị ngọt có chất nước, là được khí của thấp thổ; có công năng bổ Tỳ, cũng bổ Tỳ âm. Nhưng SƠN DƯỢC sắc trắng là được kim khí trong đất, cho nên vừa bổ Tỳ vừa ích Phế. Địa Hoàng biến thành sắc đen, là Thủy khí trong đất, cho nên vừa nhuận Tỳ vừa tư Thận. Tuy cùng sản xuất ở một địa phương, mà cũng có chủng loại, hình sắc khác nhau, cho nên công năng cũng khác nhau.

 

13 Hỏi: CAM THẢO vào Tỳ vì sinh ở Cam Túc. BẠCH TRUẬT chính bổ Tỳ thổ, vì sao không sinh ở Hà Nam mà sinh ở Triết Giang ?.

 

ĐÁP :Như vậy mới thấy ly của ngũ hành, không nên phân hẵn ranh giới. Huống hồ nửa là thổ vượng ở tứ quý, bốn bên đều có thổ khí. BẠCH TRUẬT sinh ở Chiết Giang, ắt là chổ đất tốt có thổ mạch. cho nên Bạch Truật sinh ra trong chứa chất dầu cam nhuận, có thể tư Tỳ âm; ngoài phát ra tính ấm của vị thơm cay có thể thông được Tỳ dương. Muốn thông nhuận thì dùng thứ sản xuất ở Chiết Giang, cho được nhiều dầu, muốn ôn táo thì dùng thứ sản xuất ở Hấp Huyện, cho được nóng hơn. CAM THẢO vị ngọt vào Tỳ Vị, ở yên chổ không chạy. Bổ trung khí, điều hòa các vị thuốc, tuy không sinh ở hà Nam trung châu mà sinh ở Cam Túc cực Tây, cũng do đất đai ở Cam Túc đôn hậu (đầy đặn) cho nên sinh Cam Thảo, rễ sâu 4-5m, giống như Hoàng Kỳ, nhưng Hoàng Kỳ trong rỗng thuộc khí phần, là được Thủy khí trong đất; Cam Thảo ruột đặc, thuần được nhiều thổ khí, cho nên đi sâu, dài mà chắc. Tuy sinh ở Tây, mà thật được khí của trung thổ. Tóm lại, lý của ngũ hành, phân ra mà nói thì có các phương hướng phân biệt, chung lại mà bàn thì cùng một thái cực.

 

14 Hỏi: Có thứ thuốc lấy tên thời gian như HẠ KHÔ THẢO, KHOẢN ĐÔNG HOA. cũng lấy thời gian để trị bệnh sao ?

 

ĐÁP:Thời gian là ngũ hành lưu vậy, âm dương xuất hiện, cho nên biện luận thuốc, lại nên biện luận lúc sinh ra, lúc trưởng thành. Tuy không hoàn toàn câu chắp thời gian, mà cũng có khi lấy thời gian để trị bệnh. HẠ KHÔ THẢO sinh ở cuối Đông, lớn lên ở Xuân, là được khí của Thủy Mộc; gặp Hạ thì khô, Mộc chống lại với Hỏa, thì khí tàn tạ; cho nên dùng để bớt Hỏa của kinh Can Đởm, KHOẢN ĐÔNG HOA sinh trong tháng Đông băng tuyết mà Hoa lại ở dưới rễ, hình tượng phần dương trong quẻ Khảm , cho nên dẫn được dương khí của Phế đi xuống, mà làm thuốc lợi đờm chỉ khái. Hai thứ ấy lấy thời gian đặt tên, đều có sự diệu dụng của thời gian. Lại như ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO, không ghi chép trong bản thảo, nay xét vật ấy, thật là thiêng liêng (linh vật ).Vật ấy sinh ra trùng ( con sâu ) lúc Đông chí, từ Xuân qua Hạ, trùng lớn hơn tấc, to như ngón tay út; trước Hạ chí một lúc, cũng còn là trùng; đến lúc Hạ chí, thình lình không thấy trùng, chúng đều vào đất, trên đầu sinh mầm; lớn dần đến sau tiết thu phân, thì mầm lớn 3 tấc, tự nhiên thành cỏ. Vật này sinh ở đồng cỏ Tây Phiên. khắp nơi đều là cỏ, không thể biết nó được; sau Thu Phân, tức có vi tuyết (tuyết nhỏ ) người đi chọn nhặt TRÙNG THẢO , xem trong tuyết có chổ nào không có tuyết, chừng vài tấc, lấy cuốc đào lên, trong chổ đó có TRÙNG THẢO.Xem nó có công năng hóa Huyết, thì tính khí là thuần dương, vì trùng là động vật, tức là dương tính; sinh vào Đông chí, cảm được khí dương; Hạ chí vào dưới đất, là dương nhập âm để sinh mầm, là hình tượng dương nhập âm xuất, là vật chí linh; cho nên muốn bổ dương ở hạ tiêu, thì dùng đơn độc phần rễ; như muốn bổ âm ở thượng tiêu, thì dùng với mầm. Tóm lại, thấy rõ khí hóa của hai mùa Đông Hạ mà thôi. MẠCH ĐÔNG, THIÊN ĐÔNG, NHẪN ĐÔNG, ĐÔNG THANH đều không héo rụng trong mùa đông băng giá, cảm khí của Thủy tân; cho nên MẠCH ĐÔNG, THIÊN ĐÔNG có công năng thanh Phế kim; NHẪN ĐÔNG có công năng thanh phong nhiệt, ĐÔNG THANH TỬ có công năng tư Thận; chổ phân biệt là lấy rễ trắng để vào Phế, nhánh vòi để vào kinh lạc, ĐÔNG THANH TỬ sắc đen thì vào Thận tư âm. Còn như Bán Hạ tùy sinh ở nữa mùa Hạ, rễ thành ra ở mùa Thu, được khí vị Táo kim cay nóng, cho nên chủ giáng lợi thủy ẩm, là thuốc của Dương minh; như thế lại không thể theo tên Bán Hạ mà sai với sự thật. Cho nên biện luận về thuốc, hoặc lấy chỗ đất, hoặc lấy thời gian, hoặc chỉ lấy khí vị, đều xét đến chỗ trọng yếu làm chủ, thì chân tính của thuốc tự nhiên rõ ràng.

 

  

15 Hỏi: Phần nhiều dùng thuốc trị bệnh theo mùi vị, vị ngọt thì vào kinh Tỳ. Mà thuốc có vị ngọt rất nhiều, có thứ vào thẳng Tỳ Vị, hoặc có thứ còn ghé vào bốn tạng khác nữa, làm sao để phân biệt ?

 

ĐÁP:Thuốc có chính vị ngọt vào thẳng Tỳ kinh. Nếu gồm vị đắng, gồm vị chua, gồm vị mặn, gồm vị cay thì đều có mùi khác xen lẫn với vị ngọt, cho nên ghé vào bốn tạng kia. CAM THẢO thuần vị ngọt, bổ được Tỳ âm, thêm được dương của Vị ; hoặc dùng sống, hoặc dùng chín, hoặc để điều hòa trăm vị thuốc, cố nhiên dùng vào chỗ nào cũng được. Hoàng Tinh vị ngọt mà nhiều nước, chính là để bổ thấp cho Tỳ thổ. SƠN DƯỢC sắc trắng vị chua, cho nên bổ Tỳ mà ghé vào Can Phế. BẠCH TRUẬT vị ngọt mà đắng ấm, cho nên bổ Tỳ làm ấm Thổ, hòa Can khí để ảnh hưởng đến Tỳ khí. THƯƠNG TRUẬT vị ngọt mà đắng ráo, cho nên làm khô ráo Vị trừ thấp. HOÀNG KỲ vị ngọt mà khí mạnh, cho nên bổ khí. TỀ NI vị ngọt mà có nước, cho nên sinh tân (chất nước) . LIÊN MỄ (hột sen) vị ngọt hơi ít, khí thì trong thơm, được khí của Thủy Thổ cho nên bổ Thổ, để làm cố tinh trừ ỉa chảy. KHIẾM THỰC vị ngọt ít mà tính chác nhiều, như thế vị thấm ướt của Thổ ít, mà tính kim thu nhiều, lại sinh trong nước, là loại hột thuộc Thận, cho nên dùng để thu ráp Thận kinh, và cầm ỉa chảy. DĨ NHÂN cũng sinh trong nước mà vị rất nhạt thì không bổ lại cũng không ráp, thì dùng thuần vào việc thấm lợi (lợi tiểu) . PHỤC LINH cũng vậy, cũng nhạt mà không chát. XÍCH THẠCH CHI dính rít lại vị ngọt, thì đều bổ và cầm ỉa chảy. VŨ DƯ LƯƠNG là chất đất của lớp vỏ đá, vị ngọt hơi mặn, ngọt thì bổ chính cầm ỉa chảy, mặn thì vào Thận để cố tinh, đều dùng vị ngọt, cũng dùng tính chát, như thuần vị ngọt mà không chát, như LONG NHÃN vào Tỳ, lại sản xuất ở Viêm Châu, được Hỏa khí của mùa Hạ, vì Hỏa sinh Thổ, cho nên bổ Tâm, cả bổ Tỳ. SỬ QUÂN TỬ NHÂN vị ngọt bổ Tỳ mà lại giết cam trùng; vì khí gồm mùi thơm, có tính ấm mạnh, cho nên

_Uống thứ thuốc này kỵ uống trà nóng.

_Phạm phải thì ỉa chảy. Với BA ĐẬU uống nóng thì ỉa chảy, đồng như ý trên.

Bàn về súc vật, Thịt Bò ngọt ấm, đại bổ Tỳ Vị. Thịt Dê tuy ngọt, mà có mùi Dê, là được khí ấm của Mộc, cho nên bổ Tỳ và bổ Can. Thịt Heo tuy ngọt mà có vị mặn, được tính hàn (lạnh) của Thủy Thổ cho nên tư Tỳ nhuận Thận. Nhân Nhũ (sữa người) vị ngọt, là chất nước của đồ ăn uống, được khí của phế Vị hóa thành, cho nên nhuận dưỡng vị, tư sinh huyết dịch, bổ Tỳ âm không có vị thuốc nào hơn được. TAM TÒNG vị ngọt mà mùi thơm mạnh. Cho nên chủ về điều chỉnh Tỳ khí. MỘC HƯƠNG điều chỉnh khí là vì mùi thơm vào Tỳ, mà lại hơi cay, lại được tính ấm của Mộc khí có sức sơ thổ (giúp việc tiêu hóa). Vả lại Mộc Hương thân có năm nhánh, năm lá, năm đốt hợp với số của Tỳ thổ, cho nên lý Tỳ (giúp việc tiêu hóa) .

Bàn về các thứ trái cây, Đại Táo da hồng, thịt vàng, da cay thịt ngọt, được tính của Hỏa sinh Thổ, cho nên nhuần bổ tỳ vị. Lê vị ngọt mà có Thủy tân (chất nước) cho nên nhuận Tỳ Phế. Lệ Chi sinh ở phía Đông Nam, vị ngọt chua, cho nên vào Tỳ và Can để ôn bổ. Tóm lại, vị ngọt đều vào Tỳ, lại xét chổ vị lẫn lộn, để vào các tạng khác, thì chủ trị của vị thuốc biết được rõ ràng.

 

16. Hỏi: Đắng là vị của Hỏa. Mà các vị đắng đều không bổ Hỏa, lại hay tả Hỏa, sao vậy ?

            Đáp:Vật cùng tột thì trở lại, dương cùng tột âm sinh. Lấy quẻ mà bàn, hào âm ở trong Ly Hỏa, là trong Ly Hỏa có tượng của khảm Thủy. Hễ thuốc có Hỏa vị, tức cũng có Thủy tính, mà giáng Hỏa được. Đó chính là điều chí lý của Thủy Hỏa giúp đỡ lẫn nhau. HOÀNG LIÊN vị đắng, cho nên vào thẳng Tâm kinh để tả Hỏa. CHI TỬ vị đắng tượng Tâm bào, cho nên tả Hỏa của Tâm bào lạc. LIÊN KIỀU cũng tượng hình Tâm bào, mà chất nhẹ bốc lên, vị hơi đắng, thì nhẹ nhàng thông lên trên thanh Hỏa của Tâm và Đầu Mắt ở thượng tiêu. LIÊN TỬ ( HỘT SEN ) tượng hình Tâm mà tim hột sen lại ở giữa, vị lại rất đắng, giống như hào âm trong quẻ Ly, dùng để thanh Hỏa trong Tâm, thật là thích hợp. HOÀNG CẦM vị đắng, trong có nhiều chỗ trống, có đường trống. Trong thân thể người ta duy Tam Tiêu có đường rỗng cho Thủy khí đi, chủ Tướng Hỏa. Hoàng Cầm trong rỗng có Lỗ, vào Tam Tiêu, mà vị lại đắng, cho nên chủ thanh tướng hỏa. ĐẢM THẢO, HỒ HOÀNG LIÊN, vị đắng mà cứng rít, gồm tính của Thủy Mộc, cho nên tả Mộc Hỏa của Can Đởm. Nhưng ĐẢM THẢO rễ nhiều mà sâu nhỏ, cho nên tả hỏa gồm giáng lợi. HỒ HOÀNG LIÊN thì ở một chỗ không phân tán, nên cần phân biệt rõ ràng. ĐẠI HOÀNG vị đắng, hình lớn mà khí mạnh, cho nên chạy đến Tỳ Vị, hạ Hỏa nhanh.

17. Hỏi: Thuốc có vị đắng để tả Hỏa, phần nhiều sắc vàng, vì sao vậy ?

            Đáp:Vàng là sắc của Thổ; theo lý của ngũ hành, thành công rồi thì lui; sắc của hỏa là đỏ, mà sinh thổ sắc vàng; như vậy sắc vàng sinh ra do hỏa khí lui lại. cho nên thuốc có vị đắng sắc vàng đều chủ làm lui hỏa. Nếu vị đắng mà sắc không vàng, thì lại có gồm tính khác. Cho nên HOA PHẤN sắc trắng, vị đắng mà có chất nước, thì công năng tả hỏa nhẹ, mà vào vị sinh tân dịch thì có sức lực nhiều. Huyền Sâm sắc đen vị đắng, thì công năng tả hỏa ít, mà công năng tư Thận nhiều. Đan bì sắc đỏ lợt vị đắng, thì thanh Tâm Hỏa mà vận hành huyết. THANH ĐẠI sắc xanh vị đắng, mà có chất nước thì thanh Can Hỏa mà dức được phong. Tóm lại, có vị đắng của hỏa, đều có tính hàn của Thủy. Xem qua bản thảo thì thấy rõ ràng, gần đây nhiều thầy thuốc ở xứ ta (đất Thục), nói rằng vị đắng đều có tính khô ráo, hỏa chứng lại phải kiêng kỵ. Không biết rằng lý thuyết đắng hóa khô ráo là gồm các thứ thuốc khô ráo, như THƯƠNG TRUẬT, CAN KHƯƠNG dùng chung với HOÀNG LIÊN thì táo (KHÔ RÁO). SINH ĐỊA, BẠCH THƯỢC dùng chung với Hoàng Liên đâu có táo được! Huống nữa, sáu khí trong thân thể, nhiệt (nóng) và hỏa (lửa) không giống nhau. Nhiệt là sức nóng của khí phần, cho nên thanh nhiệt làm bớt nóng) thì lấy THẠCH CAO, HOA PHẤN làm chủ để cho vào khí phần. Hỏa là huyết phần, cho nên tả hỏa, thì lấy Hoàng Liên, Hoàng Cầm làm chủ, để cho vào huyết phần.Chỉ biết dùng cam hàn ( vị ngọt tính lạnh) mà bỏ khổ hàn ( vị đắng tính hàn), thì thanh nhiệt được, mà không làm lui hỏa được. Bàn về thuốc nên biết lẽ đó.

 

 

 

18. Hỏi: Có vị đắng của hỏa, đều có tính hàn của thủy, thanh hỏa được. Tại sao Ngãi Diệp, Cố Chỉ, Ba Kích, Viễn Chí đều có vị đắng, mà đều bổ hỏa được ?

 

            ĐÁP:Đắng cùng tột lại có tính của thủy. nếu đắng chút ít thì còn giử tính của hỏa, cho nên bổ hỏa được. Vả chăng trong chỗ ít đắng hẵn có cay ấm, không phải thuần đắng. Ngãi Diệp vị đắng mà khí ấm, lông nhỏ của nó cháy được, cho nên làm ấm can bổ hỏa. Cố Chỉ sắc đen mà hột cứng, thì làm ấm thận. Ba Kích sắc tía mà rễ chắc, thì làm ấm can. Viễn Chí hình rất nhỏ, cho nên vào Tâm, đèo thêm vị đắng, cũng vào Tâm, mà gồm cay ấm, cho nên bổ Tâm hỏa. Có mùi xen lẫn tức là có khí xen lẫn, không thể lấy thuần đắng mà bàn được.

 

19. Hỏi: Cay là vị của Kim. Tính của kim là thu, nay xét thuốc có vị cay đều chủ tán mà không chủ thu, là vì cớ làm sao ?

            ĐÁP:Phàm khí vị của thuốc, có thể (thể chất) có dụng (công dụng), tương phản mà thật ra tương thành, cho nên có vị của kim, đều có khí của Mộc. Mộc khí đi lên, ví vậy vị cay không chủ thu mà chủ tán. Khí của Mộc ấm, trừ hàn được; KKhí của Mộc tán , trừ bế tắc được. Bạc Hà cay mà chất nhẹ, khí rất nhẹ bbốc lên; nhẹ thì khí nổi, chạy ra da lông, để tán khí lạnh; nhẹ bốc thì khí đi lên, đến đầu mặt để trừ phong hàn. TÂN DI (búp đa lông) ở trên ngọn cây, tính lên cùng tột, mà vị cay khí tán cho nên tán được phong hàn ở trong não, trong mũi, KINH GIỚI tính giống Bạc Hà, cho nên tán ở lông da, mà so với Bạc Hà chất nó chiềm, cho nên vào được huyết phần, tán cơ nhục. KHƯƠNG HOẠT, ĐỘC HOẠT rễ dài rất sâu, được thủy khí dưới đất mà lên sinh ra mầm tược, giống hình tượng kinh thái dương trong thân thể, mang dương trong thủy để phát ra kinh mạch , vị cay khí mạnh cho nên vào kinh thái dương, tán phong hàn của đầu cổ, ĐỘC HOẠT có sắc rất đen, cho nên vào thiếu âm để đến thái dương, tán được phong hàn của lưng cột sống. TẾ TÂN hình nhỏ sắc đen, cho nên vào kinh thiếu âm, cho nên trục được thủy ẩm. PHÒNG PHONG cay mà vị ngọt, cho nên vào Tỳ, tán phong hàn của cơ nhục. TỬ TÔ sắc tía vào huyết phần; cành nhánh của nó ở dưới chỉa ra bốn phía, thì tán tứ chi (hai tay hai chân); cành nhánh nó rỗng, có màng mỏng trắng, thì tán khí trong bụng; Hột nó cứng chắc, thì làm cho phế khí lưu hành đi xuống, để dẫn đờm đi. Đồng một vị cay, mà có rễ nhánh hột lá khác nhau. Xem xét tính nhẹ nặng, thăng giáng để phân biệt cách điều trị. QUẾ CHI tán được tứ chi, sắc vị giống như cành nhánh Tử Tô, mà Quế Chi cứng chắc hơn, cho nên Quế Chi gồm có công năng chạy vào gân cốt, Tô Nghạnh thì chỉ chạy vào cơ nhục thôi; NHỤC QUẾ so với Quế Chi vị lại đậm hơn, khí lại ngưng tụ hơn, vì vậy Mộc tính mạnh hơn; cay lắm thì ấm lắm, bổ ích Tâm hỏa được, là thứ thuốc đặc hiệu về Mộc sinh Hỏa; thật ra là thứ thuốc ôn Can; Can là mẹ của Tâm, Tâm hư thì bổ mẹ. Tâm Can đều quản lý huyết phần,cho nên Nhục Quế là thuốc cần yếu để ôn huyết. Trọng Cảnh dùng Nhục Quế trong Thận Khí Hoàn là để tiếp hỏa của Tâm Can về với Thận; cũng vì có Phụ tử, Thục địa, Phục linh khiến cho tính của Nhục Quế theo chúng vào Thận; như vậy là rất khéo dùng Nhục Quế, chứ không phải tự nó vào Thận. NHỤC QUẾ, QUẾ CHI đều là một thứ, mà dùng khác nhau là vì phân biệt hậu bạc để đi lên, đi xuống (thăng giáng). Hễ có vị cay, đều có ôn tính của Mộc. Quế chính là Mộc, mà được tính ôn (ấm), cho nên là vị thuốc ôn Can chính đáng. NGÔ DU, TIỂU HỒI đều được khí cay ấm của Mộc. ĐÀI Ô là rễ cỏ, tự vào hạ tiêu; TIỂU HỒI HƯƠNG là hột cỏ, tính của hột, đều chủ đi xuống, cho nên hai vị thuốc đó đều làm ấm được hạ tiêu, Bào Cung và Bàng Quang. NGÔ DU cay mà hơi đắng, hột lại có tính đi xuống, cho nên chủ về giáng thủy âm, làm lưu hành trệ khí. CỐ CHỈ, CỬU TỬ đều có sắc đen mà ấm, đen là sắc của Thận thủy, hột lại chủ trầm giáng cho nên hai thứ đều ôn Thận được. PHỤ TỬ sinh ở dưới rễ, không giống với cành, lá, da, hột cho nên không vào trung thượng tiêu; sắc thuần đen, mà vị cay nóng, mang khí dương sinh ra trong quẻ Khảm       một mình theo vào hạ tiêu, phò bổ dương khí, cực dương, cực âm đều có độc, Phụ tử nóng, vì lấy tính thuần dương của quẻ Khảm, có thể rất độc, tính của Phụ tử và Nhục Quế không giống nhau. Nhục quế bổ Hỏa, mang hỏa khí của địa nhị        Phụ Tử trợ nhiệt, nhiệt sinh ở trong thủy, là được dương của thiên thủy      cho nên PHỤ TỬ thuần vào khí phần để trợ dương, là thứ thuốc của thận và bàng quang. Hơ lửa thì vô hại, độc của dương trong thủy, gặp lửa thì tan. Cũng là ý nghĩa âm dương dẫn nhau. Ngày nay người ta lấy muối ướp để khử độc khiến cho tính của Phụ Tử không còn nguyên thủy là không đúng phép. phàm thuốc ấm đều mang Mộc khí, nhưng PHỤ TỬ mang dương trong thủy, là vị thuốc chính để ôn Thận đạt dương. Vì mang Mộc hỏa, là được hỏa của địa chi mang dương trong thủy, là được thiên nhất chi dương .

 

20.Hỏi:Tính của Mộc là tán, sao lại vị chua, mà chủ thu ?

 

            Đáp:Đó cũng là tương phản tương thành, lý về Kim Mộc giao hợp. Được vị của Mộc đều được tính của Kim. Vì vậy vị chua, đều chủ thu liễm. NGŨ VỊ TỬ chủ trị khí nghịch lên ho. Vì khí xuất ở dưới rốn, trong bào thất khí hải, theo Xung mạch mà lên vào Phế. Bào thất là chổ Can thống quản, nếu Can lạnh, thì khí của Bào cung và của Xung mạch mang thủy ẩm lên xông vào Phế sinh ra ho suyễn, nếu Can nóng, thì khí của bào cung và của xung mạch mang hỏa đó theo lên xông vào phế, sinh ra ho suyễn. NGŨ VỊ chua liễm Can Mộc làm cho Mộc khí thu vào, không đi nghịch lên, thì hai khí nóng lạnh (thủy hỏa) đó đều không đi lên sinh bệnh. vì vị chua vào Can, mà có tính kim thu, cho nên có được hiệu quả như vậy. NGŨ VỊ TỬ cũng chua ít mà chất nhuận, vỏ lớn mà rỗng, có hình tượng của phế rỗng trống bên trong, sinh ở trong lá, tính nhẹ nổi, cho nên chuyên liễm phế sinh tân. Như vậy NGũ VỊ TỬ liễm Can để liễm Phế, vì tính và vị rất trầm. NGŨ BỘI TỬ thì chuyên chủ liểm Phế, vì tính và vị nó phù. ANH TÚC XÁC (quả thuốc phiện khô) cũng liễm phế, làm hết ho được. Cầm ỉa chảy; vì không chua lắm, trong vỏ rỗng có ngăn, tượng hình phế và cơ hoàng, cho nên tính thu sáp, không vào Can, mà vào được Phế, để thụ liễm nghịch khí cầm ỉa chảy. BẠCH THƯỢC là hoa mùa xuân, mà rễ hơi đắng, cho nên chủ liễm Can Mộc, giáng hỏa, hành huyết. SƠN THÙ DU chua mà chất nhuận cho nên chuyên vào Can, tư dưỡng âm huyết. Ô Mai rất chua hay liễm Can mộc hay trị hồi trùng ( lãi đũa ), hay khử nổ nhục đều là lấy ý nghĩa Mộc khắc Thổ, chua thu liễm. Xem SƠN TRA chua hóa được nhục tích thì biết ô Mai chua trừ được sán lãi, màng mộng nhục lý như nhau.

 

  21.     Hỏi:Phàm vị chua đeu hay sinh tân (nước miếng), đó là thuyết nào ?

      Đáp:Tân sinh ở Thận mà phân táng ở Can; Mộc hay rỉ nước Can phát khí mẹ (thủy sinh mộc) vị chua dẫn động Can khí cho nên Tân chảy ra.

 

      22.Hỏi: Chua chủ thu liễm, ma chua quá lại phát mữa, sao vậy ?

 

      Đáp:Cay chủ thăng tán, mà cay quá thì chủ ôn giáng, chua chủ thu liễm mà chua quá thì sinh mữa vọt lên, vật ở trên tột thì lại xuống vật ở dưới tột, thì lại nên xem ĐẠI TIỂU SÀI HỒ THANG của TRƯƠNG TRỌNG CẢNH trị Can hỏa thổ nghịch (mửa nghịch lên). NGÔ THÙ DU THANH trị thổ nghịch do Can hàn. Biết rằng thổ ắt có khí của Can Mộc đi lên, mới phát thổ thì làm cho thổ ắt cũng có Can khí đi lên, mới thổ ra, NHỊ PHÀN hay thứ phèn rất chua, biến làm vị chát, chua thì thu mà dẫn tân (nước miếng) chát mà ngăng lại mà không chảy, Can khí quá cấp bức đi nghịch lên cho nên phát thổ. Phèn xanh do ở chất đồng sinh ra, có vị chua của mộc, mà chính được tính kim thu của đồng, Kim tính hoãn thì bình được Mộc khí làm cho đi xuống; Kim tính cấp thì ngăn Mộc khí mà làm thổ ra; như thế nhận thấy lý thường biến của kim Mộc; Cho nên Tôi nói: có vị của Mộc, đều có tính của kim; âm dương trao đổi giúp đỡ, duy tính của Mộc không thay đổi, bàn vị, bàn thuốc nên cứu xét rõ.

 

23.Hỏi:Theo lý luận trên đây, thì mặn là vị của thủy, đương nhiên có tính của hỏa. Tại sao Toàn Phúc Hoa mặn mà thuận giáng đờm hỏa, Trạch tả mặn mà nhuận lợi thấp nhiệt, Côn Bố, Hải Tảo mặn mà thanh Can hỏa, Mang tiêu, hàn thủy thạch mặn mà tả tỳ hỏa. Còn giữ vị mặn, còn giữ bản tính của thủy, chưa hề có Hỏa tính ?

 

Đáp:Vị bình thường, không rời bản tính vị cùng tội ắt biến đổi bản tính. Ví dụ : ít đắng là thuốc ôn Tâm hỏa; mà đắng lắm thì lại hóa lạnh. Cho nên ít mặn đều mang khí của hàn thủy; mà mặn lắm thì biến thành nhiệt. Trong quẻ ly có âm , trong quẻ Khảm có dương đều là theo lý nhất định. TOÀN PHÚC HOA vị ít mặn, hoa sắc vàng, thấm sương mà sinh, có nhiều kim khí ít thủy khí cho nên nhuận lợi phế kim, không được lấy thuần mặn mà bàn. CÔN BỐ, HẢI TẢO sinh ở trong nước vị ít mặn, mà chất là cỏ, là vật mang hai thứ khí là Mộc thủy, cho nên thanh hỏa nhuận can mộc. HÀN THỦY THẠCH, có nhiều tính của đá, vị tuy mặn, mà không mặn lắm; vả lại ở núi có thứ đá đó, sinh ra thủy chảy thành suối, vì vậy đá đó có thuần thủy tính cho nên thanh nhiệt. MANG TIÊU tuy mặn, mà chưa đến cùng cực, cho nên cồn tính của hàn thủy; đại hạ được hỏa, còn theo bản tính của thủy, không phải tính biến hóa của vị mặn cùng tột. Còn như HỎA TIÊU thì mặn lắm, biến ra tính của hỏa cho nên đốt cháy, đó là hỏa trong thủy. Ăn nhiều muối quá tức thời khát nước, cũng là một thí nghiệm vào huyết sinh nhiệt, người phương tây luyện muối gọi là diêm tinh (muối tinh); lại luyện chất mặn, gọi là kiềm tinh. Hai thứ ấy chứa vào một chổ, có pha lê ngăn cách. Chỉ đập phá pha lê thì bốc cháy dữ dội. Phép chế thuủy lôi của phương tây là như thế. Diêm Tinh phát hỏa thì biết muối vị mặn, trong có tính hỏa nhiệt. Mà hỏa trong thủy, là hỏa của Mệnh Môn, ít mặn thì dẫn được hỏa đi xuống, như mấy thứ thuốc ở trên. Mặn lắm thì trợ được hỏa đi lên như HỎA TIÊU, DIÊM TINH. Ở đất thục nuôi heo đực cho ăn muối, để bỏ nọc với nhiều heo cái cũng tức là kinh nghiệm giúp phát xuất mệnh môn hỏa để trợ dương. Trong thuốc có nhục thung dung ban đầu là tinh của ngựa nhỏ giọt xuống đất mà sinh ra, sau lấy mầm truyền lại, lại có hình tượng cái âm hành của con người, vị mặn vào Thận, cho nên ôn nhuận mà làm mạnh phần âm để trợ dương trong Thận, mà bổ ích mệnh môn hỏa, còn như nấu luyện thu thạch, để tư âm, trị được bệnh dương nuy, mà không biết vị mặn lắm, chỉ trợ được hỏa của mệnh môn để làm cường dương, giống như nuôi heo đực cho ăn muối, đó là tráng dương, không phải tư âm được. Cho nên người uống Thu Thạch, thường bị âm khô thành bệnh lao, đều không biết ý nghĩa mặn lắm trợ hỏa. Tuy Đồng Tiện vốn là tư âm, mà nấu luyện thành thu thạch, thì nung nấu đã nhiều, không được lấy tính của Đồng Tiện mà bàn nữa. Vì vị của thủy, đều có tính của hỏa, cũng chỉ là trở lại ý nghĩa dương trong quẻ khảm mà thôi.

 

24.Hỏi:Hàn, nhiệt, ôn, bình ( lạnh, nóng, ấm, trung bình ) đã nói hết được tính. Ở trên đã phân ngũ hành, ngũ tạng, đã rõ tính hàn, nhiệt, ôn, bình không cần nhắc lại. Nhưng thuốc phân ra trên, dưới, biểu, lý ( trong, ngoài ), lại còn phân biệt thăng giáng, phù, trầm ( lên, xuống, chìm, nổi). xin được nghe.

 

      Đáp:Đó là gốc âm dương của trời đất. Gốc ở dương, lấy khí làm chủ : đi lên, đạt ra ngoài, cho nên lên mà khí nổi, chạy đến thượng tiêu, để phát ra ngoài. Gốc ở âm, lấy vị ( mùi ) làm chủ : đi ở trong đạt xuống, cho nên xuống mà khí chìm, đi ở trong, đạt hạ tiêu. Khí gốc ở trời, vị thành ở đất. Nội Kinh : Trời lấy năm khí nuôi người, đất lấy năm vị nuôi người, gốc ở trời thì gần với trên, gốc ở đất thì gần với dưới. Lý thăng, giáng, phù, trầm thấy rõ.

 

25.            Hỏi: Bạc Hà, Tân Di, Ma Hoàng, Quế Chi, Sinh Khương, Thông Bạch, Khương Hoạt, Độc Hoạt, Cát Căn, Sài Hồ, Bạch Đầu Ông, Thăng Ma, Tử Tô, Kinh Giới, Bạch Chỉ, Lô Cam Thạch, Hải Thạch, Cúc Hoa, Liên Kiều, Ngân Hoa, Thương Nhĩ Tử, Thạch Cao, Mạn Kinh Tử đều là thuốc thăng, phù mà công dụng đều khác nhau, sao vậy ?

 

      Đáp:Đó là thuốc của khí phần. Lại phải xem hình dáng, mùi vị để phân biệt. Bạc Hà, Tân Di cùng một vị cay, khí đều trong nhẹ, mà hình dáng đều khác. Bạc Hà là loài thảo nhỏ, mọc thành chùm, không chỉ một thân cho nên phân tán bốn phía lại lên đến đầu cổ, vì khí nhẹ bốc lên. Tân Di sinh ở ngọn cây, mà búp nhọn hướng lên, vị cay khí bốc lên, cho nên chuyên chủ đi lên, tán được phong hàn ở não và lỗ mũi, Ma Hoàng tuy có một thân lên thẳng, mà là thứ cỏ mọc chùm giống như Bạc Hà, cho nên đi lên, lại phân tán ra ngoài. Bạc Hà được khí nhẹ bỗng của trời, vị cay, lại gồm được vị của đất, cho nên gồm cả vào huyết phần. Như Ma Hoàng thì thân rỗng, lên thẳng, không có vị mạnh, thuần là khí nhẹ bỗng của trời, cho nên chuyên chủ vào khí phần. Dương theo âm ra thấu đạt đến da lồng của chu thân, Quế Chi và Ma Hoàng cùng một thứ thuốc thăng tán, nhưng khí vị đều không giống. Tính của cành nhánh chỉa ra bốn phía, khí cũng nhẹ bổng, nhưng quế gồm có vị cay thì được vị của đất, cho nên gồm vào huyết phần, tán được phong hàn trong huyết mạch, cơ nhục. Xem MA HOÀNG THANG của TRỌNG CẢNH phát ra da lông, QUẾ CHI THANG giải cơ thì biết bàn về huyết phần, khí phần. SINH KHƯƠNG khí thăng tán, mà lại giáng khí, chỉ ẩu được, vì vị mạnh hơn; vả lại, là rễ trong đất mang vị của địa hỏa, mà về gốc, cho nên giáng khí, chỉ ẩu, tuy thăng tán được, mà không giống với Ma, Quế thuần thăng. cho nên TIỂU SÀI HỒ, NHỊ TRẦN THANG đều dùng để chỉ ẩu, rễ của Thông Bạch (hành trắng) cũng sinh trong đất, nhưng lá rỗng thân thẳng, khí mạnh hơn vị, dẫn khí của hoàng tuyền dưới đất, lên đến mầm lá, cho nên chuyên chủ thăng tán thông được Phế khiếu. BẠCH THÔNG THANG của TRỌNG CẢNH , dùng để thông dương khí lên trên, thì lấy khí của hoàng tuyền dưới đất lên đến mầm, lá để làm thông dương trong thủy của thái dương, mà giao với đầu cổ. KHƯƠNG ĐỘC CÁT CĂN rễ đều sâu, lấy được thủy khí trong đất, lên đến mầm lá, mầm lại rất dài, hình tượng kinh thái dương trong thân thể, theo trong nước của Bàng Quang, đưa dương khí đến kinh mạch, để bảo vệ chu thân, cho nên hai vật đều vào kinh thái dương. KHƯƠNG ĐỘC khí vị rất cay nóng, cho nên phát tán mà thương tổn huyết; CÁT CĂN khí vị trung bình hơn, cho nên tính phát tán nhẹ mà không thương tổn huyết, rễ sâu dẫn thủy khí được, đưa lên đến mầm lá, cho nên gồm cả đem tân dịch lên, SÀI HỒ BẠCH ĐẦU ÔNG đều một thân thẳng, hoa đều thơm nhẹ, cho nên thăng tán kết uất; BẠCH ĐẦU ÔNG trị được kiết lỵ mót rặn, là vị thăng tán kết uất, ( làm cho uất kết phân tán đi lên ); SÀI HỒ trị chứng đầy tức, khí của thái dương hãm lại trong ngực, không đưa được ra ngoài, cho nên ngực đầy, Sài Hồ làm cho thông suốt, cũng là ý nghĩa thăng tán uất kết. Mà hai vật không giống nhau: BẠCH ĐẦU ÔNG không gió tự lai động, có giờ đứng im, sắc trắng có lông, có lông là được phong khí, lại thu hái ở mùa thu, được khí của kim mộc giao hiệp, cho nên dức được phong, theo phế kim để đạt đến khí của phong mộc, làm cho mộc không khinh lờn thổ, cho nên làm cho khỏi mót rặn mà hết bệnh kiết lỵ. SÀI HỒ sắc xanh một thân lên thẳng, sinh ở mùa xuân, thu hái ở mùa hạ, được khí vị của thủy mộc, theo trung thổ để đạt đến khí của mộc hỏa, làm cho không kinh lờn phế, cho nên làm thông suốt cái uất kết ở ngực, TRỌNG CẢNH dùng sài hồ, để trị bệnh thiếu dương, ý nghĩa rất tinh tế. Thiếu dương là dương trong thủy, xuất phát ở tam tiêu, để đi đến tấu lý ghé ở trong đảm, để tiêu hóa cơm nước, ắt là mạng lưới của tam tiêu thông suốt, mộc hỏa của can đảm thanh hòa mà dương trong thủy từ trong đạt ra ngoài. SÀI HỒ thân nó rổng xốp, có bạch tương thông khí, giống như màng lưới của tam tiêu, màng lưới có đường nếp dính liền với thịt da gân cốt, cho nên gọi là tấu lý. Thiếu dương là mộc hỏa, uất ở da chứa không thông đạt, thì sinh nóng lạnh. SÀI HỒ làm thông suốt được, vì thân xốp rổng, giống nhu da thứa làm thông đạt dương khí, vị đắng thanh, nên thanh được hỏa của tam tiêu. Như vậy SÀI HỒ trị đởm là dùng vị đắng, trị tam tiêu là dùng thân rổng xốp lên thẳng, trị thái dương là thông đường tam tiêu để thông đạt khí, thì là mượn đường lối trị giáng tiếp, không phải là trị trực tiếp. SÀI HỒ phải dùng thứ thân lên thẳng, sắc xanh, có lá bốn phía, như trúc diệp mà nhỏ, nở hoa nhỏ vàng, là thứ thật, đó là thứ Trọng Cảnh dùng. Gần đây có thứ rễ cỏ (thảo căn) cay ấm phát biểu, tuyệt không có tính của Sài Hồ, dứt khoát không nên dùng. Tại Tử Đồng của Tứ Xuyên sản xuất Sài Hồ, giá rất rẻ, thiên hạ không thông dùng, chỉ vì trong sách thuốc nói có nhuyễn Sài Hồ, Hồng Sài hồ, Ngân sài hồ làm xáo trộn thật giả, sai với tính dược của Trọng Cảnh, đáng tiếc!đáng tiếc!THĂNG MA vị ngọt, làm thăng khí của tỳ vị; sở dĩ thăng được, là vì trong rễ có đường rỗng, dẫn thủy khí lên đến mầm đọt, cho nên tính chủ thăng, nhưng không có tính tứ tán, vì rễ chuyên chủ thăng, không giống Sài Hồ thuộc về mầm lá, cho nên có tính phân tán, vì rễ chuyên chủ thăng, khong giống Sài Hồ thuộc về mầm lá, cho nên có tính phân tán. TỬ TÔ giống như kinh giới, sắc hồng tán được huyết phần, cành lá tấch rời ra, cho nên tính chủ tán nhiều mà chủ thăng ít. BẠCH CHỈ cay thơm, sắc trắng vào phế, và kinh dương minh, tính của rễ lại chủ thăng, cho nên thăng tán phong hàn của phế và dương minh, xem độc hoạt sắc đen, vào thái dương, thiếu âm, bạch chỉ sắc trắng, vào phế và dương minh đó là kim thủy khác chất, cho nên vào theo tượng loại. Sở dĩ tính đều thăng tán, mà chủ trị khác nhau. NGÂN HOA, LIÊN KIỀU, CAM CÚC vị thanh mà chất nhẹ, cho nên thăng được thanh khí, thăng được nhiệt khí ở đầu, mắt,ở thượng tiêu; nhưng không có khí cay tán, cho nên không chủ tàng; THANH CAO, THƯƠNG NHĨ đều không cay tàn, mà chủ tán được, thì lại lấy hình khí mà bàn, THANH CAO cành lá tứ tán, mà vị đắng, cho nên tán hỏa được, hễ có gai, có gốc có lông, đều cảm dược phong khí, cho nên chủ tán phong. MẠN KINH TỬ khí mạnh, mà chất cũng nhẹ, cho nên chủ tán phong ở đầu mắt. LÔ CAM THẠCH, HẢI THẠCH đều là chất nhẹ nổi, nhưng thuộc thể đá, là trong có tính trầm, cho nên không đạt ra ngoài, không lên chóp đầu dược, mà chỉ tán được kết của đờm hỏa ở phế vị. Bbài thuốc phù trầm để trị bệnh phù trầm, mà có ý nghĩa biểu, lý, thăng, giáng cũng dược sáng tỏ.

 

 

26.     Hỏi: Bản Thảo nói: Thuốc đi lên lấy muối chế thì đi xuống được, thuốc đi xuống, lấy rượu chế, thì đi lên được, rượu cũng là ngũ cốc làm ra, sao có thuần tính đi lên ?

                  ĐÁP: Khí gốc ở trời, cho nên chủ thăng. Rượu chính là vật hóa khí, vì vậy ưa đi lên. Xem cách nấu rượu trắng, dùng ống đồng lấy hơi, vào đáy nồi phía trên hóa ra rượu. Rượu đều là hơi nước đi lên, dương ở trong thủy, gốc đi lên. Người phương tây lấy khinh khí dưỡng khí ở trong nước, đi lên được, cháy được thành lửa; chứa dương thì đi lên. Thủy làm quẻ khảm, khí của hào giữa là dương, cho nên khí từ khí từ thủy sinh ra mà đi lên. Khí thanh dương ở ngoài trời, đều là dương trong thủy được phát sinh ra. Nấu rượu lấy men làm dậy dương, lấy lửa nấu khiến cho âm hóa làm dương, hơi lên đi ra, thành rượu, toàn là khí dương đi lên cho nên chủ thăng. Lại như ủ rượu nếp thang lấy men trộn với xôi nếp; phát nóng nát ra; rượu chảy ra, còn bả xôi lại; cũng là theo cách hóa hơi, cho nên thuộc dương cũng chủ thăng. Nhưng rượu nếp thang và rượu trắng không giống nhau. Rượu trắng do ống đồng ở trên dẫn ra thuần là thanh khí; Rượu nếp thang ủ ở trong vò còn có nước đục. Cho nên rượu nếp thang vị đậm hơn, vào được huyết phần, tính cũng ngưng trệ, nên sinh đờm thấp. Đồng một tính đi lên, mà một thứ trong một thứ đục, mới khác về phù trầm ( nổi chìm ). Cho nên xát định dược lý phải tinh tế.

 

27.     Hỏi: Mạch Nha và Rượu Nếp Thang đều ủ men mà hóa ra. Tại sao mạch nha ngọt nhuận, mà tính không đi lên ?

 

                  ĐÁP:Rượu do ủ kín, tự nhiên chảy ra, được nhiều khí hóa ra, cho nên khí thịnh mà đi lên. MẠCH NHA nấu đặc buột phải chảy ra, được ít khí hóa ra, cho nên vị thịnh, mà không đi lên. Vì rượu được khí mạnh của trời mà đi lên, mạch nha được vị mạnh của đất mà bổ. TRỌNG CẢNH dùng mạch nha trong KIẾN TRUNG THANG chính là để bổ trung cung. Xem rượu trắng đi lên mà không ở một chổ, mạch nha ở một chổ mà không đi lên, rượu nếp thang vừa đi lên vừa ở một chổ, chổ khác nhau là toàn ở khí, vị đậm, nhạt. bàn tính thuốc cần xét rõ lý do.

  

28.     Hỏi:MANG TIÊU, ĐẠI HOÀNG, BA ĐẬU, ĐÌNH LỊCH, HẠNH NHÂN, CHỈ XÁC, HẬU PHÁC, NGƯU TẤT, DĨ NHÂN, TRẦM HƯƠNG, GIÁNG HƯƠNG, THIẾT LẠC, GIẢ THẠCH, TÂN LANG, TRẦN BÌ các thứ đó đều chủ đi xuống ( giáng), có thứ đi xuống mà thu vào, có thứ thu vào mà tán ra, có thứ xuống mà công phá, có thứ xuống mà thấm lợi, có thứ vào khí phần, có thứ vào huyết phần, lại có thể biết rõ chăng ?

 

                  ĐÁP:Đi lên là đều được khí của trời, đi xuống là đều được vị của đất. Cho nên vị đậm thì xuống mau, vị nhạt thì xuống chậm, lại hợp với hình chất mà bàn, thì nặng nhẹ cũng có khác nhau. MANG TIÊU vốn được thủy khí, nhưng được tính âm ngưng trong thủy, mà vị mặn làm miềm vật rắn được, hạ nhiệt của khí phần, vì được vị âm của thủy; mà chưa được khí dương của thủy, cho nên xuống mà không lên, vả lại xét thủy thuộc khí phần, cho nên MANG tIÊU có vị ngưng thủy, thuần được tính âm của thủy, cho nên thanh giáng nhiệt của khí phần. Đối với ĐẠI HOÀNG vào huyết phần, xét ra khác nhau. ĐẠI HOÀNG vị đắng, đại hàn, là được vị âm của địa hỏa; mà sắc vàng, lại là phát hiện thối khí của hỏa, cho nên thối hỏa, chuyên hạ kết của huyết phần; vì vị đậm, vả lại có khí nóng, vị đã xuống mà khí giúp thêm, cho nên xuống mau. Tính hàn đều dẫn xuống, như Bạch Thược, Xạ Can, vị hay giáng lợi được đều vì vị đắng; đối với Đại Hoàng giáng hạ đồng một nghĩa. ĐẠI HOÀNG lại có tính đắng nhiều, BẠCH THƯỢC đắng ít hơn, cho nên Bạch Thược chỉ giáng ít, mà ĐẠI HOÀNG giáng nhiều.

 

29.     Hỏi:Hoàng liên vị đắng, ở yên mà không chạy, mà một mình Đại hoàng công lợi, như thế là như thế nào?

 

                  Đáp: Cùng một vị đắng, mà chất của Hoàng liên khô mà không thắm ướt; chất của Đại hoàng hoạt nhuận có nước, cho nên chủ lợi hoạt; Hoàng liên lại thuần vị đắng mà không có khí, cho nên ở yên mà không chạy; Đại hoàng vị thuần đắng mà lại có khí nóng lạnh, lấy khí đẩy vị đắng đi, thì chạy mà không ở yên. Vì vậy khac với Hoàng liên.

 

30.     Hỏi:Đại hoàng tính đắng lạnh đương nhien đi xuống, mà Ba đậu co tính cay nóng, đáng lẽ trái ngược với Đại-hoàng, sao cũng chủ công hạ ( xổ). Mà so với tính của Đại-hoàng rất mau hơn?Đó lại theo lý thuyết nào?

 

                  Đáp:Đó là lấy dầu trơn mà chủ hạ giáng. Giáng hạ (xổ) được là chỗ chuyên chủ của dầu trơn, chứ không phải chổ chuyên chủ của cay nóng. Phàm ăn Dầu-mè, Đương-qui đều được hoạt lợi đi đại tiện. Ba-đậu, Tỳ-ma-tử dều có dầu, đều hoạt lợi, đều làm hạ đại tiện. Nhưng Dầu-mè không nóng thì chậm đi, không cay thì khí không chạy tán, cho nên hạ đại tiện chậm. Tỳ-ma-tử vị cay khí ấm, như thế là có khí ấm, để đẩy tính dầu trơn, cho nên đi mau. Dầu Ba-đậu cùng một tính trơn, như dầu Mè, Thầu-dầu mà cay nhiều thì mạnh, nóng nhiều thì hung hãn. Lấy hung hãn để hoạt lợi, cho nên mau chóng không lưu trệ, hạt Mè cũng dầu trơn, mà không có tính cay nóng, cho nên chỉ nhuận giáng, không làm hạ mau.Đình-lịch cũng có dầu, đương nhiên hoạt lợi; lại có vị cay, giống với vị cay của Ba-đậu, mà có dầu tương tợ; vị lại đắng, giống với vị đắng của Đại-hoàng mà hoạt nhuận tương tợ; như vậy, Đình-lịch có cả 2 tính của Ba-đậu và Đại-hoàng, cho nên đại tả mủ máu, đờm ẩm trong phế; tính giáng rất mau, vì gồm cả tính của Đại-hoàng và Ba-đậu; thật là thứ thuốc mạnh. Sợ quá mạnh, cho nên Trọng-cảnh phải lấy Đại-táo bổ vào. Hạnh-nhân cũng có dầu, chỉ được vị đắng, mà không co khí cay nóng, cho nên giáng mà không gấp.

 

31.     Hỏi:Đều là giáng khí, sao Hạnh-nhân, Đình-lịch vào phế, mà Chỉ-xác, Hậu-phác vào Tỳ-vị?

 

                  Đáp:Đình-lịch, Hạnh-nhân sắc trắng thuộc kim; Chỉ-xác, Hậu-phác đều là chất cây (mộc); Mộc hay sơ thổ (giúp thổ tiêu hoá), cho nên vào Tỳ-vị. Chỉ-xác là trái cây, vị nhẹ hơn Hậu-phác, cho nên lý Vị khí; Hậu-phác là vỏ, vị nặng hơn Chỉ-xác, cho nên lý Tỳ khí. Xem Trọng-cảnh dùng Chí-xác trị dưới Tâm đầy; dùng Hậu-phác trị bụng đau. Thì biết phân biệt sự nặng nhẹ của Chỉ-xác, Hậu-phác.

 

32.     Hỏi:Trần-bì cũng là trái cây, trị được Vị, gồm trị Tỳ, vừa lý phế được. Tại sao vậy?

 

                  Đáp:Trần-bì gồm cay thơm, cho nên đạt lên phế được; Chỉ-xác không cay thơm, cho nên không vào phế; Hậu-phác cay mà khí quá trầm, cho nên không vào phế. Phế khí thông với Đại-trường, Hậu-phác làm lưu hành khí của Đại-trường, thì Phế khí được thông ra ngoài, cho nên Trọng-cảnh trị bệnh có Quế-chi thang gia Hậu-phác, Hạnh-tử. Vả chăng, dùng thuốc không phải tuyệt đối phân ranh giới. Cho nên Chỉ, Quất, Phác thường thường có công dụng hỗ trợ, người thầy thuốc cần nên thông hiểu, Tân (Binh)-lang là trái cây (trái cau), tính trầm nhiều, cho nên trị sán khí bụng dưới; mà tính trầm giáng từ trên đi xuống, cho nên Tân-lang cũng gồm cả lợi Hung-cách; vả lại vị không mạnh, cho nên đi xuống chậm. Trầm-hương cây hơi chìm xuống nước, vị lại đắng đi xuống, lại có khí thơm để lưu hành, cho nên tính hay giáng khí. Giả-nam-hương vị ngọt khác với Trầm-hương, chi nên khí của Giả-nam thăng tán, mà khí của Trâm-hương chuyên hạ giáng. Uống Giả-nam thì ợ khí. Uống Trầm-hương thì hạ bộ đánh rấm(địt). Biết là một thứ ngọt, một thứ đắng, lên xuống khác nhau. Giáng-hương đắng   sắc hồng, cho nên giáng khí trong huyết, chỉ thổ huyết. Ngưu-tất mà giáng là theo hình và vị để trị, vì rễ sâu vị đắng, cho nên dẫn Thuỷ-hoả đi xuống. Thiết-lạc mà giáng là lấy kim bình mộc, lấy nặng trấn khử, cho nên làm hết sợ sệt, làm hết điên cuồng. Giả-thạch cũng nặng mà sắc đỏ, lại vào huyết phần, cho nên có tên là Huyết-sư, vì giáng huyết; huyết là chổ ở của khí. Toàn-Phúc-Đại-Giả-Thạch thang làm hết ợ hơi, chính là hành huyết để giáng khí, giáng mà trầm vị phải đắng chất phải nặng, giáng mà tán vị phải cay khí phải thơm, giáng mà thấm lợi vị phải nhạt khí phải nhẹ. Dĩ-nhân, Trạch-tả, Xa-tiền-tử, Phục-linh đều vị nhạt, khí nhẹ, đều thuộc âm ở trong dương, không lên thanh khiếu ở trên, cho nên đều đến thanh khiếu ở dưới lợi tiểu tiện, giáng mà công phá vị phải đậm khí phải mạnh gồm công năng phá huyết thì có công năng công tích. Nếu chỉ có tân dịch thì tích làm đờm thuỷ, không kết cứng được; như kết cứng đều có trộn huyết, nhưng có một mình huyết mà không có khí để kết hợp cũng là huyết chết mà không kết cứng; duy khí dựa huyết mà ngưng đọng, huyết hợp với khí mà tụ lại, rồi sau mới đọng lam cục cứng (kiên tích). Tam-lăng phá khí trong huyết, Nga-truật phá huyết trong khí, cho nên phá tích được. Tam-lăng vị chỉ đắng mà không cay, sức phá huyết nhiều, mà sức tán khí ít; Nga-truật gồm vị cay, hành khí để phá huyết, thì hành khí hành huyết được cả hai, rất thích hợp cho tích tụ, cho nên Nga-truật được dùng nhiều trong cac phương. Khương-hoàng khí vị đều đậm cho nên hành khí hành huyết. Uất-kim từ Khương-hoàng sinh ra mà khí nhẹ vị mạnh, cho nên co công năng hành huyết mạnh hơn hành khí.

 

33.     Hỏi:Phàm thuốc đi xuống đều chìm vào trung-hạ-tiêu, nghịch khí của thượng tiêu lam cách nào hạ xuống?

 

                  Đáp: Thuốc đi xuống tuy trầm nhưng chưa co thứ nào không từ thượng-tiêu mà đi xuống. Cho nên Giả-thạch theo thượng-tiêu để trấn xuống. Tân-lang gồm được lợi ngực và cách mạc. Nói chung tính và khí vừa năng mau vừa thẳng xuống hạ-tiêu, mà không lợi được thượng-tiêu; khí và vị vừa nhẹ vừa chậm, thì đều giáng lợi được thượng-tiêu. Đình-lịch tả phế. Hạnh-nhân lợi phế, Xạ-can hơi đắng, lợi đờm trong họng. Hậu-phác-hoa tính nhẹ, lợi khí ở cơ hoành. Xuyên-bối-mẫu sắc trắng tính bình, lợi đờm khí ở ngực phế. Toàn-phúc-hoa vị mặn chất nhẹ, cho nên nhuận phế giáng đờm. Trần-bì khí vị không nhẹ không nặng, cho nên có thể giáng thượng-tiêu, co thể giáng trung-tiêu. Duy Mộc-hương khí phù vị trầm, cả thượng-trung-hạ tam tiêu đều lý được. Còn tính nặng như hột quýt (quất hạch), hột Tra (Tra hạch), hột trái vải đều chuyên trị khí ở hạ-tiêu. Tính mau như Đại-hoàng, Ba-đậu, Ngưu-tất thì chạy hẵn xuống hạ-tiêu. Cùng là hành khí, lại phân biệt nhẹ nặng nổi chìm (kinh, trọng, phù, trầm), để dùng cho đích đáng, tự nhiên không sai lầm.

 

34.     Hỏi:Phàm rễ phần nhiều có tính đi lên, tính của trái phần nhiều đi xuống, tính của thân phần nhiều hoà, tính của cành phần nhiều tán. Vì cớ sao vậy?

 

                  Đáp:Rễ chủ việc sống ở trên cho nên co tính lên; trái chủ thòng xuống, cho nên co tính xuống; thân ở giữa cho nên lên được xuống được, cho nên có tính hoà; cành lá ở bên, chủ phát ra, cho nên có tính tán. Nhưng mỗi dược tính, nên chú trọng ở rễ, hoặc nên chú trọng ở trái, hoặc nên chú trọng ở thân, hoặc nên chú trọng ở lá, đều tuỳ nên chú trọng vào tính ở chỗ nào, để làm thuốc chuyên trị. Chưa có thể bàn rộng ra.

 35.     Hỏi: Tính của rễ, trái, thân, lá đã nói rõ chỗ chuyên trị của mỗi thứ. Bây giờ hãy bàn trước về rễ. Tính của rễ đi lên, có những vị thuốc nào một mình chuyên chủ tính ấy, xin chỉ rõ.

 

                  Đáp:Tính của rễ phần nhiều đi lên, lại cần xem hình sắc khí vị, đều thấy rễ quan trọng, thì chuyên lấy rễ dùng. Như Thăng-ma rễ lớn hơn mầm, thì rễ được khí nhiều, cho nên chuyên lấy rễ; trong rễ lại có nhiều lỗ hổng, đó là lỗ hút dẫn thuỷ khí lên đến mầm lá, cho nên tính chủ đi lên. Khí vị cay ngọt, đó lại làkhí vị đi lên. Kết hợp hình để bàn tính đều chủ đi         lên, cho nên gọi là Thăng-ma. Đó là vị thuốc chuyên chủ đi lên. Còn như Cát-căn rễ rất sâu, hút dẫn thuỷ khí trong đất, đễ đun lên đến vòi dây; cho nên đưa tân dịch lên được, lại thăng tán được hai kinh thái-dương, dương-minh; lấy ý nghĩa lên đến vòi dây, Cát-căn có vòi rất dài, mà kinh mạch của thái-dương cũng rất dài; Cát-căn dẫn thuỷ khí dưới đất đem lên đến vòi dây; thái-dương dẫn dương khí trong thuỷ của Bàng-quang đễ đem đến kinh mạch, đồng lý nhau; cho nên Cát-căn trị được một chứng bệnh kinh phong của thái-dương, giúp kinh thái-dương, do nước trong Bàng-quang, mà đem khí ra ngoài. Màu rễ thuần trắng, thuộc kim, lại hút được thuỷ khí đi lên, đó là vật kim-thuỷ tương sinh; lại dẫn được tân khí (tân-dịch), đễ trị táo của dương-minh. Cát-căn và Thăng-ma khác nhau; Cát-căn rễ chắc cho nên đem tân lên mà không đem khí lên; Thăng-ma rễ rỗng, có đường rỗng đễ đưa khí đi, cho nên đem khí lên mà không đem tân lên. Hoàng-kỳ cũng có đường rỗng trong rễ xốp; nhưng Thăng-ma vị không đậm cho nên đi lên mà không bổ; Hoàng-kỳ vị đậm, cho nên đi lên mà bổ được. Hoàng-kỳ rễ sâu dài đến vài thước, lấy Hoàng-kỳ không dùng cuốc đễ đào lên, mà dùng sức nhổ ra khỏi đất vì rễ đuôi chuột không có rễ bàng; theo đó mà biết rễ tính đi thẳng; phía trong lại rỗng xốp, thông thuỷ khí được, đem thẳng thuỷ khí dưới đất lên để lên đến mầm. Cho nên đem nguyên khí của người lên được, để làm đầy đủ ở phần trên, đạt đến phần biểu. Nguyên khí của người sinh ở Thận, phát xuất từ nước trong Bàng-quang, theo màng mỏng của Khí-hải mà lên ngực. Chẻn dừng, để lên phế, ra khắp lông da, Hoàng-kỳ trong rỗng xốp thông đạt được giống như màng mỏng của người dẫn được thuỷ khí dưới đất, để lên thấu mầm lá, giống nguyên khí của người, từ Thận lên Phế để ra đến phần biểu; cho nên Hoàng-kỳ đưa nguyên khí ở phần lý lên được.

36.     Hỏi:Ba vị thuốc trên đây tính đều chủ thăng, mà chủ trị đều không giống nhau, sao vậy?

                  Đáp:Rễ đều có tính đi lên mà hình sắc khí vị lại không giống nhau, cho nên chủ trị khác nhau, vị Thăng-ma có đường rỗng thông khí lớn, gồm có khí vị cay hay phát tán, cho nên tính thuần đi lên. Hoàng-kỳ sắc vàng khí ôn, vị thuần ngọt, cho nên đi lên mà gồm có bổ, Cát-căn vỏ trắng, vị hơi đắng cho nên lên mà thanh hoả, không bổ được. Bàn về vị thuốc nên xét tỉ mỉ.

37.     Hỏi:Ngưu-tất, Linh-tiên, Thuyến-thảo, đều là rễ, sao lại không chủ thăng mà chủ giáng?

 

                  Đáp:Nói rằng rễ đi lên tức là khí vị hình sắc đều có tính đi lên mới thăng đạt được, như Ngưu-tất và các thứ rễ đã cứng chắc, mà hình không rỗng, thì không có đường rỗng để thăng đạt. Vị đã đắng, tả hạ mà khí không phát tán thì không có sức thăng phát; vả lại khí vị đã giáng, mà rễ lại xấu, đó là dẫn khí vào rễ để hạ đạt; ý nghĩa trái với tính đi lên của Thăng-ma và các vị thuốc kia, có thể so sánh mà biết lý được.

 

38.     Hỏi:Trái của loài thảo mộc đều có tính đi xuống, sao vậy?

 

                        Đáp:Vật ở thấp tột thì lại đi lên, vật ở cao tột thì lại đi xuống; trái cây sinh ở trên cao, đã tột rồi cho nên đi trở xuống lại. Tính của hạt của trái cây, liễm vào trong, cho nên giáng mà thu.

 

39.     Hỏi:Thương-nhĩ-tử, Mạn-kinh-tử đều là trái loài cỏ, tại sao đều đi lên được? Hoa-tiêu, Quất-hồng đều là trái loài cây, tại sao đều ngoại tán được?

 

                  Đáp:Trái, nhân, hột chủ thu giáng đó là nói chung, còn phải phối hợp hình sắc khí vị để bàn mới được xác đáng. Thương-nhĩ có gai là thê’ nhẹ xốp, Mạn-kinh vị cay mà khí phát tán, cho nên điều có tính đi lên, cũng là biến cách trong trái hột. Đến như Hoa-tiêu, Quất-hồng khí vị cay ấm, cho nên thăng tán được; nhưng hai thứ ấy giáng khí được; chúng đều là da vỏ cả, cho nên có thêm tính thăng, đến như hạt tiêu, làm dức được mồ hôi tự đỗ ra, hột Quất trị được sán khí, thì thuần đi xuống, mà không thăng phát. Vì đều là quả (trái), lại phân ra da thịt nhân hột, da thịt ở ngoài có hình dáng thăng tán, nhân hột ở trong thì chuyên chủ thu giáng, dứt khoát không thăng tán. Vì vậy Khiên-ngưu-tử, Xa-tiền-tử đều giáng lợi. Lệ-tử-hạch (hạt trái vải), Sơn-tra-hạch đều chủ giáng tán, Bạch-khấu-nhân, Tây-sa-nhân vị tuy cay mà xét thấy ấm để giáng khí. Bá-tử-nhân, Toan-táo-nhân tuy có công năng bổ, mà cần yếu là ở chổ nhuận tâm để giáng hoả. Còn như Hạnh-nhân giáng khí, Đào-nhân giáng huyết là rõ ràng rồi.

 

40.     Hỏi:Thân, cộng của cây thuốc ở giữa gốc và ngọn, nơi không thăng không giáng, chủ hoà, nhưng có thứ ưa đi lên, có thứ ưa đi xuống, sao vậy?

 

                  Đáp:Đấy cũng phải xem khí vị nặng nhẹ để nhận định. Nếu hình dáng đã ở chổ giao tiếp trên dưới, mà khí vị hoà bình, thì không thăng không giáng, chuyên chủ hoà; thân cây Hoắc-hương. Thân cây Tử-tô, khí vị hoà bình, cho nên chuyên chủ hoà khí; Hoắc-hương vị ngọt, thì hoà khí của Tỳ-vị; Tử-tô vị cay thì hoà khí của Can-phế. Lên được xuống được, vì đều là thân cộng của cây cỏ. Trúc-nhự có hình tượng gân mạch của chu thân, thì hoà được gân mạch; Tòng-tiết có hình dáng xương đốt của nhân thân, thì hoà được xương đốt; Bạch-thông-thảo có hình dáng màng mỡ của nhân thân, cho nên thông đạt đến màng mỡ, trên thông với sữa, dưới thông với tiểu tiện. Điều là thân cây chủ hoà, lên được xuống được, tuỳ theo ý nghĩa từng loại. Đến như Vĩ-hành (thân cây lau), trong rỗng mà lên thẳng, vị lại nhạt, cho nên thuộc khí phần, chuyên đi lên, sách Kim-quỹ dùng để làm nôn ra mủ trong phế, chính là lấy ý nghĩa thấu đạt thẳng lên trên. Hà-hành (cộng sen) trong rỗng, mà khí vị nhạt, ở đáy nước mà lên khỏi nước, cho nên thăng đạt khí thanh dương. Thông-bạch (cây hành) trong rỗng mà khí vị mạnh, thì vừa lên vừa phát tán, ấy đều là thân cây, khí vị khinh thanh (nhẹ, trong sạch) cho nên đều chủ thăng. Kìa như thân cây Mộc-thông cũng thông suốt, nhưng thuộc loại dây leo, hình dáng khác với thân cây lên thẳng, vị lại đắng, rỉ nước, cho nên chủ hạ giáng mà thông lợi tiểu tiện. Tô-mộc cây gỗ vàng là thân cây, vỏ hồng vị mặn, có hình tượng huyết trong chu thân cho nên chủ hành huyết. Tần-bì là vỏ cây Tần, có hình tượng da của nhân thân, vị đắng giáng được thấp nhiệt, cho nên Trọng-cảnh dùng trị chứng da dẻ phát vàng, Tông-bì lông tơ như dệt, hình tượng mạch lạc của người vị sáp (rít) thu giáng được, cho nên dùng trị thổ huyết (mửa ra máu), nục huyết (chảy máu cam)để làm huyết của mạch lạc đi xuống. Huyết kết, Nhũ-hương nhựa của thân cây, hình tượng máu mủ của nhân thân, cho nên trị các bệnh ghẻ mủ của nhân thân. Đỗ-trọng mềm dẽo, giống gân, màng mỡ chày của người, vỏ tía đen, vị thuần hậu (dễ chịu, không gay gắt) cho nên vào Can-thận để làm mạnh gân cốt. Phàm các loại như thế kể đâu hết được, hoặc thăng hoặc giáng, hoặc bổ hoặc hoà, khí vị hình chất đều khác nhau, nên phân tách tỉ mỉ thì tự nhiên dùng đúng.

 

41.     Hỏi:Bàn về thuốc, chỉ nói cành lá, mà không nói hoa, sao vậy?    

  

                        Đáp:Hoa tức là bao quát trong cành lá, cành lá chủ tán, cho nên tính hoa phần nhiều chủ tán.

 

 

42.     Hỏi:Tại sao hoa Phù-dung không chủ tán mà chủ thu? Tại sao Toàn-phúc-hoa không chủ tán mà chủ giáng?

 

                  Đáp:Đấy cũng phải xem xét hình khí, mà định. Phù-dung chịu khí thu kim, mà chất lại dính khô, cho nên thu liễm được, là thứ thuốc hay cho mụt ghẻ. Toàn-phúc-hoa thấm sương mà sinh, hoa lại hơi mặn, cho nên chủ nhuận lợi khử đàm. Kìa như Tỳ-bà-diệp lợi được, Hoè-chi (cành Hoè) thanh được đều tuỳ theo khí vị mà dùng khác nhau một cách ngẫu nhiên chứ không phải bản tính của cành lá. Cho nên phần nhiều hoa tán được là ở đầu mắt. Đầu mắt ở trên, mà hoa ở trên ngọn cây, khí rất nhẹ đi lên, cho nên phần nhiều vào đầu mắt, để tán tà. Hoa-cam-cúckhí thơm vị bình (mùi bình hoà), tán phong tà ở đầu mắt, Hoa-kim-ngân tán phong nhiệt ở đầu mắt của kinh Dương-minh. Hoa-tân-di tán được phong hàn ở trong não, mũi. Hoa-mật-mông tán phong tà trong mắt. Nhìn chung, hoa ở trên ngọn, cho nên đi lên đầu mắt; như lá ở bốn phía thì chủ tứ tán, cho nên khử phong hàn trong chu thân da thịt. Lá-tre thanh được nhiệt của cơ nhục, Trúc-diệp-thạch-cao thang của Trọng-cảnh, chính là dùng tính tán của lá tre. Lá Cúc là thuốc chủ yếu trị ghẻ lở, cũng vì tính tán, khử phong tà trong cơ nhục. Lá Hy-thiêm cũng vậy, nhưng lá Cúc nhỏ mà nhọn phân thuỳ, cho nên chủ tán sang (hết ghẻ lở). Lá Hy-thiêm lớn có lông, tính trọng yếu ở lá, chuyên tán phong khí, cho nên xưa có cao-hy-thiêm, chủ khử phong ở chu thân. Lá Sen tán được nhiệt ở da dẻ. Lá Đào tán được nóng lạnh ở huyết phần. Lá Tía-tô tán được nóng lạnh ở khí phần. Vì lá của cây cỏ phần nhiều được phong khí, cho nên phần nhiều chủ tán, sách Chu-nghĩa nói: phong dùng để tán. Lá lớn có góc, có móc, như Bát-giác-phong, Thương-nhĩ-diệp, Tuần-cốt-phong đều lá lớn mà có góc có gai, đều chủ tán phong. Phàm cành phần nhiều đi ngang cho nên chủ tứ tán, và đạt đến chân tay. Cành của Tía-tô, tán khí kết ở gân hông. Quế-chi đi đến chân tay. Cành Dâu, cành Đào, cành Hoè đều đi đến chân tay, theo hình tượng đi ngang ra bốn phía.

 

 

43.     Hỏi:Dùng thuốc có dùng rễ, dùng mầm, dùng đầu dùng đuôi, dùng đốt dùng mộng, dùng gai, dùng vỏ, dùng tim, dùng chất nước, dùng gân dùng, tép múi, dùng không giống nhau, xin nói cho rõ?

 

                  Đáp:Đấy không có ý gì khác, chỉ dùng chổ chuyên chú của sức thuốc, để cho tương đắt với bệnh mà thôi. Ví như Ma-hoàng phải dùng mầm, là vì mầm nhỏ dài trong rỗng, giống như lông ở lổ chân lông, mà khí lại nhẹ bốc lên, cho nên phát hãn được, chạy thẳng đến da lông. Cũng có lúc dùng rễ Ma-hoàng, là vì rễ cứng chắc mà vị chát, cho nên chỉ hãn. Mầm rỗng thì thông, rễ chắc thì nghẹt, không thông. Cũng là lý âm dương thông nghẹt thay đổi lẫn nhau. Thường-sơn dùng mầm, là vì lên thấu cơ hoành để dẫn đờm đi lên đi ra. Thương-lục dùng rễ, là vì vào thấu trong cơ hoành, để dẫn nước đi xuống. Dùng mầm thì lên, dùng rễ thì xuống, lên xuống dùng khác nhau, cũng đều theo loại. Đương-qui dùng đầu dùng đuôi có chổ khác biệt, tính của đầu đi lên, cho nên chủ sinh huyết; tính của đuôi đi xuống, cho nên chủ hành huyết. Địa-du có dùng đầu đuôi khác nhau, khí vị ở đầu đậm cho nên hành huyết mạnh, dược vị ở đuôi nhạt, cho nên lực hành huyết nhẹ. Dùng đốt như Tòng-tiết để trị xương đốt của người. Ngưu-tất đốt giống như đầu gối, lợi được đầu gối ống chân, là vì lấy hình giống nhau. Ngó-sen trong rỗng, hành thuỷ được, cho nên dùng để hành huyết, chữa thấp nhiệt ở huyết phần, mà thanh ứ huyết được, cây sen ở trong nước, ngó sen lại tóm kết cực nhỏ, mà ở trong thông được thuỷ khí, dùng trị chứng lâm lậu, rất hay; lâm là lổ nước thông mà không thông; đốt củ sen ở trong nước, không thông mà thông; vả lại cái bao ở ngoài từ tía biến ra hồng được, lại vào huyết phần để trị chứng lâm rất hay. Dùng Mộng, Mầm non, là dùng chổ phát tiết phong tán ra ngoài, như lúa mì vẫn không sơ lợi, mà mọc mầm, thì khí thấu đạt, thông thuỷ cốc để lợi Can khí. Thóc lúa vẫn không hành trệ được; mọc mầm rồi, thì sơ lợi Tỳ thổ, khiến tiêu cơm. Đậu Nàng lên mầm, thí thăng đạt khí của tỳ vị được. Cho nên Thự-dư-hoàn của Trọng-cảnh dùng để bổ tỳ. Xích-tiểu-đậu lên mầm rồi thì thấu đạt được mủ máu, cho nên Trọng-Cảnh dùng Xích-đậu-Đương quy tán để làm vỡ mủ. Dùng gai có hai ý nghĩa: công phá giáng lợi, như gai Bù-kết, Bạch-cức. Hai thứ đó nhọn dài, cho nên chủ công phá. Ví thử gai không nhọn mà cong queo, gai không dài mà nhỏ mềm, thì không phá lợi mà hoà tán, tức phong trị gân được, như gai Câu-đằng, Hồng-mao, Ngũ-gia-bì, Bạch-tật-lê. Vì “móc gai” là thần của phong mộc, vật hấp thụ mà sinh gai, móc, góc, cho nên điều hoà Can mộc được, để tức phong, trị gân. Dùng vỏ có ý nghĩa lấy da trị da, cho nên Vỏ Gừng, vỏ Phục-linh, vỏ Quýt, vỏ cây Dâu, vỏ quả Cau, đều trị được phù thũng. Dùng Tim có ý nghĩa lấy Tim để vào Tim, cho nên Quế-tâm để làm ấm Tâm khí, Phục-thần dùng để an Tâm thần. Liên-tử-tâm dùng để thanh Tâm hoả. Trúc-diệp-tâm cũng thanh Tâm hoả được. Đấy là lấy ý nghĩa của Tâm vào Tâm. Dùng chất nước, là hoặc dùng theo hình tượng chất nước trong con người Nước-cốt-gừng, Trúc-lịch để khử đờm ẩm, trị theo chất nước, hoặc là lấy hình tượng huyết dịch trong thân thể, như nước Ngó-sen, Nhựa-đào để thanh ứ huyết, trị theo huyết dịch. Dùng gân như Tục-đoạn nhiều gân, cho nên hàn gắn vết thương nhẹ. Tần-giao thịt rối, sớ hai bên vấn vít vào nhau, cho nên trị phong ở hai bên, chứng gân mạch đau nhức. Đỗ-trọng trong có màng, gân xương trong thân thể liền với gân, gân liền với màng; màng gân của Đỗ-trọng nới ra được co rút được, rất bền dẻo, cho nên làm cứng gân cốt của người được. Trúc-nhự giống như gân mạch, thì thanh nhiệt của mạch lạc để hoà huyết. Quất-lạc, Qua-lâu đều trị được khí kết trong ngực, màng ngực, lấy sơ của Quýt, màng của Qua-lâu, giống với chẽn dừng trong ngực, cho nên trị được. Quât-bì (vỏ quýt), Phúc-bì (vỏ quả Cau to bụng) hình tròn sắc vàng, giống hình bụng người, cho nên hai thứ đó lại trị khí của đại phúc, đều lấy theo hình tượng. Các vật không giống nhau, khí vị lại khác biệt, cho nên vào Tạng-phủ để chủ cũng khác nhau, khó nêu lên hết các thứ thuốc, nên nhận xét chung vậy.

  

44.     Hỏi:Trọng-cảnh dùng thuốc có 10 cái, 3 cây, 5 cành các phép, tựa hồ lấy số, cũng có lý. Trong Bản-thảo cũng có lấy số đặt tên, như Tam-thất, Tam-lăng, Bát-giác-hồi, Lục-thần-khúc, Ngũ-gia-bì, Lưỡng-đầu-tiêm. Đã lấy số đặt tên, có lấy số để trị không?

 

                  Đáp:Các vật trong trời đất, không ngoài hai thứ khí số. Sự thật số do khí sinh ra; khí nhiều thì số nhiều, khí ít thì số ít, được khí trước thì số ở trước, được khí sau thì số ở sau. Cho nên thuỷ sinh số 1 ở trời, hoả sinh số 2 ở đất; được khí dương thì số lẻ được khí âm thì số chẵn. Cho nên số ngũ hành trong hà đồ, lần lược sinh thành; xem số có thể lường được khí. Đến như dùng thuốc 10 cái, 3 cây, 5 cành chẳng qua là dùng lượng thuốc nhiều ít, để làm một tể. Chẳng phải lấy số đó mà nắm được quyền tạo hoá. Nếu trời đất sinh thành mà có số đó, như Tam-lăng, Tam-thất, Bát-giác-hồi-hương, Ngũ-gia-bì…..lại vì chịu khí âm dương để thành số chẳng lẻ. Bàn về thuốc, có thể lấy số chẵn lẻ, để xét định âm dương, chẳng phải số trị bệnh được. Thật ra, vì số mà biết được chổ chủ trị của thuốc. Lá-tam-thất, không ba thì bảy, số không sai, vì chịu mộc khí, cho nên được số 3; chịu hoả khí, cho nên được số 7; phù hợp với số của mộc, hoả trong hà đồ. Tạng Mộc, Hoả thuộc Can và Tâm, chủ quản huyết dịch trongthân thể. Lá Tam-thất xanh, mà có gân hồng, cũng là sắc của Mộc,Hoả, cho nên rễ hoá ứ hành huyết được; chỉ làm cho trọn vẹn việc Tâm hoả sinh huyết, Can mộc thống huyết mà thôi. Biết được ý nghĩa tên Tam-thất thì đã biết được tính. Tam-lăng sắc trắng, đắng ấm hành khí; các sách đều dùng để phá khí trong huyết, là vì mầm,lá và rễ đều có hình dáng 3 cạnh, 3 là mộc số, cho nên vào huyết phần ở Can được; sắc trắng thuộc khí, vị đắng ấm, chủ hành khí, cho nên phá khí được, là thứ thuốc hành khí trong huyết. Bát-giác-hồi khí ấm, được khí của mộc, 8 là số của mộc; ôn trung được, cũng là lấy mộc sơ thổ; Mộc tà lui mà thổ được bổ ích, là thứ thuốc bổ thổ ôn Can. Thầy thuốc ngày nay, tất thêm món này, đã thơm lại ấm, hợp với khí của dạ dày (vị khí). Lục-thần-khúc màu sắc tổng hợp của các thứ thuốc; hợp sáu thứ thuốc ủ cho nát để làm thần khúc. Theo ý nghĩa Thổ hoá vật được, Thổ vượng ở bốn phương, mà bốn phương lại qui về thổ ở giữa, cho nên sáu thứ thuốc ủ nát mà thành men, công năng chuyên vào Tỳ vị, tiêu hoá cơm nước, Lưỡng-đầu-tiên là cức chuột đực; tính chuột hay đào hang, đào vách, mà cức lại nhọn hai đầu, biết là có tính công lợi, cho nên chủ công phá (đánh phá). Đó đều là lấy số để biết rõ khí, mà việc chủ trị tự nhiên không sai. Lại như vị thuốc Nhân-sâm, Trương-cảnh-nhạc cho là dương dược, Trần-tu-viên cho là âm dược. Gọi dương dược là lấy chỗ ích khí; gọi âm dược là lấy chổsinh tân. Hai người bàn khác nhau, đều vì chưa theo khí và số của Nhân-sâm, hợp lại để xét định. Bạn tôi Diên-thứ-ngô đã đến Liêu-đông, thấy trồng Nhân-sâm đều ở trong rừng sâu, chổ ẩm ướt, thì biết là chịu khí của âm thuỷ sinh ra. Nhưng lúc sinh, thân có 3 nhánh, lá có 5 lá chét. Ba năm là số dương. Lấy khí và số hợp lại để bàn, thì biết Nhân-sâm sinh ở âm, thành ở dương. Vì ẩm ướt, rừng sâu là âm, sinh ra Nhân-sâm, thành số ba năm là dương. Khí của thân thể là dương, ở trong thận thuỷ sinh ra, từ âm sinh ra dươngm đối với Nhân-sâm dinh nơi âm mà thành ra dương, không có gì khác nhau, cho nên Sâm là thuốc thánh để bổ khí hoá tân (hoá chất tân dịch). Xem số thì biết khí, thấy được bản tính của Nhân-sâm. Còn như nói sắc trắng vào phế, vị ngọt vào tỳ, ít đắng thì sinh tân, ít ấm thì ích khí, là cách nói càng nông cạn.

 

 

45.     Hỏi:Thần-nông lấy Bản-thảo đặt tên kinh, mà trong đó đề cập đến nhiều loài kim, loài đá, lần lần đến cầm thú, côn trùng, sao vậy?

 

                  Đáp:Bản-thảo kể rất nhiều loài thảo mộc, cho nên lấy đó làm chủ danh. Nhưng thảo mộc tuy đủ ngũ hành, mà khí Giáp-At (âm-dương) so với ngũ tạng lục phủ của người, phần nhiều chưa phù hợp trọn vẹn với khí hoá, cho nên lại nhờ đến kim thạch côn trùng, huyết nhục loài cầm thú, rất giống với huyết nhục của người, cho nên phần nhiều tư bổ. So với thảo mộc thì côn trùng, kim thạch rất kiến hiệu. Cỏ cây là thực vật, sâu bọ là động vật. Sức công lợi (công=đánh, phá, chống. Lợi=có ích), lợi đại tiểu tiện của động vật rất nhiều hơn thực vật, vì tính của động vật đẻ được, mà lại có tính chống đối; so với thực vật không đi được, thì sức công phá rất mạnh. Mai Rùa công phá Can khí, khử trưng hà. Xuyên-sơn-giáp tính đục núi đuợc, ở trong đất ra, cho nên phá được mụt mủ, lại cũng làm tan được tích tụ cứng. Con Đĩa nhọn bén giỏi chích, lại hút máu được, cho nên chủ về phá huyết tích, Manh-trùng bay mà hút máu, cho nên chủ về hành huyết trên dưới. Nhưng động vật đều là đồ huyết nhục, phần nhiều vào huyết phần, cho nên các thứ thuốc trên đây đều chủ công phá huyết. Chỉ có Vảy-tê-tê được tính là của kim thuỷ còn gồm cả công phá khí phần: Động thực vật, tính đều không trấn tĩnh. Chỉ có Kim-thạch tính vẫn trấn tỉnh, cho nên an hồn phách, định tinh thần, điền, tắc, trấn, giáng thì nên lấy Kim-thạch làm chủ yếu. Kim-bạc trấn được tâm thần; Tâm thần phù động, nhờ phế khí để thu liễm, cho nên Nội-kinh nói: Phế là cơ quan tướng phó, để phụ giúp cho tâm quân. Hoàng-kim (vàng) lấy khí ở phế kim, để trấn tĩnh tâm thần, cũng chẳng khác gì tướng trấn tĩnh an ủi vua. Châu-sa trấn bổ tâm thần, đi thẳng vào tâm, để trấn bổ, Long-cốt nặng, đè nén được dương khí, cho nên cũng trấn tâm thần được. Bạch-ngân (bạc) định kinh phong được; trẻ con kinh phong, đàn bà có con động thai, dùng nhiều, đó là tẩy phế kim bình can mộc, lấy sức nặng trấn áp sự phù động. Vậy: Xích-thạch-chỉ, Vũ-dư-lương, là đất trong đá, lại có tính chát, cho nên dùng để bồi đắp ở ruột dạ dày. Đồng là chất nước trong đá, màu đỏ giống như huyết cho nên vào được huyết phần, tính nấu chảy ngưng cứng được, cho nên tiếp nối gân cốt được, là thứ thuốc tiếp nối xương khi vấp té đánh đập. Tự nhiên đồng có lửa tự chảy ra, vào huyết phần chảy ra tiếp cốt, thật là vật lạ kỳ, cỏ cây sâu bọ không thể bì kịp mấy thứ ấy được. Đến như huyết nhục của cầm thú, đối với người không khác, phần nhiều bổ ích được. Thịt Heo tính bình, thì ăn thường, công năng làm trơn nhuận, chuyên chủ vào tư táo. Thịt bò tính ấm thì bổ tỳvị được. Vịt được tính của kim thuỷk, thì thịt tư phế được. Gà thì được tính của mộc hoả, thì thịt ôn can được. Thịt dê hôi mùi dê mà ôn can, gan dê rất dễ vào can, để tán khí kết, gan heo cũng vậy, so với gan dê tính rất bình, vì heo thuộc thuỷ, lấy thuỷ sinh mộc, cho nên trị được bệnh mắt. Cật heo vào thận; tuỷ xương sống vào tuỷ, đều là theo loại. Màng mỡ chai heo, giống màng mỡ của người, mà mỡ ở cột sống thuộc thứ mỡ rất nhuần trơn, lại vào màng mỡ, dùng để dẫn đường, trị được bệnh trong màng mỡ, và trị bệnh cách thực (hông ngực tắc trở, ăn uống không xuống), ruột khô. Trư-cao-phát-tiên của Trọng-cảnh, trị phân táo, tức là ý ấy. Da heo là da cổ heo, Trọng-cảnh dùng trị cổ họng đau, cũng lấy ý nghĩa dẫn vào cổ. Loài thú linh dị, không có con nào bằng Hươu nai. Đêm ngủ đầu quay về đuôi, thông được mạch đốc. Đốc là mạch của thận, chủ mạch của nhất dương trong quẻ khảm. Sinh nai ở phương bắc, được khí nhất dương của quẻ khảm, cho nên đốc mạch vượng, mà cột sống và não tuỷ rất đầy đủ, để phát lên trên sinh ra sừng. Mỗi năm thay sừng một lần, sừng mới mọc là lộc nhung, tinh khí của nhung rất đầy đủ, là một thánh dược để bổ tuỷ cường tinh, tráng dương ích huyết; nhưng tính đi lên, hễ có huyết nghịch, hoả nghịch thì không nên dùng; chỉ có huyết hư, hoả nhược, dương yếu, khí không lên, mới thích hợp. Bào thai của con nai là nguyên khí hoàn toàn, vào hạ tiêu mà không đi lên, để sinh con bổ thận, bổ bào cung là rất hay. Tính Rùa là nằm núp, mà tính ở tại mai rùa thông được nhâm mạch. Nhâm là hào âm trong quẻ Ly, dưới giao với đốc, hợp làm hình tượng ký tế. Cho nên cao Quy-bản ích âm để tư tâm thận (tư là thấm nhuần). Thật là một vị thuốc ngang hàng với lộc nhung (sừng non con nai). Hổ cốt có sức mạnh, cho nên mạnh gân khoẻ xương. Cọp gầm nổi gió, gió theo cọp, cho nên cao hổ cốt là thuốc trị trúng phong, phong đau nhức. Có nhiều loài thú ăn thịt được, và công hiệu rất lớn, các thứ kim thạch cầm thú đó giúp được chổ mà cỏ cây không bì kịp, cho nên Bản-thảo dùng thêm mấy thứ đó.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 6 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: thảo

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Đăng nhập thành viên

Thăm dò ý kiến

Bạn có nhận xét gì về phiên bản website mới của chúng tôi?

Tốt

Khá

Trung Bình

Kém

Logo Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa
Logo Cơm Chay Dưỡng Sinh Liên Hoa
Các món ăn Liên Hoa quán