05:03 ICT Thứ năm, 12/06/2025

Danh mục nội dung

Liên hệ

Trang nhất » Tin Tức » Bệnh học » XEM THEO HỆ » BỆNH HỆ HỌNG

Liên hệ

BỆNH VỀ HỌNG

Thứ bảy - 18/06/2011 09:58
Họng mũi: hình hộp 6 mặt, mặt dưới thông với họng miệng nên còn gọi là vòm mũi – họng. Mặt trước của lỗ mũi sau, mặt trên là nóc vòm có tổ chức sùi vòm, gọi là V.A.

BỆNH VỀ HỌNG

 

 咽 喉  病

Đại cương

 

Theo giải phẫu học, họng là ngã tư đường ăn và đường thở, nối liền mũi với thanh quản và miệng với thực quản.. Thiên ‘Ưu Khuể Vô Ngôn’ (Linh Khu 69) ghi: “Họng (yết) là đường của thức ăn, uống, hầu là chỗ của khí đi lên, xuống; Hội yểm là cửa của tiếng nói…”. Điều này cho thấy người xưa nhận định về yết hầu rất chính xác.

 

Họng được chia làm ba phần:

 

a- Họng mũi: hình hộp 6 mặt, mặt dưới thông với họng miệng nên còn gọi là vòm mũi – họng. Mặt trước của lỗ mũi sau, mặt trên là nóc vòm có tổ chức sùi vòm, gọi là V.A. hai bên có loa vòi Eustachi.

 

b- Họng miệng: Phía trên thông với họng mũi, phía dưới thông với hạ họng.

. Mặt trước thông với khoang miệng, được phân định bởi màng hầu, lưỡi gà, hai trụ trước amidal và nền lưỡi.

. Mặt sau dính liền với mặt sau của họng mũi.

. Hai mặt bên có amidal.

 

c- Hạ họng hoặc họng thanh quản: giống như một cái phễu đi từ họng miệng đến miệng thực quản.

 

Công năng của họng

 

+ Nuốt: Khi thức ăn được đẩy từ miệng vào họng, họng miệng và họng thanh quản được kéo lên để hứng thức ăn, các cơ khít họng giữa và dưới co lại để đẩy thức ăn xuống thực quản. Trong khi đó, màn hầu kéo lên, hai trụ sau khép lại để chận thức ăn không cho lên mũi, thanh thiệt hạ xuống đẩy thanh quản để ngăn không cho thức ăn vào đường thở.

+ Thở: Khi màn hầu buông thõng xuống, không khí đi qua họng – mũi, lên mũi. Khi màn hầu kéo lên ngăn họng mũi lại thì không khí sẽ đi qua họng miệng.

+ Nói: Họng được coi như một hộp cộng hưởng trong khi phát âm. Họng kết hợp cùng miệng, mũi tạo thành âm thanh, tiếng nói. Màn hầu có vai trò khá quan trọng trong việc cấu thành các phụ âm vang.

 

Họng Và Tạng Phủ

 

Theo YHCT, Họng có liên hệ đối với các tạng phủ:

+ Họng với tạng Phế: Họng là cửa ngõ ra vào của Phế khí. Sách ‘Trọng Lâu Ngọc Thược’ viết: “Khiếu ở họng chủ khí xuất nhập, hô hấp, là hệ của Phế, là cửa ngõ thông khí của Phế vậy”. Do đó, nếu Phế khí bệnh hoặc Phế bị ngoài tà gây tổn thương làm cho Phế mất chức năng điều hoà thì gây nên bệnh ở họng: khó thở, họng khô, khan tiếng…

+ Họng với Tỳ Vị: Tỳ và Vị có quan hệ biểu lý. Họng là cửa ngõ đưa thức ăn vào. Sách ‘Trọng Lâu Ngọc Thược’ ghi: “Họng chủ thông lợi thuỷ cốc, là nơi thông của Vị khí vậy”. Tỳ Vị là bể của thuỷ cốc, có tác dụng thu nạp, nung nấu và chuyển hoá tinh tuý của thức ăn. Nếu Tỳ Vị bị bệnh hoặc ăn uống quá độ, uống nhiều rượu, bên trong bị nung đốt, hoá thành thấp nhiệt, thấp nhiệt nung đốt họng làm cho họng bị đỏ, sưng, đau, nuốt khó.

+ Họng với tạng Can: Kinh mạch của Can đi phía sau họng, lên trên, nhập vào trán (vùng của mũi họng). Tính của Can thích điều đạt, ghét uất ức. Nếu vì lo nghĩ, giận dữ, thất tình uất kết, làm cho Can khí không thông, khí uất ngưng trệ, tụ lại ở họng gây nên chứng mai hạch khí, có cảm giác như có vật gì vướng ở cổ, nuốt khó, khạc không ra.

+ Họng với tạng Thận:  Thận là gốc của tiên thiên, có tác dụng tàng tinh. Đường kinh Thận đi ngang qua cổ, kết ở gốc lưỡi, lên đến dưới lưỡi, vì vậy, Thận bị suy thì họng không được nuôi dưỡng, hư hoả bốc lên gây nên họng khô, tiếng nói yếu.

 

Họng Và Kinh Lạc

 

Mười hai đường kinh, trừ kinh Tâm bào và Bàng quang không vận hành qua phía ngoài họng, còn lại các kinh khác đều có nhánh thông đến họng, miệng, răng, môi, lưỡi.

. Kinh thủ Thái âm Phế thông với khí quản, họng.

. Kinh thủ Dương minh Đại trường lên khuyết bồn, qua gáy lên má, vào giữa răng trên…

. Kinh túc Dương minh Vị khởi ở vùng má mũi, đi xuống phía ngoài, vào giữa răng trên, vòng ra môi, nhánhcủa nó nhập vào huyệt Đại nghênh ở phía trước và dưới huyệt Nhân nghênh, đi qua cổ, vào khuyết bồn.

. Kinh túc Thái âm Tỳ: từ chân đi lên ngực, gần họng, đến cuống lưỡi, tán ra ở dưới lưỡi.

. Kinh thủ Thiếu âm Tâm: từ tay đi lên, có nhánh nhập vào tâm bộ, đi lên giáp họng…

. Kinh thủ Thái dương Tiểu trường: từ ngón tay út lên cánh tay, lên nhập vào khuyết bồn, lạc với Tâm, lên họng, xuống hoành cách mô…

. Kinh túc Thiếu âm Thận: bắt đầu từ lòng bàn chân, lên nhập vào Thận, đi lên vùng gan, hoành cách mô, vào trong phổi, đi ven họng, lên giáp cuống lưỡi…

. Kinh thủ Thiếu dương Tam tiêu: Từ gốc móng ngón tay áp út, lên, nhập vào giữa ngực, lên trên xuất ra ở khuyết bồn, lên gáy, vào sau tai, vòng quanh tai đén góc trên tai, vòng xuống mặt và trở lên kết ở bờ dưới ổ mắt. Một nhánh từ sau tai vào trong tai, ra trước tai, qua trước huyệt Thượng quan, vòng xuống góc hàm dưới, kết ở phía ngoài đuôi mắt.

. Kinh túc Thiếu dương Đởm: Khởi từ ngón chân áp út, lên phía sau tai, vào trong tai, ra trước tai, đến sau góc ngoài mắt. Một nhánh từ đuôi mắt xuống hàm dưới, giao hội với kinh Tam tiêu, lên hố dưới mắt, có nhánh vòng qua góc hàm, xuống cổ, nhập vào khuyết bồn…

. Kinh túc Quyết âm Can: Bắt đầu từ ngón chân cái, lên cơ hoành, phân nhánh vào ngực, đi lên họng, xuất ra ở mặt, liên hệ với mắt… Từ mắt phân một nhánh xuống mặt, vòng vào trong môi...

          Các trích dẫn trên cho thấy mười đường kinh mạch vận hành qua họng, miệng, răng, môi, lưỡi… Khi các vùng trên bệnh, thường do kinh mạch và các tạng phủ có liên hệ bị rối loạn gây nên, dựa vào đó có thể biết được rối loạn bệnh lý ở họng.

 

Nguyên Nhân Gây Bệnh

 

+ Ngoại nhân: Do lục dâm, ôn nhiệt, dịch lệ xâm nhập qua da hoặc qua mũi, họng.

+ Nội nhân:

. Do thích ăn những thức ăn  chiên xào, nướng, cay, nóng, hút thuốc, uống rượu… làm cho hoả nhiệt tích lại bên trong gây nên bệnh.

. Thường do chức năng của Phế, Tỳ, Can và Thận không điều hoà, âm hư, thuỷ kém làm cho hư hoả bốc lên nung đốt họng gây nên bệnh.

Đa số gặp ở trường hợp 1 và 2: do ngoại cảm và ăn uống gây nên, còn yếu tố thứ ba gặp sau những khi bị bệnh, âm khí bị tổn thương, tân dịch sút kém.

 

Chẩn Đoán Bệnh Ở Họng

 

Thường cũng phải dùng tứ chẩn kết hợp với triệu chứng toàn thân để luận trị cho phù hợp.

 

a- Dựa vào yếu tố Hàn Nhiệt, Hư Thực:

. Nếu do thực nhiệt thì có sưng lên, mầu đỏ tươi hoặc đỏ thắm, đau. Kèm các chứng về nhiệt như sốt, khát, táo bón, đờm nhiều, hơi thổ hôi, rìa lưỡi và đầu lưỡi đỏ, gữa lưỡi trắng, gốc lưỡi vàng dầy, mạch Huyền, Sác.

. Nếu do hư hàn: Không sưng, nếu có sưng cũng không lan to mà thu gọn lại, mầu trắng nhạt, không tươi, họng đau, lưỡi gà rũ xuống, lưỡi khô, tuy rìa lưỡi và đầu lưỡi đỏ mà rêu trắng trơn, mạch Vi, Tế hoặc Trầm, Nhược, tiêu tiểu bình thường.

          Tóm kết:

- Thuộc thực nhiệt: họng đau nhiều.

- Thuộc hư hư hoả: họng đau vừa.

-  Đau về buổi sáng: do phần khí có hoả.

- Đau về buổi chiều hoặc nửa đêm: phần huyết có nhiệt.

- Thích uống nước là thuộc nhiệt.

- Không khát: thuộc hàn.

- Tiêu tiểu bình thường: do hư hoả bốc lên.

- Táo bón, tiểu không thông: do thực nhiệt ủng tắc bên trong.

 

b- Dựa vào yếu tố khí vị

 

+ Hôi thối, nặng mùi thuộc thực chứng,  nhiệt chứng.

+ Ít có mùi hôi, nếu có cũng nhẹ thoảng: thuộc hư, thuộc hàn.

+ Nước miếng chảy tanh hôi: thường họng bị thực nhiệt, hoả độc (amidal, họng lở loét…).

+ Hơi thở ra hôi thối nhiều: thường do họng bị lở loét.

+ Hơi thở ra nóng, hôi: đa số do Vị bị nhiệt bốc lên. Nếu Phế bị nhiệt nhiều thì thường có một luồng hơi rất thối.

 

c- Dựa vào yếu tố Mủ:

- Trong họng làm mủ, thường gặp ở những chứng nhiệt như chứng nhũ nga (Amidal), hầu ung.

- Dạng hư chứng làm mủ rất ít gặp.

- Nếu chỗ đó sưng nổi cao, sắc đỏ, chung quanh có quầng đỏ mà gọn, sốt 3 – 4  ngày không bớt, thường là đã thành mủ, có thể chích ở giữa  cho mủ vỡ ra.

- Nếu chỗ đó sắc nhạt, sưng không nổi cao nà lan toả, không có giới hạn nhất đinh, không đau nhiều thường không có mủ.

- Nếu đỏ mà không ửng lên, lan man không gọn, chỗ sưng như núm vú nổi lên, đó là nhiệt độc tản mác không tụ lại, nhưng ở trong đã có mủ, có thể chích vào chỗ nổi lên đó để cho mủ vỡ ra.

- Amidal làm mủ chậm hơn. Nếu 4 – 5 ngày mà sốt, đau nhiều, chỗ đau sưng to, mầu đỏ hoặc đỏ tía, quầng đỏ toả ra bốn bên là đã thành mủ rồi.

- Amidal đã loét nát, tuy mầu đỏ, sưng to nhưng tản mác mà không có vành chân là chưa làm mủ.

- Nói chung, sắc mủ vàng đặc mà tươi là tốt, như sạn bẩn, hôi thối là xấu.

 

d- Chẩn đoán lành dữ, tốt xấu của bệnh:

 

+ Những chứng nhiệt, chứng thực như  amidal, ung nhọt thì dựa vào quầng đỏ tươi sáng là tốt, tím xạm, xám đen là xấu. Mắt có thần là lành, mắt không thần là dữ. Mũi nhuận như thường là lành, đen như phủ than lên, cánh mũi phập phồng thường là dấu hiệu xấu.

+ Những chứng môi lưỡi khô xám, lỗ mũi khô mà đen như than khói, mắt lờ đờ, thở mạnh, hơi thở ngắn, họng loét, hôi thối, mồ hôi nhỏ giọt như dầu, hàm răng khó há ra hoặc ngậm lại, tinh thần mỏi mệt, hai mắt trợn ngược, đều là chứng xấu, bệnh phần nhiều là nguy cấp.

+ Những chứng sưng to lên, mầu sắc tươi sáng, thần chí sáng suốt, ăn uống được, đại tiểu tiện thông, sắc mủ vàng đặc, không hôi, miệng ngậm thở tự nhiên, đều là chứng tốt, dự đoán tốt.

 

NGUYÊN TẮC TRỊ BỆNH Ở HỌNG

 

Trị bệnh ở họng, có thể dùng nhiều cách:

+ Thuốc thang: cao, đơn, hoàn, tán.

+ Thuốc thổi, thuốc xông…

+ Châm cứu.

Thuốc thang và Châm cứu,  xem cách dùng trong từng loại bệnh riêng.

Thuốc thổi: là phương pháp dùng các loại thuốc bột thích hợp với bệnh đem thổi vào chỗ đau.

+ Tất cả các chứng bệnh về họng mới phát sưng đỏ, đau, nên dùng thuốc Băng Bằng  Tán (64).

+ Nếu hoả nhiệt nhiều, sưng to, đỏ, nóng, đau, có thể dùng bài Thâm Hoàng Tán ( 80 )  hoặc Băng Bằng Tán (64) thổi vào.

+ Họng sưng nghẹn, muốn nghẹt, khó nuốt xuống. Nên dùng Kim Toả Chuỷ Tán ( 57 ) hoặc Hạ Thị Đại ChuỷTán ( 69) để thổi vào.

+ Sưng đỏ mà khô, không có tân dịch (chứng Hầu tiêu, Hầu lao v. v…) có thể dùng Băng Bằng Tán (64) hợp với Băng Thanh Tán (66) thêm Tây Sương Qua ( 64) để thổi vào.

+ Nhiều đờm dãi ngăn chận họng có thể dùng bột Bạch Giáng Tuyết Tán (63)  thổi vào cho tan đờm.

+ Những bệnh về họng mà trong miệng lở loét, có thể dùng bột Lục Bào Tán (74), Ngọc Tiết Tán (75) để thổi vào.

+ Nếu loét nhiều mà lại sưng (chứng lạn nhũ nga, lạn hầu sa…), có thể dùng bột Băng Hoàng Tán (65), Lạn HầuXuy (73) để thổi vào.

+ Nếu họng lở loét và ra máu: dùng thuốc trên hợp với Tiểu Kế Tán (83)  để thổi vào.

+ Nếu lở loét, chảy máu mà ngứa, dùng chung với KimTáo Tán ( 71 ) thổi vào.

+ Lở loét nặng, có thể dùng Tích Loại Tán ( 82 ) hoặc TânĐịnh Gia Giảm Tích Loại Tán ( 77 ).

+ Nếu thịt thối nát mà thịt mới  không sinh ra thì có thể dùng Đạm Hoàng Tán ( 68 ) hoặc trộn lẫn với BăngThanh Tán ( 64 ), thổi vào.

+ Chứng hầu phong: miệng mím chặt, hàm ngậm cứng, không có cách gì mở ra được, có thể dùng Vị Tự Hiệu XuyTán ( 84 ) hoặc Khai Quan Thần Ứng Tán ( 70), thổi vào lỗ mũi.

+ Chứng bạch hầu mới phát, thổi bột Thanh LươngTán (79).

 

Trên Lâm Sàng có thể gặp một số loại sau:

 

1- Phế hư tổn: do cơ thể vốn suy yếu, bệnh lâu ngày hoặc bị lao tổn làm cho Phế âm suy, tân dịch bất túc, họng không được tư nhuận, âm hư làm cho hư nhiệt nội sinh bốc lên nung đốt họng. Trên lâm sàng thường gặp họng khô, ít tân dịch, họng hơi đỏ, hơi đau, khan tiếng, ho khan, ít đờm, lòng bàn tay bàn chân nóng, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế, Sác.

 

2- Tỳ Vị có thực nhiệt: Tỳ Vị có quan hệ biểu lý,là gốc của hậu thiên. Họng thông lợi thuỷ cốc, thuộc về Vị. Nếu nhiệt tích lại nhiều, từ biểu truyền vào lý, ngưng lại ở Vị hoặc ăn nhiều thức ăn cay, nóng, uống rượu nhiều, làm cho nhiệt tích ở Tỳ Vị, hoả nhiệt bốc lên họng, làm cho họng sưng, đau, sốt cao, phiền nhiệt, khó uống nước, miệng khát thích uống, táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch Sác có lực.

 

3- Can uất khí trệ: Tính của Can thích điều đạt, ghét uất. Nếu suy nghĩ, giận dữ, tinh thần không thoải mái, làm cho Can uất, khí trệ, Can khí uất kết, khí trệ, đờm ngưng, kết ở họng làm cho họng cảm thấy vướng, như có vật gì ngăn nghẹn, nuốt không xuống, khạc không ra, như hột ô mai, hoặc như miếng thịt vướng ở đấy. Nếu do khí trệ, huyết ngưng, mạch lạc bị ngăn trở, đờm trọc đình tụ hoặc có thể gây bướu ở họng.

 

4- Thận suy yếu: Thận là gốc của tiên thiên, tinh của ngũ tạng lục phủ đều đổ về Thận. Nếu Thận vị suy tổn, âm hư  thì họng không được nhu dưỡng gây nên họng khô, tân dịch ít, khát, muốn uống, hoặc trong họng cảm thấy như có dị vật. Nếu âm hư, hoả sẽ bốc lên nung đốt họng làm cho họng sưng đau, họng đỏ, hơi sưng, khan tiếng, tai ù, lưng đau gối mỏi, sốt về chiều, mồ hôi trộm, môi hồng, gò má đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhạt, mạch Tế Sác.

 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin cũ hơn

 

Đăng nhập thành viên

Thăm dò ý kiến

Bạn có nhận xét gì về phiên bản website mới của chúng tôi?

Tốt

Khá

Trung Bình

Kém

Logo Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa
Logo Cơm Chay Dưỡng Sinh Liên Hoa
Các món ăn Liên Hoa quán