Hà thủ ô đỏ.
Hà thủ ô đỏ là một loại dây leo, sống nhiều năm. Thân mọc xoắn vào nhau. Phía ngoài nhẵn, có màu xanh tía. Lá mọc so le, có cuống dài. Phiến là hình tim hẹp, đầu lá nhọn, mép nguyên hoặc hơi lượn sóng. Cả hai mặt xanh, nhẵn. Lá mỏng màu nâu nhạt, ôm sát thân cây. Hoa nhỏ, màu trắng, mọc thành chùm, nhiều nhánh. Bầu hình 3 cạnh, vòi ngắn gồm 3 cái rời nhau. Hà thủ ô mọc hoang ở các tỉnh rừng núi phía bắc nước ta như Phú Thọ, Bắc Giang, lào Cai, Lai Châu, Nghệ An…
Tên vị thuốc này mang chính tên của người đã từng sử dụng thuốc. Chuyện kể rằng: ông Lý An Kỳ, người huyện Nam Hà thuộc Thuận Châu – Trung Quốc, bạn thân của ông Thủ Ô, cũng đã được sử dụng vị thuốc này và cũng đã có tuổi thọ rất cao kể lại: Điền Nhi, thiếu thời là một chàng trai có thể lực yếu ớt, có nước da hơi xanh, người hơi gầy, tóc lại bạc rất sớm. đặc biệt đến tuổi 58 mà ông cũng chẳng hề nghĩ đến chuyện yêu đương. Ông có thú vui với đạo thuật. Hàng ngày, ông thường đi ngao du, vãng cảnh trên núi với các thầy để học đạo. Một hôm nhân lúc uống rượu say, nằm nghỉ bên bờ suối vắng ông ngắm nhìn thăm thẳm vào rừng sâu. Bỗng, thấy hai gốc cây, dây leo cách xa nhau thây 3 thước (thước cổ) cành lá quấn quýt lây nhau, lâu lâu lại rời nhau ra, rồi lại quấn lại với nhau. Thấy vậy hôm sau Điền Nhi đã đào lấy rễ cây này. Quả nhiên ông được một thứ củ tuyệt vời: sắc đỏ vị hơi chát. Ông hỏi một ông già, từ phương xa lại chơi, Người bảo: có lẽ đây là vị thuốc “Thần tiên”, “ trời phú” cho ông đấy, ông dùng thử xem sao! Nghe vậy Điền Nhi đã đem vị thuốc tán thành bột, uống mỗi ngày một đồng cân, chiêu với rượu. Ông uống liền một tuần thì nảy sinh tư tưởng "yêu đương”, uống luôn vài tháng thì khỏe mạnh như người thường. Sau đó ông tăng liều lên 2 đồng cân và uống suốt 1 năm trời. Và quả là thần diệu! Người ông khỏe hơn, da đỏ hồng hào, tóc hết bạc mà vẻ mặt thì trẻ lại. Chỉ trong vòng 10 năm , ông đã sinh được vài cậu con trai. Ông cùng con trai là Điền Tú, tiếp tục uống thứ bột quý đó và thọ tới 160 tuổi. Điền Tú sinh ra ở Thủ Ô. Thủ Ô cũng tiếp tục sử dụng vị thuốc này như cha và ông nội mình, cũng sinh được vài cậu con trai, và cũng thọ tới 130 tuổi. Từ thuở đó vị thuốc được mang tên ông (Thủ Ô) và gắn liền với tên của mảnh đất, nơi ông đã sinh ra: Nam Hà (Hà thủ Ô). Hà Thủ Ô hay Hà Thủ Ô đỏ, vì nó có sắc đỏ, cũng để tránh nhầm với cây Hà Thủ Ô trắng (Streptocaulon juventa) (Lour), Merr, họ Thiên Lý Asclepiadaceae. Hà thủ Ô đỏ, còn gọi là “giao đằng”, là cây dây, ý nói thứ dây này luôn luôn quấn vào nhau, hay “dạ hợp”, dạ là đêm, ý nói ban đêm, chúng quấn lấy nhau. Vị thuốc là rễ hay dây của cây Hà Thủ Ô Polygonum multiflorum Thunb, tên mới, hiện nay: Fallopia multiflora, Họ Rau răm Polygonaceae.
Hà Thủ Ô, phải chế biến mới dùng được: vào mù thu, hoặc mùa xuân người ta thường đào lấy rễ quen gọi là củ. Củ có hình dáng quăn queo, giống củ khoai lang, do đó nó còn có tên: Mần Đăng (khoai lang). Củ thường có khối lượng từ 0,5kg đến vài cân. Năm 1967, trong dịp điều tra dược liệu lần đầu tiên ở Miền Bắc Việt Nam, các nhà khoa học đã đào được một củ Hà Thủ Ô đỏ, rất to, dài gần 1m, nặng gần tới 6 kg ở Mường Khương, Lào Cai. Hà Thủ Ô đỏ, sau khi đào, rửa sạch, có thể bổ nhỏ, phơi khô, bảo quản. Khi sử dụng phải tiến hành chế biến tiếp. Trước hết đem các miếng Hà Thủ Ô ngâm với nước vo gạo (nước gạo, mới vo) từ 12-24 giờ thỉnh thoảng khấy đảo, để loại bớt chất chát. Sau đó rửa sạch, tiếp đó là chế với đậu đen. Có thể lấy nước sắc của đậu đen (1kg Hà Thủ Ô, 100-200g đậu đen). Trước hết đem đậu đen nấu nhừ, vài lần. Gạn lấy nước. Cho nước này vào nấu Hà Thủ Ô. Xếp các miếng Hà Thủ Ô vào nồi, to xuống dưới, nhỏ lên trên, cần đổ ngập nước 2cm, đun nhiều giờ cho đến khi Hà Thủ Ô chín tới lõi. Lấy Hà Thủ Ô ra, bỏ lõi, thái mỏng. Lấy dịch nấu còn lại, tẩm nhiều lần, vừa tẩm vừa phơi, cho đến hết dịch nấu. Cuối cùng phơi thật khô. Cũng có thể chế theo cách đồ. Cứ một lớp Hà Thủ Ô, lại rắc một lớp đậu đen. Cũng xếp Hà Thủ Ô theo nguyên tắc trên, miếng to xuống dưới, miếng nhỏ lên trên. Đồ đến khi miếng Hà Thủ Ô chín tới tận lõi. Sau tiếp tục làm như trên.
Hà Thủ Ô sau chế, có màu nâu tím, thể chất giòn. Nhấm ngậm bùi, hầu như hết vị chat. Và chỉ sau chế, mới có thể dùng làm thuốc uống trong được.
Người ta còn chế Hà Thủ Ô với rượu bằng cách chưng hoặc đồ: 1kg Hà Thủ Ô trộn đều với 0,2 - 0,25 lít rượu trắng. Ủ cho ngấm đều rồi đồ chín, phơi khô. Hoặc đem Hà Thủ Ô, cùng nấu với nước cháo và đậu đen trong 2 giờ, sau tiếp tục đồ 2 giờ nữa. Rồi dùng nước nồi đáy, tẩm phơi đến hết và khô giòn. Trong điều trị người ta còn chế bằng nhiều cách khác nữa, như nấu Hà Thủ Ô với đậu đen và gừng, hoặc Hà Thủ Ô với cam thảo, đậu đen hà thủ ô với thục địa. Việc chế biến các phụ liệu khác nhau như vậy, không ngoài mục đích làm tăng thêm tác dụng bổ huyết, bổ thận của vị thuốc.
Thành phần của Hà Thủ Ô: trong vị thuốc này, nổi bật lên hai nhóm chất:
Nhóm thứ nhất (anthranoid), chiếm tới tỉ lệ 1,7% là những thành phần gây tăng nhu cầu ruột, và làm cho phân bị nát lỏng, có lợi cho trường hợp viêm đại tràng thể nhiệt, phân bị táo bón. Trong các thành phần loại này bao gồm chrysophanol: C15H10O4,, emodin: C15H10O5,rhein: C15H8O6, chrysophanol anthron: C15H12O3, rhapontin: C21H24O9, 2, 3, 5, 4 Tetrahydroxystiben - O-↓ - D - glucosid.
Nhóm thứ hai (tannin), là những thành phần, đưa lại vị chat cho các vị thuốc Đông dược nói chung. Nó có lợi cho các trường hợp viêm đại tràng thể hư hàn, đại tiện nát lỏng, song bất lợi cho các trường hợp viêm đại tràng thể nhiệt, đại tiện táo bón.
Ngoài ra trong vị thuốc còn có các chất đạm (1,1%), chất béo (3,10%), tinh bột (45,2%), chất vô cơ (4,5%), các chất tan trong nước lên tới 26,4%. Một chất khá quan trọng có trong Hà Thủ Ô, đó là hợp chất lexitin, một phosphatid, là sự kết hợp của acid glycerophosphoric với một phân tử cholin và hai phân tử acid béo.
Tác dụng sinh học của Hà Thủ Ô: làm tăng nhu động ruột do các thành phần anthranoid, do đó làm xúc tiến khả năng tiêu hóa của dạ dày và ruột.
Tác dụng nhuận tràngcũng do chính thành phần anthranoid gây ra.
Dịch nước sắc của Hà Thủ Ô đỏ chế, liều 0,35g trên chuột đa cắt bỏ tuyến thượng thận, có khả năng làm tăng tích lũy đường glycogen ở gan lên 6 lần. Tác dụng này chỉ có ở Hà Thủ Ô chế.
Tác dụng bổ thần kinh: do lexitin. Lexitin còn có tác dụng làm cường tim ếch cô lập, giúp tạo hồng cầu tốt hơn.
Nước sắcHà Thủ Ô đỏ có tác dụng ức chế trực khuẩn lao.
Dịch chiết cồnHà Thủ Ô đỏ, tiêm phúc mạc chuột nhắt, xác định LD50 là 5,5g/kg thể trọng. Còn có tác dụng hạ cholesterol đối với chuột cống, liều 1,5g/ml(nước sắc). Hà Thủ Ô đỏ,còn có tác dụng chống oxy hóa.
Những lưu ý khi dùng Hà Thủ Ô: như ta đã biết trong vị thuốc Hà Thủ Ô, có hai thành phần chính: các anthranoid, có tác dụng gây tăng nhu cầu động ruột, và gây tiêu chảy. Thành phần thứ hai là tannin, lại có tác dụng làm se ruột, gây táo bón. Như vậy, hai thành phần này luôn có tác dụng đối lập nhau. Vì thế, để dùng được tốt vị Hà Thủ Ô đỏ, người ta phải chú ý đến chế biến vị thuốc này, loại hết phần tannin, để không bị táo bón, bằng cách ngâm với nước vo gạo, và chế biến với các phụ liệu nói trên. Nếu việc chế biến không đạt yêu cầu, sẽ xảy ra hiện tượng vừa bị táo, lại vừa lỏng phân. Và dĩ nhiên, kết quả điều trị sẽ không đạt yêu cầu.
Công năng - chủ trị: theo y hoc cổ truyền, Hà Thủ Ô có vị đắng, chat, ính ấm, quy vào hai kinh: can, thận.
Với công năng: bổ can thận, bổ khí huyết. Được dùng trong các trong các trường hợp can thận, âm hư, gây đau lưng, mỏi gối, yếu gân cốt, di tinh, liệt dương; phụ nữ khí hư bạch đới, kinh nguyệt không đều. Các trường hợp da xanh, thiếu máu, gầy còm, đại tiện táo kết, tiêu hóa kém. Nhìn chung, Hà Thủ Ô đỏ là vị thuốc bổ huyết, bổ can thận. Do vậy,những người tóc bạc sớm cholesterol tăng, dùng rất tốt. Do tính chất đặc biệt là khả năng tăng tích lũy glycogen trong gan, nên Hà Thủ Ô dùng tốt cho các bệnh nhân tiểu đường và tăng mỡ máu và nhất là những trường hợp vừa tăng đường huyết, vừa tăng cholesterol, là một bệnh khá phổ biến hiện nay, không những trên thế giới mà ngay cả ở nước ta. Qua đây, ta càng thấy rõ, tuổi thọ vượt quá 3 chữ số của gia tộc cụ Hà Thủ Ô, tuy là câu chuyện thiên nhiều về tính “truyền thuyết”, song phần nào cũng có cơ sở để phán ánh được bản chất của vị thuốc quý giá này.
Tác giả bài viết: GS.TS.Phạm Xuân Sinh Thầy thuốc Việt Nam số 8 (4/2007)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn