9. VIÊM NHIẾP HỘ TUYẾN-BÍ TIỂU
(Prostatitis-Uroschesis)
Theo giải phẫu học, nhiếp hộ tuyến hay tuyến tiền liệt (prostate gland) là một tuyến sinh dục phụ của nam giới, bọc quanh niệu đạo như một chiếc vòng, nằm ngay dưới bàng quang và ống dẫn tinh. Chức năng của nhiếp hộ tuyến là trong khi phóng tinh, nó tiết ra 1 dung dịch kiềm tạo thành 1 phần tinh dịch.
Nhiếp hộ tuyến có thể sưng trướng khi bước vào tuổi từ 50 trở lên, càng về già tỉ lệ sưng nhiếp hộ tuyến càng tăng. Một khi sưng lớn, nhiếp hộ tuyến làm tắc cổ bàng quang và làm suy yếu việc bài tiết nước tiểu. Điều này còn gây ảnh hưởng tới thận, làm suy thận vì bàng quang bị căng ra, áp suất gia tăng truyền qua niệu quản đến các nephron trong thận gây tổn hại dây chuyền.
Y học hiện đại chẩn đoán viêm hay sưng nhiếp hộ tuyến bằng cách đo độ tăng sản của nhiếp hộ tuyến lành tính (begin prostatic hyperplasia-BPH). Sở dĩ gọi viêm nhiếp hộ tuyến lành tính là nhằm phân biệt với bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến (prostatic cancer). Với phương pháp thử máu, các nhà chuyên môn dựa vào yếu tố kháng nguyên đặc thù nhiếp hộ tuyến (Prostate-specific antigen-PSA) có thể biết được mức phát triển, viêm hay sưng. Một người có nhiếp hộ tuyến bình thường, trị số PSA thường nhỏ hơn 4 nanograms trên 1 milliliter (>4ng/ml), nếu trị số PSA trên 10 ng/ml coi như mắc bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến (xin xem chi tiết trong Quyển 2, mục “Ung thư nhiếp hộ tuyến”).
Nguyên nhân:
- Khoảng 80% trường hợp viêm nhiếp hộ tuyến là do nhiễm trùng bởi vi khuẩn Escherechia coli. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số tên vi khuẩn thường gặp gồm: Klebsiella, Enterobacter, Proteus, Pseudomonas, Streptococcus hoặcStaphylococcus.
- Những vi khuẩn này có khả năng theo đường máu xâm nhập vào nhiếp hộ tuyến, cũng có thể theo ngã ống dẫn tiểu bị nhiễm trùng tiến lên hoặc từ dưới trực tràng theo đường mạch bạch huyết đi ngược lên bàng quang rồi từ đây theo niệu quản đổ xuống nhiếp hộ tuyến.
- Trường hợp lây nhiễm do gaio hợp với người bệnh được xem là hiếm với tỉ lệ rất thấp, khoảng 1-1.5%. Viêm nhiếp hộ tuyến mãn tính phần lớn là hậu quả do vi khuẩn xâm nhập từ ống tiểu (urethra).
Triệu chứng:
Nếu là cấp tính:
- Khởi đầu bằng cơn sốt xen lẫn với cơn rét run.
- Đau vùng dưới thắt lưng, đau nhức cơ, đau vùng đáy chậu, đau khớp.
- Tiểu liên miên, đi tiểu rất gấp, tiểu khó, bắt đi tiểu đêm.
- Bế tắc đường tiểu là hiện tượng rất phổ biến.
- Nước tiểu thường có màu trắng đục như sữa.
- Khám, sờ nắn trực tràng, sẽ thấy sượng cứng, song và nóng.
Nếu là mãn tính:
- Lắm trường hợp không có gì đặc biệt.
- Cần chú ý đến những triệu chứng nêu ở phần cấp tính để chẩn đoán.
- Chú ý các dấu hiệu: Xuất tinh thấy đau, tinh dịch có máu, yếu sinh lý.
Điều trị bằng Đông y:
Đông y không có mục dẫn giải chuyên biệt về bí tiểu hoặc tiểu khó do viêm, sưng hay do u tuyến tiền liệt như Y học hiện đại. Phần lớn các y văn cổ truyền dựa theo chứng mà đặt tên. Ví dụ, đi tiểu khó khăn, tiểu nhỏ giọt, tiểu sót thì đặt tên là “tiểu tiện không gọn bãi”; còn tiểu tiện sáp trệ, bí tiểu (lung bế) thì gọi là “tiểu tiện không lợi” (sách Trung Quốc đương đại danh Trung Y bí nghiệm phương lâm chứng bị yếu). Do đó, việc đối chiếu bệnh danh giữa Y học cổ truyền với Y học hiện đại chỉ có thể dựa vào chứng và mạch để xác định bệnh lý.
Sau đây là một số bài thuốc kinh nghiệm của Trung Y trị viêm nhiếp hộ tuyến kèm bí tiểu:
Bài 1: Bí tiểu cấp tính do viêm tuyến tiền liệt kèm u tuyến tiền liệt.
- Biến chứng Đông y: Huyết kết hạ tiêu, thấp nhiệt ứ trở, thủy đạo bất thông.
- Pháp trị: Phá huyết trục ứ, lý khí thông phủ.
- Bài thuốc: “Đào nhân thừa khí thang” hiệp “Đế đương thang gia vị”.
- Công thức:
Đào nhân 15g
Đại hoàng 15g
Mang tiêu 10g
Nhục quế 05g
Cam thảo 03g
Thủy diệt (con đỉa) 06g
Manh trùng 06g
Tam lăng 15g
Nga truật 15g
Vương bất lưu hành 15g
Ngưu tất 10g
Xa tiền tử 30g
Cù mạch 30g
Lệ chi hạch 15g
Quất hạch 15g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Trần Văn Dũng, 30 tuổi, bị ốm hơn 1 tháng, đi tiểu vặt, tiểu gấp, tiểu đau và nhỏ giọt, thậm cjis đi đương cũng són ra quần. Đã được một bệnh viện khám chẩn đoán bị viêm tuyến tiền liệt, cho dùng thuốc kháng sinh như vô hiệu, bệnh tình ngày càng nặng thêm, tiểu không ra. Bệnh nhân xin chuyển qua Đông điều trị.
- Khám lâm sàng, chẩn đoán bí tiểu do viêm nhiếp hộ tuyến và u nhiếp hộ tuyến. Đô thân nhiệt 37 độ C. mạch 92 lần/phút, huyết áp 100/50mmHg, rêu lưỡi vàng mỏng, ít rêu, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch đi Tế Sác. Thăm khám hậu môn bằng ngón tay thấy nhiếp hộ tuyến sưng to rõ rệt, mặt nhẵn.
- Xét nghiệm: Huyết sắc tố 88%, bạch cầu 7,600 mm3, trung tính 63%, ái toan 3%, lympho 34%, nước tiểu vàng có 0-1 bạch cầu, tinh trùng trong dịch nhiếp hộ tuyến ++++, tế bào mủ 5-10/kính bội số cấp.
- Biện pháp giải quyết cấp thời là đặt ống thông tiểu vào niệu đạo, đồng thời cho uống liền 2 thang bài thuốc nêu trên. Bệnh nhân cảm thấy giảm đau chút ít, đầu ống thông tiểu có hiện tượng nước tiểu tự chảy ra. Bèn bỏ ống thông tiểu, tới ngày thứ ba, tự đi tiểu được một ít. Uống hết 5 thang, đi tiểu thông suốt, hết đau. Kiểm tra lại thấy nhiếp hộ tuyến hết sưng, các thông số hóa lý đều trở lại bình thường, bệnh khỏi.
Bài 2: Viêm nhiếp hộ tuyến mãn tính
- Biện chứng Đông y: Tỳ thận khí hư, bàng quang bất hóa, thấp trọc ẩn náu ở hạ tiêu.
- Pháp trị: Cố Tỳ Thận, lợi Bàng quang, hóa thấp trọc.
- Bài thuốc: “Gia vị Bàng quang hóa trọc thang”.
- Công thức:
Bác hoàng kỳ 20g
Đảng sâm 15g
Nữ trinh tử 15g
Vương bất lưu hành 15g
Tang phiêu tiêu 10g
Đan sâm 12g
Thỏ ty tử 12g
Ô dược 10g
Trạch tả 12g
Xa tiền tử 10g
Lưỡng đầu tiêm 10g
Tiểu hồi hương 05g
Sắc uống ngày 1 thang.
-Hiệu quả lâm sàng: Lê Văn Giáo 58 tuổi, có tiền sử hay đái vặt gần 1 năm. Gần đậy xảy ra hiện tượng đái gấp, đái đau, cảm giác đau thắt vùng bụng dưới tới háng, đau lan ra sau đốt sống lưng cùng cụt, đôi khi rét run lẫn sốt.
Kiểm tra tại 1 bệnh viện, ghi nhận: Hồng cầu trong nước tiểu +, bạch cầu +, trong dịch nhiếp hộ tuyến có ít bạch cầu, một ít tiểu thể Lecithin, nuôi cấy có mọc tụ cầu khuẩn Staphylococcus albus. Chẩn đoán là viêm nhiếp hộ tuyến mãn tính, đã dùng thuốc Tây điều trị có giảm chút ít nhưng dễ tái phát. Có dùng thuốc Đông y vẫn không chuyển biến.
Khi bệnh nhân tới xin điều trị là lúc đái rất gấp, có lúc són, niệu đạo đau buốt, hai bên hạ phúc đau trướng, đầu váng, rìa lưỡi có vết hằn răn, rêu lưỡi trắng dày. Chẩn đoán Tỳ Thận khí hư, khí hóa ở bàng quang đình trệ, thấp trọc lưu trú hạ tiêu. Sau khi uống được 3 thang “Gia vị bàng quang hóa trọc thang”, thấy nước tiểu bớt đục, tiểu thông hơn, giảm đau vùng bụng dưới. Cho uống tiếp 10 thang nữa, các triệu chứng giảm hơn 80%, tiểu khá thông, đau nhức giảm 80-90%. Lại cho uống thêm 5 thang nữa, tổng cộng 18 thang, bệnh khỏi hoàn toàn.
Bài 3: U tuyến tiền liệt kèm bí tiểu.
- Biện chứng Đông y: Tỳ Thận lưỡng hư.
- Pháp trị: Ích khí kiện Tỳ, ôn bổ Thận dương, sáp lợi đồng dụng.
- Bài thuốc:’ “Lão nhân lung bế thang”.
- Công thức:
Đảng sâm 25g
Hoàng kỳ 30g
Phục linh 12g
Liên nhục 20g
Bạch quả 10g
Tỳ giải 12g
Xa tiền tử 15g
Vương bất lưu hành 12g
Ngô thù du 05g
Nhục quế 06g
Thục địa 30g
Nhục thung dung 15g
Cam thảo 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Gia giảm:
. Nếu dùng ông thông tiểu gây ra nhiễm khuẩn, tiểu tiện đau, nóng rát, gia thêm Kim Ngân Hoa 30g, Thổ phục linh 30g
. Nếu nước tiểu có lẫn máu, gia thêm Địa du thán 30g.
. Nước tiểu đục như nước vo gạo, gia thêm Ích trí nhân 10g.
. Toàn thân phù thủng, gia Trần bì 10g, Đại phúc bì 10g, Thông thảo 10g.
. Do uống thuốc mà ăn uống kém, gia Trần bì 10g, Sa nhân nhục 10g.
- Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 65 ca u nhiếp hộ tuyến kèm bí tiểu, chữa khỏi hoàn toàn 64 ca, chuyển biến tốt 14 ca, bỏ dỡ muốn về nhà 3 ca, phải mổ 2 ca. Trong số các ca khỏi bệnh có 4 ca tái phát sau 4-5 năm, lại thử dùng bài thuốc cũ cho uống vẫn thấy công hiệu. Người bệnh dùng ít nhất 2 thang, nhiều nhất 28 thang, trung bình 10 thang thì triệu chứng giảm hơn ½.
Bài 4: U tuyến liệt kèm bí tiểu
- Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt lưu trú bàng quang, khí hóa đình đốn.
- Pháp trị: Thanh thấp nhiệt, lợi tiểu tiện.
- Bài thuốc: “Thông bế lợi tiện thang”.
- Công thức:
Vương bất lưu hành 25g
Lưu ký nô 15g
Chế xuyên sơn giáp 10g
Mộc thông 15g
Đông quỳ tử 25g
Đại hoang 10g
Chương nhãn thảo 25g
Xa tiền tử 15g
Sơn chi tử 15g
Trạch tả 15g
Thạch vi 15g
Biển súc 15g
Cù mạch 15g
Hoàng bá 10g
Cam thảo 10g
Hoạt thạch 15g
Đăng tâm thảo 06g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Đỗ Minh Trí 60 tuổi, có tiền sử tiểu tiện không gọn, tiểu đau, nước tiểu thường đỏ, đại tiện bí kết. Do cảm lạnh, bệnh càng nặng thêm, đi tiểu không thông, tiểu nóng nhỏ giọt rất đau phải chở vào bệnh viện cấp cứu thông tiểu. Sau khi thăm khám trực tràng, Bác sĩ chẩn đoán u tuyến tiền liệt và đề nghị mổ nhưng bệnh nhân từ chối, xin chuyển qua Đông Y.
Đông Y khám ngoại chẩn, ghi nhận thể trạng còn khỏe, dinh dưỡng tốt, lục phủ ngũ tạng hoạt động bình thường, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bẩn, mạch đi Hoạt Sác.
Sau khi cho uống 2 thang “Thông bế lợi tiện thang”, bệnh nhân tự đi tiểu được 4 lần, đại tiện 1 lần, nước tiểu vẫn còn đỏ nóng, rêu lưỡi chưa chuyển, mạch chưa chuyển. Vẫn giữ nguyên bài thuốc, gia thêm Trúc diệp 15g, Trư linh 15g, cho uống tiếp 2 thang nữa thì tiểu tiện thông, màu nước tiểu ngã vàng nhưng hết đau vùng bụng dưới, mạch đi Hoạt nhưng không Sác, rêu lưỡi chuyển sang vàng mỏng. Lại cho uống tiếp 2 thang nữa, mọi hiện tượng biến mất, tiểu tiện thông lợi bình thường. Lại thêm 2 thang nữa để củng cố kết quả, bệnh khỏi hoàn toàn.
- Bình luận: U tuyến tiền liệt hay u nhiếp hộ tuyến là một bệnh khá phổ biến cho giới đàn ông trên 50 tuổi, rất khó chữa và dễ biến chứng nguy hiểm. Theo Tây y, hầu hết ca bệnh đều giải phẫu và nằm viện truyền máu, điều trị khá tốn kém cả về tiền bạc lẫn thời gian. Nếu dùng thuốc Đông y điều trị thì giản tiện hơn, rẻ tiền hơn, hiệu quả lại rất đáng tin cậy.
Bài 5: U tuyền tiền liệt kèm bí tiểu
- Biện chứng Đông y: Huyết ứ kết tập với nhiệt tà ở hạ tiêu.
- Pháp trị: Tư thận hoạt huyết.
- Bài thuốc: “Tư thận hoạt huyết thang gia vị”.
- Công thức:
Đào nhân 15g
Xích thược 12g
Xuyên ngưu tất 12g
Cù mạch 12g
Xa tiền thảo 12g
Hoàng bá (sao muối) 10g
Tri mẫu (sao muối) 10g
Hồng hoa 10g
Trúc diệp 10g
Vương bất lưu hành 10g
Tạo giác thích 10g
Ô dược 10g
Cam thảo 05g
Nhục quế 02g
Sắc uống ngày 1 thang. Nước thứ nhất, đổ 4 chén nước sôi, ngâm khoảng 1 giờ rồi sắc cạn còn 1 chén, để riêng. Nước thứ nhì, đổ thêm 3 chén nước, sắc còn 6/10 chén. Hai nước hòa chung, chia uống 2 lần.
- Gia giảm:
. Khí suy, mệt sức, gia Hoàng kỳ 20g, Đảng sâm 15g.
. Mạch Sác, nóng trong người, gia Huyền sâm 12g, Thạch lộc 12g, Thiên hoa phấn 12g, Mạch môn đông 12g, Bồ công anh 15g, Bại tương thảo 10g.
. Có hiện tượng nấc ngược do vị khí thượng nghịch, gia Tuyền phục hoa 12g, Đinh hương 03g, Thị đế 06g.
. Ngực đầy, ho hen, gia Tử uyển 06g, Tử tô tử 06g.
. Tiểu ra máu, gia Bạch mao căn 30g, Đại kế 15g, Tiểu kế 15g.
. Táo bón, gia Đại hoàng 12g, Hỏa ma nhân 05g.
- Hiệu quả lâm sàng: Trương Như 67 tuổi, thể chất bình thường. Gần đây thấy tiểu tiện không tốt, dần dần đái không được, bụng căng tức quá phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ chẩn đoán “u tuyến tiền liệt kèm bí đái”. Đã cho tiêm penicillin, streptomycin, uống stilbestrol đồng thời đặt thêm ống thông tiểu, điều trị suốt 8 ngày nhưng kết quả không rõ rệt. Bệnh nhân tự xuất viện tìm Đông Y xin chữa trị.
Khám thấy vẻ mặt đau đớn, thân nhiệt 37.2 độ C, chất lưỡi đỏ tía, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch đi Trầm Tế hơi Sác, lưỡng Xích mạch đi Sáp. Thăm khám hậu môn bằng ngón tay thấy tuyến tiền liệt phì đại rõ rệt, mặt nhẵn, chất mềm, bờ rõ. Chẩn đoán: căn cứ vào mạch và chứng, chẩn đoán do huyết ứ kết hợp với uất nhiệt ở hạ tiêu làm bế tắc thủy lộ, không tiểu được.
Sau khi cho uống 1 thang “Tư thận hoạt huyết thang gia vị” đái được khoảng 1 lít nước tiểu, 2 thang đi tiểu khá dễ dàng, hết 4 thang mọi hiện tượng bế tắc biến mất, bệnh khỏi.
Bài 6: U tuyến tiền liệt kèm bí tiểu
- Biện chứng Đông y: Âm hư, nhiệt náu ở hạ tiêu, bàng quang khí hóa bất lợi.
- Pháp trị: Tư âm giáng hỏa, hóa khí lợi thủy.
- Bài thuốc: “Tư thận thông quang thang”.
- Công thức:
Tri mẫu 18g
Hoàng bá 18g
Nhục quế 03g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Triệu Thanh, 65 tuổi, thể chất vốn hư nhược, cảm thấy tiểu khó đã hơn 1 tháng qua. Vào bệnh viện khám sức khỏe, được chẩn đoán là u tuyến tiền liệt. Trở về nhà xin vào Viện Đông y điều trị.
Bệnh nhân khai gần đây thấy đái ít mà khó ra, mắc tiểu liên tục nhưng mỗi lần đi tiểu chỉ nhỏ từng giọt, hay tiểu rớt, bụng dưới căng đầy khó chịu, đầu váng, tai ù, lưng khớp đau nhừ, miệng ráo họng khô. Vọng chẩn thấy lưỡi đỏ ít rêu, mạch chẩn thấy đi Tế Sác. Chẩn đoán là chứng âm hư nhiệt náu ở hạ tiêu, bàng quang khí hóa đình trệ.
Sau khi cho uống 3 thang “Tư thận thông quang thang” đã đi tiểu khá dễ dàng, lượng nước tiểu tăng. Cho uống tiếp 3 thang nữa, tiểu tiện thông suốt như cũ, bệnh khỏi. Dặn mua thuốc thành phẩm “Tri bá địa hoàng hoàn” có bán ngoài thị trường uống thêm để củng cố kết quả lâu dài.
- Bàn luận: U tuyến tiền liệt kèm bí đái là bệnh thường thấy ở đàn ông cao tuổi. Bài thuốc “Tư thận thông quan thang” tuy đơn giản nhưng rất hiệu nghiệm với chứng bệnh này. Khi hết bệnh, có thể đổi qua thuốc hoàn hoặc thay bằng “Tri bá địa hoàng hoàn” cũng có công hiệu tương đương.
10. TIỂU TIỆN BẤT CẤM (Uracratia)
Khái niệm
Tiểu tiện bất cấm, còn gọi là tiểu tiện không tự chủ hay đi tiểu liên miên, là triệu chứng rối loạn về hệ thống tiết niệu nhưng người bệnh vẫn cảm thấy tỉnh táo, ăn uống bình thường. Nếu cường độ rối loạn ngày càng tăng và kéo dài, đặc biệt vào ban đêm, sẽ gây mất ngủ kinh niên làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Chứng tiểu tiện bất cấm có thể xảy ra ở bất kì hạn tuổi nào, phái tính nào, trẻ cũng như già, nam cũng như nữ. Tiếc rằng, ngày nay chứng tiểu tiện bất cấm chưa được đánh giá và quan tâm đúng mức trừ trường hợp bị viêm nhiễm đường tiết niệu. Cũng may là Đông y có nhiều công trình nghiên cứu, phân tích và hướng dẫn mọi người chẩn đoán, ứng dụng những bài thuốc kinh nghiệm để tự chữa bệnh cho mình và tha nhân.
Nguyên nhân: Đông Y xếp tiểu tiện bất cấm vào chứng “Hư”, thuộc bệnh nội thương, mãn tính. Có 6 nguyên nhân chính dẫn tới chứng tiểu tiện bất cấm:
1. Do Thận khí hư hàn:
- Với các triệu chứng đi tiểu nhiều lần, tiểu không kềm được, nếu không đi kịp sẽ tiểu trong quần. Sắc mặt thường trắng bệch, mệt mỏi yếu sức, lưng đau, tứ chi lạnh, di tinh, dương sự không cương, tảo tiết (xuất tinh sớm), liệt dương, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch đi Trầm Tế vô lực.
- Phần đông bởi ốm lâu tổn hại dương,,mệnh môn hỏa suy làm mất chức năng khí hóa, mất khả năng đóng kín cửa bàng quang.
2. Do Tỳ Phế khí hư:
- Với triệu chứng đi tiểu nhiều lần kiêm chứng ho suyễn, thở hụt hơi. Thể trạng người bệnh mệt mỏi, kém ăn, đại tiện nhão, ăn xong bụng trướng chậm tiêu, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch đi Hư Nhược.
- Phần đông chứng này gồm những người có tiền sử bệnh tiểu đường, cao huyết áp, suyễn, nghiện rượu, ghiền thuốc lá, nghiện ma túy.
3. Do bàng quang uất nhiệt:
- Với triệu chứng đi tiểu nhiều lần mà lượng nước tiểu ít, tiểu nhỏ giọt,màu nước tiểu vàng úa,niệu đạo đau buốt nóng rát, bụng dưới nặng trệ khó chịu, miệng đắng môi khô, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch đi Huyền Sác.
- Nguyên nhân do ngoại tà Thấp nhiệt nhập vào lý (tạng, bên trong) hoặc thường ăn đồ cay nóng béo ngọt lâu ngày nung nấu thành Thấp nhiệt dồn xuống Hạ tiêu làm cho bàng quang mất chức năng khí hóa, co thắt không lợi.
4. Do Can thận âm hư:
- Với các triệu chứng tiểu nhiều, tiểu không cầm được, lượng nước tiểu sẻn rít, màu nước tiểu vàng sậm như nước trà đặc. Người bệnh cảm thấy ù tai, đầu choáng, hai gò má đỏ bừng, sườn đau âm ỉ, lưng đùi yếu mỏi, ngũ tâm phiền nhiệt, đại tiện bón uất, lưỡi đỏ ít rêu, mạch đi Huyền Tế Sác.
- Âm hư thì sinh nội nhiệt. Hư nhiệt quấy nhiễu Hạ tiêu khiến bàng quang mất tính năng co thắt, đóng mở, bắt đi tiểu liên miên.
5. Do Thận dương hư:
- Với triệu chứng ban đêm đi tiểu nhiều lần (từ 2-3 lần trở lên), tiểu vặt, nước tiểu nhỏ giọt không gọn bãi hoặc lượng nước tiểu nhiều hơn ban ngày. Có đặc điểm là ban ngày tiểu tiện tương đối bình thường, chỉ ban đêm mới tiểu nhiều. Phụ nữ sinh đẻ nhiều lần làm Thận dương hư về sau hay sinh tiểu vặt, mỗi lần ho hay cười lớn đều són tiểu, không dám đi xa vì sợ tiểu trong quần đều từ đây mà ra.
- Người bệnh cảm thấy mệt sức, ù tai hoặc nặng tai, lưng đau gối mỏi, tảo tiết (xuất tinh sớm), hoạt tinh (tinh khí tiết ra liên hồi), lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch đi Trầm Tế Nhược.
- Đây là chứng thường gặp ở những người cao tuổi, thể tạng vốn hư nhược do hậu quả bệnh tiểu đường, ho suyễn, viêm phù thận lâu năm hoặc do dùng thuốc trị chứng cao máu, phù thủng kéo dài làm cho thận dương bất túc, mất khả năng đóng mở Bàng quang theo ý muốn. Ban đêm thuộc Âm, chủ bệnh thuộc Âm, chủ bệnh lại thuộc Âm thịnh Dương suy cho nên Âm lấn Dương phải đi tiểu nhiều.
6. Do Tỳ Thận lưỡng hư:
- Thường có triệu chứng lạnh tay chân, cơ thể lạnh, mệt mỏi, đầu choáng, tai ù, lưng gối đau mỏi, ăn kém, đại tiện nhão hoặc đi tiêu ra nguyên đồ ăn, ban đêm đi tiểu liên miên, mất ngủ, lưỡi nhợt bệu, rêu trắng, mạch đi Trầm Nhược.
- Phần nhiều do Mệnh môn hỏa suy, mất khả năng sưởi ấm Tỳ dương hoặc vì Tỳ dương hư yếu không cung ứng đủ “lửa” cho Thận dương. Hai tạng Tỳ thận cùng hư thì lấy đâu ra “lửa” để sưởi ấm Hạ tiêu vào ban đêm. Ban đêm thuộc Âm, vì Âm thịnh dương suy nên ban đêm đi tiểu liên miên.
- Cần phân biệt: Chứng đi tiểu nhiều lần do Thận dương hư đơn thuần thì có kèm theo chứng đau lưng, tai ù; còn di Tỳ dương hư thì kèm theo thể trạng gầy còm, chân tay không ấm, kém ăn, đại tiện nhão. Khi cả hai triệu chứng đều có thì đúng là do Tỳ Thận dương cùng hư. Nếu chỉ chữa riêng phần Thận hư hoặc Tỳ hư thường kém hiệu quả, nên song bổ Tỳ Thận cùng lúc, vừa ôn dương vừa cố sáp theo phương “Cố phù hoàn gia giảm” thì nhất định thành công.
Điều trị:
Sau đây là một số bài thuốc tiêu biểu của Đông y trị chứng tiểu tiện bất cấm rất công hiệu. Nếu biết phối ngũ giữa chứng và mạch mà sử phương thì việc trị liệu sẽ chính xác, kết quả càng nhanh.
Bài thuốc đơn giản:
- Ích trí nhân: Mỗi lần dùng 15-30g, giã nát, đổ 1 chén nước nấu cho cạn còn nữa chén, hòa thêm chút muối uống 1 lần. Ngày làm 2 lần, trong vài hôm thì có kết quả. Có thể nghiền thành bột mịn, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 1 muỗng cà phê bột thuốc với nước muối nhạt. Bài thuốc này tuy đơn giản nhưng rất hay.Kinh trị chứng đái không kềm được, ngày đêm tiểu tiện 5-10 lần trở lên. Có phương dùng Ích trí nhân thêm Chỉ xác, liều lượng bằng nhau, cũng có kết quả tương tự.
- Ích trí nhân, Ô dược: Lượng bằng nhau. Đem Ích trí nhân tẩm nước muối, sao khô, hiệp với Ô dược tán thành bột mịn. Dùng Hoài sơn tán nhỏ, hòa với nước và rượu bắt lên bếp đun lửa nhỏ khuấy hồ rồi bỏ bột thuốc vào, lại trộn cho đều. Vò viên bằng hạt bắp, đem sấy khô để dùng. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-15 hoà với nước muối nhạt vào lúc đói. Chuyên trị chứng đái vặt, ngày đêm đái hàng trăm lần không nín được do Thận khí hư.
- Tang phiêu tiêu: Là ổ ngựa trời trên cành dâu. Sao với rượu, tán nhỏ, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần uống 8-10g với nước gừng. Kinh trị đàn bà đái gấp, đái liên miên, đái són không ngưng. Dùng vài mươi lần là yên.
- Lộc nhung: Bôi mỡ nướng cho thơm, tán bột uống với rượu, ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 muỗng cà phê. Nếu không có lộc nhung, thay bằng ngà voi cạo mỏng, đốt tồn tính (chưa cháy thành than), nghiền nát, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g với nước ấm hoặc hòa với rượu nhạt mà uống cũng hay.
- Tiểu hồi hương: Lượng dùng nhiều ít tùy bệnh và thời gian điều trị, tẩm nước muối, sao khô, tán nhỏ. Nấu gạo nếp vắt thành cục chấm bột thuốc mà ăn, ngày 2-3 lần, mỗi lần 10g bột thuốc.
- Bong bóng heo: Làm sạch, bỏ vào nồi nấu chung nới gạo nếp cho chín nhừ, gia thêm chút bột tiêu sọ. Sau đó, lược bỏ gạo nếp, xắt miếng bong bóng heo mà ăn, vài lần là dứt chứng đi đái liên miên không kềm được.
- Lộc giác sương: Là sừng hươu nai sau khi nấu cao Ban long cnf lại xác. Đem tán bột mịn để dùng dần. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần lường 1 muỗng cà phê bột thuốc uống với nước ấm hoặc nước muối nhạt, liên tục trong vòng 15 ngày thì có kết quả.
Bài thuốc tổng hợp:
Bài 1:
- Biện chứng Đông y: Thận khí bất túc, Thận dương suy, Bàng quang thất ước.
- Pháp trị: Ôn bổ thận dương, bổ thận ích khí.
- Bài thuốc: “Củng đề thang gian giảm”.
- Công thức:
Phá cố chỉ 20g
Thỏ ty tử 20g
Ba kích nhục 20g
Thục địa 20g
Cửu thái tử 15g
Bạch truật 15g
Phục linh 15g
Thục phụ tử 15g
Đảng sâm 15g
Quế chi 10g
Ích trí nhân 10g
Sa nhân nhục 08g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Nguyễn Thị Tuệ, 73 tuổi, có tiền sử đi tiểu liên miên không kềm được đã hơn 4 năm. Mỗi ngày đái vặt nhiều lần, không rõ nguyên nhân, nước tiểu trong, lượng khá nhiều, lưng đau, đùi mỏi, ho khan, thở ngắn, tay chân lạnh, sợ rét. Theo thời gian. Bệnh ngày càng nặng, vừa đi tiểu xong lại muốn đi tiểu nữa, khổ sở muốn chết.
Khám thấy mặt trắng bệch, ủ rũ, nói ít, lưỡi nhạt, rêu trắng mỏng, mạch đi Trầm Nhược, hai mạch xích càng Nhược hơn. Chẩn đoán Thận khí bất túc, Thận dương suy vi. Sau khi cho uống 5 thang “Củng đề thang gia giảm”, bệnh chứng cải thiện thấy rõ, số lần đi tiểu giảm hơn một nửa. Tiếp tục cho uống cả thảy 16 thang, số lần đi tiểu ban ngày 4 lần, ban đêm 2 lần. Căn bản vậy là được.
- Bàn luận: Thận là gốc của tiên thiên, là nguồn phát dục của con người, có quan hệ mật thiết với các tạng phủ khác. Thận với bàng quang có quan hệ biểu lý, sự đóng hay mở bàng quang do thận cai quản, dựa vào sự khí hóa của Thận mới có câu: ”Thận tư nhị tiện”, nghĩa là Thận có ảnh hưởng rất lớn tới đường tiểu tiện và đại tiện. Khí thuộc dương, nếu Thận khí hư thì có biểu hiện tiểu nhiều lần, sợ lạnh, tay chân không ấm, mặt trắng nhờ, mạch đi Trầm. Cho nên, tuy bệnh ở bàng quang mà gốc ở Thận. Trong bài thuốc có Phá cố chỉ, Cửu thái tử, Thỏ ty tử, Thục địa, Ba kích nhiều đều là thuốc bổ Thận; Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh để ích khí kiện Tỳ nhầm phù Thổ để chế Thủy; Phụ tử, Quế chi để ôn bổ thận dương, lại thêm Sa nhân để ngừa vị ngọt của các thuốc. Phối ngũ đúng thì bệnh khỏi, đó là cái lý nghìn đời của Đông y, không có gì lạ.
Bài 2:
- Biện chứng Đông y: Thận khí suy, bàng quang thất ước.
- Pháp trị: Bổ thận cố nhiếp.
- Bài thuốc:”Gia vị Bổ trung ích khí thang”.
- Công thức:
Sinh hoàng kỳ 20g
Phúc bồn tử 15g
Tang phiêu tiêu 15g
Ích trí nhân 10g
Đảng sâm 12g
Bạch truật 10g
Đường qui 10g
Cam thảo 06g
Sài hồ 06g
Trần bì 06g
Thăng ma 06g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Lê Thị Tốt 30 tuổi, khám thấy mặt trắng bệch, mệt mỏi, biếng nói, đi tiểu không kềm được, chốc chốc lại phải vào phòng tiểu, rêu lưỡi mỏng, mạch đi Trầm Nhược.
Sau khi cho uống 5 thang “Gia vị Bổ trung ích khí thang”, sắc mặt đổi từ trắng sang hang, triệu chứng đi tiểu nhiều lần giảm rõ. Cho uống tiếp 5 thang, rồi 5 thang nữa, bệnh khỏi.
- Bàn luận: Bài Bổ trung lại gia thêm Tang phiêu tiêu, Phúc bồn tử, Ích Trí nhân để bổ Thận cố nhiếp nên kết quả được nhanh chóng.
Bài 3:
- Biện chứng Đông y: Thận khí hư khuyết, Bàng quang thất ước.
- Pháp trị: Điều khí ích thận.
- Bài thuốc: “Gia vị ích Thận bổ khí thang”.
- Công thức:
Sinh hoàng kỳ 12g
Sinh ý dĩ nhân 20g
Đỗ trọng (sao) 15g
Thỏ ty tử 15g
Sa uyển tử 10g
Phúc bồn tử 10g
Tang thầm tử 10g
Hoài sơn 20g
Sài hồ 06g
Chỉ xác (sao) 06g
Ô dược 10g
Sắc uống ngày 1 thang
- Hiệu quả lâm sàng: Vũ Thị Thúy, 16 tuổi, học sinh. Một năm trước nhân đi xe quá chật và xe lại không ngừng ở trạm nghỉ dọc đường khiến mắc tiểu mà không đi tiểu được. Sau về nhà cảm thấy 2 chân nặng nề, phù thủng, bắt đi tiểu nhiều lần, mỗi ngày hơn 20 lần, không đau, thắt lưng ê ẩm, khó chịu.
Khám nước tiểu không thấy dấu hiệu khác lạ. Chẩn đoán do cơ thắt của niệu quản bị co thắt quá độ, còn Đông y cho rằng do Thận khí hư khuyết, Bàng quang mất chức năng vận chuyển.
Sau khi uống 1 thang “Gia vị ích thận bổ khí thang”, giảm ngay số lần đi tiểu. Cho uống tiếp 4 thang nữa thì hết phù thủng, hết mỏi lưng, ngày đi tiểu 3 lần, bệnh khỏi.
Bài 4:
- Chủ trị: Tiểu tiện không tự chủ, són tiểu bất cứ lúc nào, lượng nước tiểu nhiều, trong, mỏi lưng, chân tay lạnh, sắc da nhợt, mỏi mệt. Nguyên nhân do Thận dương hư.
- Bài thuốc: “Triệu thị di niệu kinh nghiệm phương” của Đông Y Sĩ Triệu Tâm Ba thuộc Viện nghiên cứu Trung y, Trung Quốc.
- Công thức:
Tang phiêu tiêu 10g
Hoàng kỳ 10g
Hồng sâm 10g
Phục linh 12g
Phúc bồn tử 10g
Trạch tả 10g
Ích trí nhân 10g
Kim anh tử 06g
Thăng ma 04g
Sắc uống ngày 1 thang.
11. ĐÁI DẦM (Uracrasia, Uroclepsia).
Đái dầm là chứng bệnh thường gặp ở trẻ em từ sơ sinh đến 9-10 tuổi. Tuy nhiên vãn có một số thanh thiếu niên tuổi từ 12-25 tuổi hoặc cao hơn nữa cũng mắc chứng đái dầm, thậm chí nhiều cô gái vì quá xấu hổ không dám nhận lời cầu hôn lấy chồng.
Biểu hiện của chứng đái dầm là tiểu tiện ngay trong lúc đang ngủ, không tự chủ động. Phần lớn chứng này diễn ra do tình trạng mắc tiểu trước mà chưa kịp thức giấc hoặc nằm mơ thấy mình đang tiểu.
Nguyên nhân:
Đông y xếp chứng đái dầm vào phạm vi chứng “Di niệu”. Có 3 nguyên nhân chính dẫn tới chứng đái dầm:
- Thận khí hư hàn.
- Phế khí và Tỳ khí hư.
- Can khí uất nhiệt.
Triệu chứng:
1. Do thận khí hư hàn:
- Triệu chứng: Đái dầm trong lúc ngủ, có thể xảy ra 2-3 lần trong đêm, sắc mặt trắng nhợt, sợ lạnh, tay chân lạnh, lưng gối yếu mỏi, nước tiểu trong và dài, chất lưỡi nhạt, mạch đi Trầm Trì vô lực.
- Pháp trị: Ôn thận cố sáp.
- Bài thuốc căn bản gồm: Tang phiêu tiêu, ích trí nhân, Thỏ ty tử.
2. Do phế khí và Tỳ khí đều hư:
- Triệu chứng: Đái dầm nhiều lần, lượng nước tiểu ít, sắc mặt trắng nhợt, cơ thể gầy, mệt mỏi, thường đổ mồ hôi trộm,, mạch đi Nhu Hoãn.
- Pháp trị: Bổ khí cố sáp.
- Bài thuốc căn bản: Đảng sâm, Hoài sơn, Mạch môn, Sa sâm.
3. Do Can khí uất nhiệt:
- Triệu chứng: Đái dầm, nước tiểu vàng, lòng bàn tay, bàn chân nóng, đêm ngủ hay nghiến răng, môi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch đi Hoạt Sác. Nếu do âm hư thì rêu lưỡi sạch, mạch đi Tế Sác.
- Pháp trị: Nếu do Can khí uất nhiệt thì phải “Sơ can thanh nhiệt”, còn do âm hư thì “Tư âm thanh nhiệt”.
- Bài thuốc căn bản:
a. Sơ can thanh nhiệt: Long đởm thảo, Sài hồ, Chi tử, Mộc thông.
b. Tư âm thanh nhiệt: Sinh địa, Tri mẫu. Hoàng bá, Mẫu đơn bì.
Điều trị:
Xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y tiêu biểu trị chứng đái dầm hay chứng “Di niệu” có hiệu quả:
Bài 1:
- Biện chứng Đông y: Can khí uất nhiệt, Bàng quang thất ước.
- Pháp trị: Thanh nhiệt hóa thấp.
- Bài thuốc:”Gia đường di niệu tán”.
- Công thức:
Phù tiểu mạch 60g
Hoàng kinh tử 60g
Đường đỏ (trắng) vừa đủ.
Cách làm: Phù tiểu mạch và Hoàng kinh tử đem sấy khô, sao nổ, tán thành bột mịn, trộn chung với đường. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20g, liên tiếp 3 ngày. Nếu chưa thấy công hiệu, tăng liều dùng lên và tiếp tục uống thêm cho đến khi hết đái dầm thì ngưng.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Thiếu Quang, 25 tuổi, trước và ngay trong đêm tân hôn bỗng phát bệnh đái dầm. Bị vợ chê phải ra ngủ riêng khiến tình cảm trở nên mâu thuẫn, bất hòa, bệnh nhân rất xấu hổ. Sau khi uống “ Gia đường di niệu tán” hơn 10 hôm, bệnh khỏi, vợ chồng lại mặn nồng như xưa.
Bàn luận: Lớn tuổi mà còn chứng đái dầm, tuy chẳng ai muốn, nhưng không phải là trường hợp hiếm thấy. Chắc rằng bệnh nhân trước khi cưới vợ đã có chuyện cãi vả, tranh chấp hay bực bội với ai đó khiến Can khí uất kết, mà uất thì tiết nhiệt, ảnh hưởng tới chức năng bàng quang nên sinh đái dầm.
Riêng vị hoàng kinh tử, nên hái sau tiết sương giáng thì tốt nhất.
Bài 2:
- Biện chứng Đông y: Thận khí bất cố.
- Pháp trị: Bổ thận, ích khí, cố nhiếp.
- Bài thuốc: “Gia vị tang phiêu tiêu thang”.
- Công thức:
Đảng sâm 15g
Tang phiêu tiêu 15g
Phục thần 15g
Ích trí nhân 15g
Thỏ ty tử 12g
Long cốt 12g
Thục mẫu lệ 12g
Hoài sơn 12g
Miết giáp 12g
Đương qui 10g
Thạch sương bồ 06g
Ô dược 06g
Ngũ vị tử 06g
Chích viễn chí 05g
Hoàng kỳ 12g
Bạch truật 10g
Thăng ma 06g
Trần bì 03g
Chích cam thảo 03g
Sắc uống ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Trần Thị Thu Nga 16 tuổi, có tiền sử đái dầm từ bé. Sau khi uống hết 7 thang “Gia vị tang phiêu tiêu thang”, khỏi bệnh 100%, mừng như trúng số độc đắc.
Bài 3:
- Biện chứng Đông y: Thận khí hư hàn, bàng quang thất ước.
- Pháp trị: Ôn thận cố sáp.
- Bài thuốc: “Tang ích gia vị song bổ”.
- Công thức:
Tang phiêu tiêu 40g
Ích trí nhân 40g
Phá cố chỉ 40g
Thỏ ty tử 30g
Đảng sâm 30g
Ba kích nhục 20g
Cách làm: Thuốc sấy khô, tán bột, chế thành hoàn 12g. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn. Có thể đổi thành thuốc thang nhưng liều lượng giảm xuống còn 1/3 hoặc phân nửa.
Bài 4:
- Biện chứng Đông y: Do thận khí hư hàn.
- Pháp trị: Ôn thận cố sáp.
- Bài thuốc: “tang phiêu tiêu tán” hiệp”Củng đề hoàn”..
- Công thức:
Tang phiêu tiêu 12g
Đảng sâm 16g
Long cốt 12g
Mẫu lệ 12g
Phục thần 12g
Đương qui 08g
Qui bản 08g
Thạch xương bồ 06g
Thỏ ty tử 08g
Sơn thù du 08g
Bạch truật 12g
Chế phụ tử 06g
Phá cố chỉ 08g
Phỉ tử (hạt hẹ) 04g
Ngũ vị tử 04g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 5:
- Biện chứng Đông y: Do Phế khí, và Tỳ khí hư.
- Pháp trị: Bổ khí cố sáp.
- Bài thuốc: “Cố phù thang gia giảm”.
- Công thức:
Hoàng kỳ 12g
Sa uyển tật lê 08g
Đương qui 08g
Bạch thược 08g
Phục thần 08g
Sơn thù du 08g
Thăng ma 08g
Tang phiêu tiêu 10g
Ích mẫu 08g
Ích trí nhân 10g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 6:
- Biện chứng Đông y: Do Tỳ Thận lưỡng suy
- Pháp trị: Bổ thận kiện tỳ, khai minh thần trí.
- Bài thuốc: “Triệu thị kinh nghiệm phương” của Triệu Thanh Lý, giáo sư trường Đại học Quốc Y Trương Trọng Cảnh tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
- Công thức:
Tiên mao 06g
Kim anh tử 06g
Hoàng kỳ 10g
Dâm dương hoắc 06g
Đảng sâm 10g
Bạch truật 06g
Ba kích nhục 06g
Tang phiêu tiêu 06g
Ích trí nhân 03g
Thạch xương bồ 03g
Sắc uống ngày 1 thang. Đây là bài thuốc dành cho trẻ em dưới 10 tuổi. Nếu người lớn, tăng liều lượng mỗi vị lên gấp đôi. Cũng có thể sấy khô tán bột uống, ngày 2-3 lần, mỗi lần 10-12g.
Bài này chủ trị chứng ngủ mê đái dầm, bất kể trẻ con hay người lớn, giúp cho Tỳ thận cùng khỏe, tinh thần tỉnh táo.
Bài 7:
- Biện chứng Đông y: Thận hư, trung khí bất túc.
- Pháp trị: Ích khí thăng đề, bổ Thận cố sáp.
- Bài thuốc: “Lưu thị di niêu phương” .
- Công thức:
Hoàng kỳ 15g
Bạch truật 15g
Ích trí nhân 15g
Tang phiêu tiêu 15g
Phúc bồn tử 15g
Thăng ma 03g
Sắc uống ngày 1 thang.
Chủ trị chứng đái dầm ở người cao tuổi kiêm đoản hơi yếu sức do Thận dương suy, trung khí không đủ, cần ích khí thăng đề bổ thận cố sáp thì mới có kết quả.
Bài 8:
- Biện chứng Đông y: Tỳ Thận hư nặng
- Pháp trị: Mở trên đóng dưới, thượng hạ cân bằng.
- Bài thuốc: “Củng thị di niệu phương” của Củng Chí Hiếu, thuộc sở nghiên cứu Trung y Trùng Khánh, Trung Quốc.
- Công thức:
Ích trí nhân 10g
Ngũ vị tử 10g
Chích ma hoàn 10g
Sa sâm 06g
Khiếm thực 12g
Tiểu mạch 60g
Cam thảo 12g
Thiên hoa phấn 12g
Cù mạch 18g
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài này chủ trị chứng đái dầm bất kể ngày đêm, hễ uống nước là đi tiểu, ban đêm uống ít đái ít, uống nhiều đái nhiều, ngủ mơ là tiểu trong quần.
Bài 9:
- Biện chứng Đông y: Tỳ Thận lưỡng hư.
- Pháp trị: Ôn bổ cr Tỳ Thận.
- Bài thuốc: “Tân định xúc” của Củng Chí Hiếu, thuộc sở nghiên cứu Trung y Trùng Khánh, Trung Quốc.
- Công thức:
Phá cố chỉ 30g
Lộ đảng sâm 30g
Chích hoàng kỳ 30g
Thạch xương bồ 15g
Bạch truật (sao) 12g
Tang phiêu tiêu 10g
Xuyên tỳ giải 10g
Trần bì (sao) 10g
Ích trí nhân 10g (sao muối)
Thai ô dược 10g
Nhục quế 06g
Chích cam thảo 03g
Cách làm: Sấy khô các vị thuốc, tán bột mịn, thêm 30g muối biển, luyện với hồ loảng vò thành 30 viên. Tùy theo tuổi và chứng trạng nặng nhẹ mà cho uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 1-2 viên. Có thể gi thêm vị Thỏ ty tử và Kê nội kim (sao) tùy thuộc Thận hay tỳ suy nhiều hay ít.
Bài đọc thêm
TRÀ - THUỐC
- Mời bác xơi chè!
- Mời anh uống trà!
Một lời tuy đơn giản nhưng chuyên chở tất cả sự nồng ấm toát ra từ tâm lý của người mời, đồng thời cũng báo trước sự an toàn của một loại đồ uống bình dân mang đầy tính thân thiện của ccs chủng tộc Phương Đông. Trà! Vâng, ngoài phương diện nghi lễ, trà còn chứa đựng nhiều điều hữu ích mà ta chưa biết tới. Bài này nhằm chia sẻ một số công dụng của trà về phương diện sinh-hóa.
Nguồn gốc thực vật học:
Trà hay chè? Cả hai đều đúng, chỉ lạ tai do ngôn ngữ địa phương miền Bắc hoặc miền Nam. Trà, tên khoa học Camella sinensis, thuộc họ chè Theaceae. Không nên nhầm lẫn với một số cây thực vật cùng mang tên trà như: Trà hoa mai hoặc cây dầu chè, tên khoa học Camellia sasanqua, cũng thuộc họ chè Theaceae nhưng không được uống vì có độc; Trà hương tức Trầm hương, tên khoa học Aquilaria agallocha thuộc họ Trầm Thymelacaceae nhưng lại sử dụng thân gỗ chứ không dùng lá.
Trà vốn là một cây thực vật hoang dã, sống qaunh năm, mọc rất khỏe cho dù gặp đất khô cằn hoặc mưa nhiều, chịu được khí hậu lạnh lẫn ánh nắng gay gắt, kháng khuẩn cao, ít bị sâu bệnh. Điều kiện nhiệt độ tốt nhất giúp trà phát triển trong khoảng 64-86 độ F.
Người miền Nam gọi là trà Tàu, cho thấy trà có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo sử liệu, cái nôi của trà Tàu nằm về hướng Tây Tĩnh Vân Nam, giáp biên địa Miến Điện. Cây trà, nếu không cắt tỉa, có thể vươn cao trên 40 feet (khoảng 12 mét), lá nhỏ mọc so le, màu xanh thẫm, đặc biệt không bao giờ rụng lá theo mùa. Hoa nhỏ, trắng, mọc ở kẻ lá, có mùi thơm ngát. Quả gồm 1 nang thường có 3 ngăn chứa hạt màu nâu nhạt. Do chế biến, trà mang nhiều tên ghép khá ngộ nghĩnh: Trà đen, hồng trà, trà Ô long, trà Long Tĩnh. Trung Quốc có loại trà được ủ kín trong ngực của các xử nữ gọi là “Trinh nữ trà”. Còn thứ trà cho loài ngựa khỏe mạnh ăn, sau một thời gian, cắt cổ mổ bụng ngựa lấy trà ra sấy khô với củi dâu gọi là “Trảm mã trà”. Uống trà có nghệ thuật gọi là “Trà đạo”. Có điều nên cản trọng khi phát ngôn. Gọi “chè vối, hồng trà, trinh nữ chè, trảm mã trà, trà đạo là thuận tai. Không ai nói “trà vối, hồng trà, trinh nữ chè, trảm mã trà, hay trà đạo” rất nghịch nhĩ. Ngôn ngữ Việt Nam khá là chi li nên người Mĩ thường than:”Học nói tiếng Việt cho đúng còn khó hơn làm tổng thống”.
Nguồn gốc lịch sử:
Một tàu liệu xưa nhất nói về trà đạo được viết vào năm 780 sau Công Nguyên, Tác giả ghi chép, lá trà được đưa vào làm đồ uống cách đây 3,500 năm và người đầu tiên khám phá ra trà chính là Thần Nông, một vị vua cổ đại của Trung Quốc. Thêm một chuyện truyền kỳ xa xưa khác kể rằng, Thái Tử Siddhartha Gautama-tức Đức Phật Thích Ca-trong chuyến hành hương qua Trung Quốc đã xé toạt mí mắt ném xuống đất bởi quá thất vọng trước sự bất lực không thể khai ngộ giữa lúc thiền định. Lạ lùng thay, mí mắt khác liền mọc lên ngay sau đó, nhưng lần này hình thù lại giống như những chiếc lá trà xanh.
Rất nhiều tín đồ thuần thành của các đạo giáo Đông phương thường uống trà giữa những kì thiền định lâu dài, Tại Nhật nghi thức uống trà theo lối cổ đã làm rạng danh nhiều thế hệ và còn tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của hằng triệu người dân Nhật. Nền văn hóa của các chủng tộc sống ở phương Đông đều tin rằng trà mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, tăng tuổi thọ. Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ là một quốc gia có diện tích trồng trà rộng lớn nhất thế giới, tiếp đến là Trung Quốc. Riêng tại phương Tây, trà chỉ mới được giới thiệu và bắt đầu sử dụng làm đồ uống vào thế kỉ thứ 6 nhờ những nhà buôn cung cấp qua con đường trao đổi hàng hóa xuyên quốc gia. Mãi những năm về sau, cả hai nước Hà Lan và Anh Quốc mới biết đến trà, với những vùng trồng trà ngút ngàn và nghiễm nhiên trở thành quốc gia phương Tây tiền phong có địa vị mạnh về sản xuất trà trên thế giới. Trà đến Hoa Kỳ có lẽ muộn màng nhất, qua những người di dân đầu tiên đặt chân lên vùng đất hứa. Vậy mà ngày nay cư dân Hoa Kỳ lại là một trong những nước tiêu thụ trà nhiều nhất, đứng hàng thứ hai sau cà phê. Trà được chế biến thành hàng chục dạng khác nhau như trà lạnh, trà ấm, trà đóng gói. Về phương diện sinh học, các nhà sản xuất Hoa Kỳ chế trà thành thuốc, sản xuất những túi trà lạnh được giới thiệu như một loại thuốc đắp khi mắt bị sưng phù và giúp cho da được dịu mát khi bị cháy bỏng bởi ánh nắng mặt trời.
Địa vị trên trường quốc tế:
Nói chung, trà xanh được coi như 1 loại đồ ăn, thực phẩm (food) thông dụng. Đối với các dân cư vùng Châu Á, trà xanh đóng vai trò đồ uống bổ trợ thay nước trong khi đối với người dân Hoa Kỳ thì trà xanh lại giữ nhiệm vụ điều tiết chế độ ăn uống, cân bằng chuyển hóa chất đạm và chất béo dư thừa. Hằng năm, người dân Hoa Kỳ uống hơn 2 tỷ gallons nước trà (tương đương 7 tỷ 560 triệu lít), hầu hết là trà ướp lạnh.
Thang điểm theo hệ thống 5 sao:
- Nghiên cứu với con người tại dưỡng đường: **
- Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm: ***
- Lịch sử ứng dụng theo tập quán cổ truyền: ****
- Sự thừa nhận về mặt quốc tế: ****
- Báo cáo về mức độ an toàn: ***
Bộ phận dùng làm thuốc:
Toàn phần lá xanh, chủ yếu lá non còn gọi là búp trà. Đôi khi người ta dùng cả lá già nhưng phẩm chất kém hơn lá non, tính chất chát vì chứa nhiều thành phần tannin.
Thành phần hóa học:
1. Trong sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” ấn bản mới nhất năm 2000 của Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi có ghi một vài thông tin về thành phần hóa học trong lá trà như sau:
- Chứa 20% tanin.
- Cafein với tỉ lệ 1.5-5%.
- Một số vitamin B1, B2, và C.
- Đặc biệt tanin trong chè có tác dụng như một vitanmin P vì đây là hỗn hợp của catechin và dẫn xuất của catechin có cấu trúc hóa học của vitamin P.
2. Theo tài liệu về trà của Hoa Kỳ, được biết trong lá trà xanh chứa một hàm lượng hóa chất thật phong phú, gồm có:
- Polyphenolic flavonoids gồm 3 chất: Epicatechin, epigallocatechin và gallate esters.
- Quercetin, myricetein.
- Tannins, terpenoids và alkaloids chủ yếu gồm: catteine, theobromine và theo phylline.
- Vitamins B1, B2, C, folic acid (vitamin B9), chất béo (fat), potassium, magnesium và vitamin P ở dạng chuyển hóa từ catechin.
Tác dụng:
1. Theo kinh nghiệm cổ truyền:
- Giúp nâng cao sức khỏe.
- Trị bệnh tim mạch và gan
- Giữ cho răng bền, chắc, ngăn ngừa sâu răng.
- Chữa lỏng lỵ, tiêu chảy do nhiễm khuẩn Shigella.
2. Theo nghiên cứu khoa học:
- Lá trà chứa những hợp chất chống oxy-hóa (antioxidant) rất mạnh, có khả năng ức chế phản ứng của gốc tự do (free radical reactions). Xin nói thêm, gốc tự do là cụm từ chuyên môn về sinh-hóa, chỉ một hợp chất không bền và phản ứng rất nhanh với những phân tử khác. Không phải gốc tự do nào cũng có hại. Cơ thể chúng ta cần gốc tự do để sản xuất năng lượng, hormones, enzymes, nhận mệnhleenhj từ hệ thống miễn dịch tiêu diệt vi khuẩn và vi trùng. Tuy nhiên, khi gốc tự do sản xuất quá mức cần thiết sẽ trở thành kẻ khá hoại, làm hư hỏng mô (tissues), tế bào (cells), thay đổi cấu trúc chất đạm (proteins) làm sụp đổ hệ thống miễn dịch và cuối cùng dẫn tới nguy cơ mắc nhiều chứng bệnh hiểm nghèo trong đó có bệnh ung thư máu (leukemia) và hàng loạt bệnh ung thư khác.
- Gia tăng tác động bảo vệ cơ thể nhờ các enzymes chống oxy-hóa.
- Cải thiện tỷ số giữa mỡ xấu (bad cholesterol-low density lipoprotein-LDL) và mỡ tốt (good cholesterol-high density lipoprotein-HDL)
- Giúp hạ bớt lượng hợp chất độc hại do enzymes trong gan bị oxy-hóa sinh ra.
- Bảo vệ răng, lợi, giúp ngăn ngừa chứng sâu răng (cavities).
- Kháng tế bào ung thư, chặn đứng việc phát sinh khối u (tumors).
Khảo sát - Kết quả:
- Vào năm 1992, một cuộc nghiên cứu lâu dài đối với những phụ nữ Nhật thường xuyên uống trà theo nghệ thuật “Trà đạo” cho kết quả rất đáng kinh ngạc: Hầu hết số người tham dự cuộc khảo sát có tỉ lệ tử vong thấp hơn so với những người không hoặc ít dùng trà.
- Một cuộc khảo sát khác ghi nhận khoảng 8,8% người dân Trung Quốc đều uống trà mỗi ngày và kết quả cho biết tỉ lệ người mắc bệnh ung thư ruột già (colon cancer) thật hiếm hoi.
Báo cáo khoa học:
Trong vòng 15 năm trở lại đây, nhiều báo cáo khoa học chú ý đến tác dụng của trà xanh với đặc điểm làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư một cách đáng kể. Ngay trong phòng thí nghiệm, hàng trăm cuộc khảo sát nhằm lượng giá về vai trò chống oxy-hóa của trà xanh, các nhà nghiên cứu ghi nhận polypenols là tác nhân chính giúp ngăn ngừa và hạ thấp mức độ gây bệnh. Có một vài báo cáo thuộc phạm vi dịch tể học (epidemiology) tỏ ra hoài nghi về ảnh hưởng của polypenols đối với bệnh đường ruột, cho rằng trà xanh chỉ có khả năng bảo vệ chống lại ung thư ruột già nhưng không có tác dụng đối với ung thư dạ dày (stomach cancer),còn trà đen (black tea) thì làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi (lung cancer) và ung thư ruột già. Thực tế, báo cáo nói trên không đủ thuyết phục trước hàng loạt báo cáo khác đã mạnh mẽ tuyên dương trà xanh về nhiều lĩnh vực khác nhau. Vã lại, trà chỉ là thực phẩm bổ trợ (supplement), không thể qui kết trách nhiệm trong khi sức khỏe chịu ảnh hưởng phần lớn bởi thói quen ăn uống và rèn luyện thân thể hàng ngày. Cho nên, trà xanh vẫn có một địa vị vững chắc trên hầu hết các báo cáo khoa học vĩ mô.
- Giảm nguy cơ ung thư:
. Mức tiêu thụ caffenie trong đồ uống, đặc biệt là trà xanh, làm thay đổi dung lượng hormone và giảm thiểu nguy cơ ung thư vú (breast cancer).
. Trong một cuộc nghiên cứu khác cho thấy trà xanh còn giúp hạ thấp một vài tác dụng đột biến xấu phát sinh từ việc nghiện hút thuốc lá
. Theo dõi một người bị ung thư dạ dày với những tiên lượng rất xấu, sau khi cho uống trà xanh mỗi ngày hơn 10 chén và kéo dài trong 3 tháng, đem mẫu máu và dịch dạ dày đi thử thì thấy tế bào gây ung thư chẳng những không tăng trưởng mà còn hao mòn dần.
. Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã cho khảo sát và so sánh giữa 2 nhóm nam nữ bệnh nhân Trung Quốc bị ung thư ruột già và ung thư tụy tạng (pancreatic cancer). Sau thời gian cho uống trà xanh nhận thấy ung thư ruột già giảm phát triển, đặc biệt phụ nữ có hiệu ứng với trà mạnh hơn nam giới.
- Khỏe tim và gan:
. Trong một cuộc nghiên cứu người Nhật ở độ tuổi trên 40 nhằm khảo sát hoạt động của hệ thống tim mạch và gan, các nhà khoa học Hoa Kỳ thử cho uống mỗi ngày trên 10 chén trà thì thấy mức cholesterol và triglycerides trong máu đều hạ xuống; đồng thời tế bào gan cũng được bảo vệ, tránh sự hư hỏng do phản ứng enzymes tăng lên.
. Đối với những tai biến mạch máu não (stroke), nhóm phụ nữ dùng trà xanh hàng ngày có kết quả ít gặp rủi ro hơn nhóm không dùng trà.
. Một sự kiện hơi nghịch lý về loại trà đen là sau vài cuộc khảo cứu, các nhà khoa học ghi nhận trà đen không có chút ảnh hưởng nào tới bệnh tim mạch. Điều này có nghĩa trà đen mất hết năng lực trị bệnh sau khi đổi màu cho dù có cùng thành phần cấu tạo như trà xanh. Trái lại, trà xanh chứng tỏ một cách hiển nhiên về tác dụng gây kích thích, ảnh hưởng tốt đến bệnh tim mạch qua hàng loạt mẫu thử nghiệm khác nhau.
Thế thì trà xanh, trà ô long và trà đen có gì khác nhau? Trà xanh là loại trà tươi đem phơi sấy khô tự nhiên. Trà ô long là loại trà xanh đem ủ cho lên men một nữa giai đoạn, khi đổi sang màu hơi sậm thì ngưng. Còn trà đen cũng là trà xanh ủ cho lên men hết giai đoạn chuyển thành màu đen sậm mới đạt quy trình. Cách ủ trà cho lên men không giống phương pháp lên men cất rượu nho và thường mang tính gia truyền.
. Các nhà khoa học tin rằng trà xanh chiết xuất có khả năng làm hạ mức mỡ xấu (bad cholesterol-LDL) trong máu, đầu mối gây ra bệnh tim mạch. Nhiều cuộc khảo sát trong phòng thí nghiệm ghi đậm nét sức mạnh của polypenols trong trà xanh là ngăn chặn hoặc làm chậm tiến trình bộc phát một số bệnh nguy hiểm. Các nhà khoa học ghi nhận trong polypenols có một dẫn xuất đặc biệt tên là catechins có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của 3 loại tế bào gây ung thư cho con người nhưng không ảnh hưởng gì đến các tế bào lành mạnh. Epigallocatechin gallate, một trong những hợp chất chủ yếu trong trà xanh, tạo rào cản mạnh hơn sức bành trướng của ung thư và nếu được dùng kết hợp với các loại thuốc trị ung thư như sunlindac, tamoxifen thì hiệu quả sẽ cao hơn nữa. Epicatechin trong trà xanh là chất chống oxy-hóa mạnh, có năng lực ngăn ngừa nguy cơ phát sinh tế bào ung thư.
- Tăng sức khỏe cho răng: Có ít nhất 14 cuộc nghiên cứu xem trà xanh có ảnh hưởng gì đến chức năng của răng hay không, các nhà khoa học ghi nhận chất polyphenols trong trà xanh có tác dụng ngăn chặn cả hai sự tích tụ đường và vi khuẩn bám vào bề mặt của răng, nhân tố dẫn tới bệnh sâu răng và hư răng.
- Năng lực chống oxy-hóa: Theo báo cáo khoa học tại Nhật, Hoa Kỳ và Anh cho biết cả hai loại trà xanh và trà đen đều có tác dụng chống oxy-hóa nhờ nguồn hợp chất antioxidant polyphenols rất dồi dào chứa trong lá trà. Mặc dù hàm lượng polyphenols tập trung trong trà đen thấp hơn trong trà xanh đến 20 lần nhưng hiệu quả không phải không đáng kể. Chỉ một điểm yếu kém của trà đen là không thấy bằng chứng về sức mạnh kháng ung thư và còn ý kiến cho rằng dùng trà đen sẽ gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư.
Trong một số thí nghiệm khác, các nhà khoa học nhận xét uống trà mà pha thêm sữa sẽ phải đối diện với một biến cố bi đát là làm suy giảm khả năng chống oxy-hóa vì chất đạm trong sữa ức chế, nói đúng hơn là trói chặt hoạt động của polyphenols.
Nghiên cứu đặc biệt:
1. Khả năng ngăn ngừa ung thư:
Năm 1997, một cuộc kiểm chứng khá qui mô với 8,552 người dân Nhật, cả đàn ông lẫn đàn bà trên 40 tuổi, các nhà nghiên cứu ghi nhận người nào có thói quen uống trà xanh thường xuyên đều có khuynh hướng giảm mắc bệnh ung thư. Cuộc điều nghiên khởi sự với những câu hỏi liên quan đến tình trạng sức khỏe, thói quen ăn ăn uống hàng ngày và uống trà. Tiếp theo, cho xét nghiệm mẫu máu những người tham dự có uống trà để tìm câu trả lời về hoạt động tim mạch và chức năng của gan. Nhóm nghiên cứu được chia thành 2 nhóm nhỏ, mỗi nhóm báo cáo dựa trên tiêu điểm: ”Chuyện gì xảy ra đối với số người uống trà xanh trên 9 năm và mỗi ngày uống trên 10 chén”. Kết quả có mẫu số chung là giảm bị ung thư, số năm uống trà xanh càng cao thì tỉ lệ mắc bệnh ung thư càng thấp một cách hiển nhiên, đặc biệt đàn bà tiếp thu hiệu quả mạnh hơn đàn ông. Điều đáng tiếc là những người tuy đạt tiêu chuẩn về thời gian và số lượng trà dùng hàng ngày mà nghiện thêm thuốc lá hoặc có cuộc sống luôn biến động, tỉ lệ mắc bệnh ung thư có khuynh hướng gia tăng. Theo báo cáo, bất luận là đàn ông hay đàn bà, hễ uống được trên 10 chén trà mỗi ngày đều cho đáp số giảm nguy cơ bị ung thư như nhau,ngoại trừ những người hút thuốc lá như vừa kể.
2. Khả năng cải thiện ung thư phát triển:
Năm 1998, một cuộc nghiên cứu trong vòng 7 năm đưa ra kết luận, những người thường uống trà xanh tự trong cơ thể họ sản xuất ra kích thích tố chống lại ung thư vú (breast cancer). Cuộc nghiên cứu thực hiện với 472 phụ nữ bị ung thư vú cả 3 thời kì I, II, III. Tiểu sử mỗi người bệnh có ghi đầy đủ chi tiết về tình trạng sức khỏe, đời sống, thói quen ăn uống và trải qua cuộc khám ngực để xác định kích thước khối u (tumor), chỉ số hạch bạch huyết đã di căn (metastasized lymph nodes) cũng như những dấu vết khác. Sau đó, cho họ uống trà xanh rồi tăng liều lượng lên dần. Qua xét nghiệm, các nhà nghiên cứu thấy chỉ số hạch bạch huyết di căn giảm xuống trước chu kỳ kinh nguyệt đối với những phụ nữ bị ung thư vú thời kì thứ I và II; đồng thời các thụ thể (receptors) kích thích tố progesterone và estrogen lại tăng lên đối với những phụ nữ bước vào thời kì mãn kinh (postmenopause). Tất cả nhân tố này rất quan trọng, nhờ đó xác định được tiên lượng xấu hoặc tốt tiến độ bành trướng của ung thư.
Báo cáo chỉ rõ những phụ nữ nào uống trà xanh mỗi ngày trên 5 chén, sau một thời gian dài cũng có dấu hiệu giảm ung thư ở thời kì I, II, nhưng thường tái phát và phải chờ đạt thời lượng trên 6 năm dùng trà mới thuyên giảm thật sự. Điểm đáng lưu ý là trà xanh không có tác dụng đối với các bệnh nhân bị ung thư thời kì thứ III.
- Hạ Cholesterols:
Năm 1995, khảo sát 1,371 đàn ông Nhật thường uống trên 10 chén trà xanh mỗi ngày (ước chừng 40 ounces, tương đương 1,2 lít), các nhà nghiên cứu thấy tất cả chỉ số cholesterols và mỡ trong máu đều hạ thấp. Lấy mẫu máu từ những người uống trà đi xét nghiệm, có 2 kết quả được báo cáo: Chỉ số mỡ tốt (good cholesterol-HDL) tăng lên trong khi mỡ xấu (bad cholesterol-LDL) giảm xuống và còn giảm luôn cả nồng độ hóa chất liên hệ đến việc gây hại tế bào gan.
Bằng chứng về sự cải thiện tỉ số giữa mỡ xấu (LDL) vói mỡ tốt (HDL) đã được thừa nhận cũng đồng thời biểu lộ khả năng của trà xanh làm giảm nguy cơ về bệnh xơ cứng động mạch (arteriosclerosis), bởi vì mỡ xấu là thủ phạm tao ra chất bợn (plaques) bám bên trong thành mạch gây nghẽn tắc lưu thông của máu và làm mạch máu mất tính đàn hồi. Trà xanh làm giảm tỷ số mỡ xấu rõ ràng, cứu nguy luôn cho cả bệnh gan và bệnh tim.
Trà xanh tác động như thế nào?
Ngày nay các nhà nghiên cứu đều biết rằng phần lớn bệnh tật có liên hệ đến gốc tự do là loại hóa chất độc hại gây phản ứng cao làm hư hỏng tế bào di truyền DNA (dẽoyribonucleic acid), chất đạm (proteins) và những phân tử khác trong cơ thể. Hợp chất chống oxy-hóa tìm thấy trong trà xanh thuộc cấu trúc polyphenols gồm dẫn xuất đặc biệt mang tên catechins được các phòng thí nghiệm coi như tác nhân chống oxy-hóa cao nhất so với các hợp chất khác hiện diện trong lá trà. Sức mạnh của polyphenols nói chung, catechins nói riêng, tác động bằng nhiều cách khác nhau:
- Thứ nhất, polyphenols ngăn cản sự kích hoạt cytochrome P-450, một trong những đầu mối hình thành ung thư. Nên biết rằng cytochrome P450 là một hệ thống enzyme của gan, thường giúp cơ thể tống xuất độc tố và chuyển hóa dược phẩm, nhưng vài trường hợp cytochrome P450 lại trở thành chất gây ung thư (carcinogens).
- Thứ hai, polyphenols cũng có khả năng gia tăng cường độ chống oxy-hóa đối với vài thành phần mô và làm giảm tính dễ thụ cảm tạo khối u nhờ đặc tính nâng cao tác động một số enzymes chống oxy-hóa tự nhiên bên trong cơ thể bao gồm men khử glutathione (glutathione reductase) và men truyền glutathione-S (glutathione-S-transferase).
- Thứ ba, polyphenols xuất hiện nhằm ngăn ngừa việc thành lập chất gây ung thư thường tiềm ẩn bên trong một số thực phẩm chế biến hiện nay vốn mang những hợp chất gây đột biến xấu cho sức khỏe.
Mức độ an toàn:
Trà xanh, nói chung, không có chất độc và an toàn. Tính ra, mỗi chén trà chứa hơn 50mg chất caffeine trong khi cà phê chứa tới 85mg. Caffeine vốn là một chất kích thích hệ thống thần kinh, do vậy không nên dùng quá liều lượng và kéo dài thời gian. Có một vài loại trà được khử bỏ chất caffeine, tuy nhiên không ảnh hưởng gì đến hàm lượng polyphenols.
- Phản ứng phụ: Cả hai loại trà xanh và trà đen đều chứa chất caffeine, giống như cà phê, tất nhiên dễ gây phản ứng phụ (side effects) như là: Trạng thái hốt hoảng, loạn nhịp tim, lo âu, bồn chồn, mất ngủ, rối loạn tiêu hóa. Chất tannis trong trà có thể gây xáo trộn dạ dày.
- Chống chỉ định: Trà xanh tuy được xem như không có chất độc nhưng phụ nữ có thai và những người bị cao huyết áp, loạn nhịp tim, hay bồn chồn, rối loạn tiêu hóa, mất ngủ kinh niên, tiểu đường và viêm loét dạ dày nên kiêng cử đồ uống có chứa caffeine. Uống trà quá giới hạn sẽ gây táo bón, khó tiêu, hoa mắt, tim đập nhanh, dễ nổi nóng và mất ngủ. Trà cũng không phải là đồ uống dành cho trẻ em.
- Phản ứng với thuốc: Theo một số tài liệu, kể cả Tiến sĩ C.Norman Shealy nêu ra trong quyển Natural Remedies, lưu ý rằng trà xanh có thể ảnh hưởng đến tác dụng của vài loại thuốc, như allopurinol trị bệnh viêm thoái khớp hay bệnh gút (gout), thuốc kháng sinh (antibiotic), thuốc chống viêm loét (antiucer) và thuốc theophylkline trị hen suyễn. Ngoài ra, trà xanh còn ngăn cản sự hấp thụ chất sắt và làm suy yếu công năng các loại thuốc giảm đau.
Liều dùng:
- Trung bình mỗi ngày uống từ 2-3 chén, nhưng nhiều cuộc khảo sát cho thấy liều dùng tăng cao hơn 10 chén (ước chừng 40 ounces, tương đương 1.2 lít) vẫn an toàn.
- Trà xanh đạt tiêu chuẩn quốc tế, hàm lượng polyphenols thường đạt tới tỉ lệ 97%, trong đó 60% là loại chất catechins.
- Tiêu chuẩn về trà chiết xuất hay tinh chế mạnh yếu khác nhau, do đó liều lượng phải theo sự hướng dẫn cho thích hợp. Nếu tiêu chuẩn trà tinh chế đạt tỉ lệ 90% polyphenols, liều dùng mỗi ngày trung bình từ 250-400mg. Nếu là trà thô sấy khô, ngày dùng từ 2-5 chén, mỗi chén nước sôi tương đuơng 1 muỗng cà phê trà.
- Pha trà là cả một nghệ thuật. Tuy nhiên có vài chỉ dẫn căn bản cần nắm vững. Điều kiện tốt nhất để pha trà xanh đòi hỏi trước hết là nước phải trong sạch và mát, đun với ngọn lửa nhẹ, thời gian đun sôi cà hãm trà không quá 3 phút. Riêng trà đen và trà ô long cần đun sôi lâu hơn nhưng cũng không quá 5 phút.
Để kết thúc bài Trà xanh, xin cống hiến một công thức trị chứng mỡ máu cao, tức cholesterol huyết cao hơn 199mg/dl, vừa an toàn vừa hiệu nghiệm:
- Công thức:
Trà xanh 12g
Linh chi thảo phiến 12g
Sơn tra phiến 12g
Trần bì 12g
Hà thủ ô 12g
Tử đan sâm 12g
- Cách dùng: Nấu với 1 lít nước (32 ounces), uống thay nước lọc hoặc thay trà, liên tục vài tháng. Uống càng lâu kết quả càng cao.
- Chủ trị: Cơn đau thắt ngực, nghẽn động mạch vành, xơ cứng động mạch chủ, cao huyết áp, mập phì, cao cholesterol, u bướu, ngăn ngừa ung thư, sưng gan, chai gan, tẩy độc, giúp máu lưu thông nhanh hơn. Đã nghiệm trị trên 30 năm, kết quả thật kỳ diệu.
Đông Y Sĩ CẢNH THIÊN
CHƯƠNG 10:
HỆ THỐNG SINH DỤC
(The Reproductive System)
TỔNG QUÁT
Phần lớn chức năng các hệ thống cơ quan trong cơ thể con người là làm việc cần mẫn, tiếp tục duy trì sự hoạt động một cách hoàn hảo. Chỉ riêng hệ thống sinh dục (reproductive system) làm việc trong tình trạng ngái ngủ, “ có mà như không”, mãi cho đến tuổi dậy thì (puberty) mới bắt đầu hăng say hoạt động.
Ở nam giới, cơ quan sinh dục nguyên thủy còn gọi là tuyến sinh dục (gonads), ám chỉ tinh hoàn, là hòn dái hay ngoại thận (testes); còn ở nữ giới gọi là buồng trứng (ovaries).
Tuyến sinh dục giữ trọng trách sản xuất tế bào sinh dục (sex cells), giao tử (gametes) và tiết xuất các kích thích tố sinh dục (sex hormnes). Cấu trúc của những phần còn lại trong hệ thống sinh dục gồm một số cơ quan sinh dục giũ vai trò tiếp trợ. Mặc dù cơ quan sinh dục của nam giới hoàn toàn khác với cơ quan sinh dục của nữ giới nhưng sự liên kết giữa hai cơ quan này có một mục tiêu chung là sinh con.
Vai trò sinh dục của nam giới là chế tạo các giao tử giống đực gọi là “tinh trùng” (sperm) và phân phối chúng vào trong cơ quan sinh dục của nữ giới. Ngược lại, cơ quan sinh dục của nữ giới sản xuất các giao tử giống cái gọi là “trứng” (ova, eggs). Gặp thời gian thích hợp, tinh trùng và trứng kết hợp với nhau để sản xuất một cái trứng thụ tinh. Đây chính là tế bào đầu tiên về một con người mới.
Một khi sự thụ thai xảy ra, tử cung (uterus) chuẩn bị một mạng lưới bảo vệ chung quanh cái phôi (embryo) thật cẩn thận. Chẳng bao lâu sau đó, cái phôi biến thành thai nhi (fetus) và tăng trưởng dần dần cho đến lúc sinh ra.
Kích thích tố sinh dục giữ vai trò sinh động về hai vấn đề thuộc giới tính: phát triển sinh dục và chức năng sinh sản.
A. HỆ THỐNG SINH DỤC NAM
(Male Reproductive System)
- Như đã trình bày, cơ quan sinh dục nguyên thủy của đàn ông là tinh hoàn. Đây chính là cơ quan sản xuất exocrine, chất làm ra tinh trùng và endocrine, chất làm ra testoseerone.
- Các cấu trúc khác của hệ thống sinh dục gồm ống dẫn (ducts) hoặc tuyến (glands) là những phần phụ trợ để giúp vận chuyển tinh trùng từ trong ra ngoài cơ thể hoặc rót vào cơ quan sinh dục của phụ nữ.
1. TINH HOÀN (Testis)
- Bình thường, mỗi người đàn ông có hai tinh hoàn nằm song song trong một chiếc nang (capsule) màu trắng làm bằng mô liên kết gọi là tunica albuginea, được treo lơ lửng ngay dưới dương vật. Mỗi tinh hoàn, kích thước và hình dáng bằng trái olive, dài khoảng 4.00 cm và rộng khoảng 2.50 cm.
- Mỗi chiếc nang có nhiều “cánh tay” duỗi dài, thuật ngữ chuyên môn gọi là “vách” (septa), chọc sâu vào tinh hoàn và chia tinh hoàn thành nhiều tiểu thùy (lobules). Đây chính là nhà máy sản xuất tinh trùng. Bên trong nhà máy này lại có nhiều tế bào có cấu trúc khá đặc biệt, tên là tế bào kẽ (interstitial cells), giữ nhiệm vụ sản xuất ra chất kích thích tố nam (androgens) và quan trọng hơn nữa là hormone sinh dục nam (testosterone).
2. HỆ THỐNG ỐNG DẪN (Duct System)
Bộ phận vận chuyển tinh trùng từ trong nhà máy sản xuất ra bên ngoài gồm có: mào tinh hoàn (epididymis), ống tinh (ductus deferens) và ống tiểu (urethra).
Mào tinh hoàn (epididymis):
- Hình dấu phẩy, dài khoảng 6 mét (20 feet), cuộn vào nhau giống như những sợi mì gói, khởi đi từ phần trên tinh hoàn chạy xuống tới dưới thấp, cặp theo hông tinh hoàn. Đây là phần đầu tiên của hệ thống ống dẫn và là kho chứa tạm thời để nuôi dưỡng tinh trùng từ tinh hoàn chuyển sang còn trong giai đoạn chưa trưởng thành.
- Qua cuộc hành trình dài 20 ngày để đi hết “đoạn đường chiến binh” đầy gian nan, ngoằn ngoèo khúc khuỷu như con rắn, tinh trùng tự trưởng thành và còn biết cách bơi lội.
- Khi người đàn ông được tính dục kích thích, các vách của mào tinh hoàn co nhỏ lại để ép tinh trùng phóng xuất sang một ống khác có tên là ống tinh (ductus deferens).
Ống tinh (ductus, vas deferens):
- Chạy từ mào tinh hoàn xuyên qua ống bẹn (inguinal canal), vào lên trên để vào khung chậu (pelvic cavity) và đi qua phần trên của bàng quang (bladder) có hình vòm giống như một chiếc cầu treo.
- Cặp theo ống tinh là những mạch máu là những dây thần kinh được bọc trong một chiếc vỏ làm bằng mô liên kết có tên là thừng tinh trùng (spermatic cord).
- Phần đuôi của ống tinh cắm vào ống phóng tinh (ejaculatory duct) xuyên qua tuyến tiền liệt (prostate glands) rồi cuối cùng hiệp với ống tiểu (urethra).
- Chức năng chính yếu của ống tinh là đẩy tinh trùng từ kho tồn trữ vào ống tiểu. Vào thời khắc xuất tinh, một chất sền sệt trơn nhớt và dày đặc từ các cơ trên bên trong vách ống tinh tiết ra tạo những lực sóng nhu động ép tinh trùng lao về phía trước một cách nhanh lẹ không thua gì thời khắc phóng phi thuyền lên không gian.
- ống dẫn tinh là nơi mà các nhà chuyên môn chọn lựa để phẩu thuật cột hay cắt, thuật ngữ chuyên khoa gọi là “thủ thuật cắt bỏ ống dẫn tinh” (vasectomy) nhằm mục đích ngừa thai ở nam giới. Thao tác giải phẩu tương đối nhẹ nhàng, các Bác sĩ rạch một đường nhỏ vào tới bìu dái rồi cắt đứt hẳn hoặc đốt ống tinh cho teo kín lại. Điều này không ảnh hưởng tới tinh trùng. Tinh trùng vẫn được sản xuất, chỉ không được phép “vui chơi” bên ngoài, cuối cùng bị hư hoại và được tái hấp thu.
Ống tiểu (urethra):
- Kéo dài từ đáy bàng quang (urinary bladder) đến đỉnh dương vật (penis), là phần chót của hệ thống ống dẫn. Nó có 3 tên ở ba khu vực khác nhau:
1. Niệu đạo tiền liệt tuyến (prostatic urethra) được bao bọc bởi tuyến tiền liệt (prostate gland)
2. Màng ống tiểu (membranous urethra) nằm ở khoảng giữa từ niệu đạo tiền liệt tuyến đến dương vật.
3. Ống xốp dương vật (spongy penile urethra) chạy dọc phía trong, gần trọn chiều dài của dương vật.
- Như đã giải thích, đường ống dẫn tiểu của nam giới đảm nhận vai trò vận tải nước tiểu và tinh trùng ra khỏi cơ thể; vì vậy, nó phục vụ cho cả hai cấp lãnh đạo: hệ thống tiểu tiện và hệ thống sinh sản. Tuy nhiên, nước tiểu và tinh trùng không bao giờ thoát ra cùng một lượt. Khi sự xuất tinh xảy ra và tinh trùng theo ngã đường ống phóng tinh vào niệu đạo tiền liệt tuyến, bàng quang sẽ co thắt lại thật chặt nhằm chặn đứng nước tiểu tràn vào ống tiểu và còn ngăn ngừa tinh trùng xâm nhập vào bàng quang.
3. TRỢ TUYẾN VÀ TINH DỊCH (Accessory Glandds & Semen)
Các tuyến phụ thuộc của hệ thống sinh dục nam gồm có:
- Một cặp túi tinh (seminal vesicles).
- Một tuyến tiền liệt (prostate glands).
- Tuyến hành-niệu đạo, còn gọi là tuyến hành-hang (bullourethral glands). Những tuyến này sản xuất một số lượng lớn tinh dịch, tức nước nhờn chứa đựng tinh trùng để dùng vào việc đẩy tinh trùng ra khỏi “kho” dự trữ vào lúc xuất tinh.
Túi tinh (Seminal Vescicles)
- Nằm phía dưới đáy của bàng quang (bladder)
- Sản xuất khoảng 60% dung tích tinh dịch, một thứ nước đặc sệt màu hơi vàng có chứa đường fructose, vitamin C, prostaglandins cùng nhiều chất khác dùng để nuôi dưỡng và tác động tinh trùng trôi qua ống.
Tuyến tiền liệt (prostate glands):
- Là một tuyến đơn độc, kích thước và hình dáng bằng hạt dẻ (chestnut).
- Bọc kín lấy phần trên ống tiểu, ngay sát dưới đáy bàng quang.
- Tiết ra một chất giống như sữa, giữ vai trò kích động tinh trùng.
- Có thể chẩn đoán bằng cách dùng ngón tay luồn vào hậu môn thăm dò phía trước trực tràng.
- Thường bị nguyền rủa là thứ “ăn hại” chuyên phá hoại sức khỏe con người. Bởi vì tuyến tiền liệt có khuynh hướng sưng to, bóp nghẹt ống tiểu gây bí tiểu hoặc tiểu vặt, ảnh hưởng đến đàn ông trên 50 tuổi. Càng già nguy cơ sưng tuyến tiền liệt, viêm bàng quang và hư thận càng cao.
Tuyến hành-niệu đạo (bullourethral glands):
- Hình thể nhỏ như hạt đậu, nằm phía dưới tuyến tiền liệt.
- Chuyên sản xuất chất dịch nhầy, trong, đặc sệt.
- Cung ứng chất nhờn trong lúc phóng tinh, đồng thời làm sạch đường tiểu.
Tinh dịch (semen):
- Là một chất lỏng sền sệt trắng như sữa, phan trộn với tinh trùng và các chất khác, được phóng ra khỏi dương vật khi người đàn ông đạt đến điểm cực khoái trong lúc giao hợp.
- Mỗi lần phóng tinh có tới 300-500 triệu tinh trùng bơi lội trong “biển tinh dịch”, sống khỏe mạnh nhờ cung cấp đầy đủ năng lượng bởi đường fructose được tổng hợp một cách tự nhiên trong tinh dịch.
- Tinh dịch thường có độ kiefn (alkalinity) từ pH7.6 để giúp tinh trùng di động dễ dàng. Nếu kiềm tính dưới pH 6, tinh trùng trở nên lờ đờ, chậm chạp.
- Tinh dịch còn có nhiệm vụ pha loãng tinh trùng; nếu không, sự di động của tinh trùng sẽ bị trì trệ, yếu kém. Trong lúc xuất tinh, số lượng tinh trùng được đẩy ra tương đối ít, ước chừng 1 muỗng cà phê hoặc 5 mililit (ml), nhưng trong mỗi ml có chứa tới 100-130 triệu tinh trùng.
- Tinh trùng ít hoặc không có tinh trùng do nhiều nguyên nhân: Sự cằn cỗi bởi tuổi già, bế tắc hệ thống ống dẫn, thiếu sự cân bằng hormone… Nếu 1 ml tinh dịch chứa tới 20 triệu tinh trùng sẽ rất khó có con.
4.CƠ QUAN SINH DỤC NGOÀI (External Genitalia)
Bộ phận sinh dục ngoài của nam giới gốm có: Bìu dái (csrotum) và dương vật (penis).
a. Bìu dái:
- Là một chiếc túi da treo lơ lửng bên dưới vùng hạ phúc (bụng dưới) giữa hai chân và sát gốc dưới dương vật.Trong tình trạng bình thường, bìu dái chỉ gắn một đầu vào sát mặt dưới dương vật, phần còn lại phơi bày lộ liễu cả một di sản nguyên thủy của người đàn ông.
- Chức năng của bìu dái là cung cấp cho tinh hoàn nức nhiệt lượng thấp hơn nhiệt lượng của cơ thể, trung bình dưới 3 độ C, để duy trì sự trưởng dưỡng tinh trùng được khỏe mạnh. Khi nhiệt độ ngoài trời rất lạnh, bìu dái trở nên săn cứng, co rúm lại, nhằm kéo hai tinh hoàn sát lên trên cho gần với nhiệt độ từ trong thân thể tỏa ra. Sự biến đổi này hoàn toàn tự động.
b. Dương vật:
- Được cấu tạo để vận tải tinh trùng vào trong ống sinh dục của nữ giới.
- Là một thỏi hình trụ nhưng không tròn và cũng không đều, được bao bọc bởi lớp da mềm có tính co giãn lớn. Đầu trong nhỏ, gọi là cán (shaft), gắn chặt vào phần cơ xương mu; còn đầu ngoài phì đại gọi là “tuyến dương vật” hay qui đầu (glans penis).
- Bên trong dương vạt có một đường ống dẫn tiểu, mềm xốp, được bọc chung quanh bởi ba vùng cấu tạo bằng mô cương (erectile tissue) chuyên lo việc “bơm” và “giam” máu giữa lúc kích thích giao hợp. Đây là động lực làm cho dương vật nở lớn và cứng tối đa. Sự kiện này gọi là “cương” (erection); đồng thời giúp dương vật đáp ứng vai trò phóng xuất tinh dịch vào tới điểm tiếp nhận của cơ quan sinh dục nữ.
- Kích thước của dương vật tùy thuộc vào 3 yếu tố: tuổi tác, mức độ kích thích và chủng tộc. Lúc mới sinh ra dương vật rất nhỏ và ngắn nhưng tới tuổi trưởng thành thì to và dài. Khi được kích thích đúng mức, dương vật to phồng và dài hết mức để sẵn sàng giao hợp. Dương vật của đa số đàn ông thuộc các sắc dân Châu Phi, Châu Âu, Châu Mĩ, Châu Úc thường to và dài hơn các sắc dân Châu Á trừ một số trường hợp biệt lệ.
5. CHỨC NĂNG CƠ QUAN SINH DỤC NAM (Male Reproductive Functions)
Vai trò chính yếu của nam giới trong tiến trình sinh dục là sản xuất tinh trùng (sperm) và hormone testosterone.
a. Tinh trùng (Spermatogenesis):
- Tinh trùng được sinh ra từ lứa tuổi dậy thì và kéo dài cho đến hết cuộc đời. Mỗi ngày. Mỗi ngày một người đàn ông sản xuất hàng triệu tinh trùng.
- Sự hình thành tinh trùng xảy ra bên trong những ống chứa tinh nhỏ xíu của tinh hoàn. Tiến trình sản xuất tinh trùng (spermatogenesis, sperm production) có liên quan mật thiết đến phản ứng của hormone kích thích nang trứng (follicle-stimulating hormone-FSH) và sự phân bào (meiosis).
b. Sản xuất kích thích tố (Testosterone Production):
- Kích thích tố testosterone được sản sinh bắt đầu từ tuổi dậy thì do sự đáp ứng của hormone tạo hoàng thể (luteinizing hormone-LH)
- Kích thích tố testosterone đáp ứng được một số nhu cầu: Tiếng nói lớn và trầm ấm, râu tóc mọc dài và mọc dày trên khắp cơ thể, giúp tăng trưởng cơ xương nhằm giúp bắp thịt chịu đựng được những vật nặng.
B. HỆ THỐNG SINH DỤC NỮ (Female Reproductive System)
Vai trò sinh dục của phụ nữ phức tạp, rắc rối hơn đàn ông rất nhiều. Không chỉ đảm trách sản xuất giao tử hay trứng (gametes, ova), cơ thể phụ nữ còn phải lo trưởng dưỡng và bảo vệ bào thai (fetus) suốt thời gian hơn 9 tháng của thai kỳ (pregnancy).
Buồng trứng (ovaries) là cơ quan sinh dục nguyên sơ của nữ giới. Giống như tinh hoàn nam giới, buồng trứng sản xuất cả hai sản phẩm: Sản phẩm ngoại tiết (exocrine product) gồm trứng (eggs, ova) và sản phẩm nội tiết (endocrine products) gồm estrogens và progesterone. Ngoài ra, còn một số cơ quan phụ trợ khác đóng vai trò chuyển vận, nuôi dưỡng, cung cấp tế bào sinh dục hoặc sự phát triển thai nhi khi được yêu cầu hay cần đến.
1. BUỒNG TRỨNG (Ovaries)
- Buồng trứng, còn gọi là noãn sào (ovary) , là cơ quan sinh dục chjinhs yếu của phụ nữ, sản sinh ra noãn hay tế bào trứng (ova, egg cells) và các hormone theo một chu kỳ đều gọi là chu kỳ kinh nguyệt (menstrual cycle).
- Có hai noãn sào ở trong bụng dưới, mỗi cái ở một bên tử cung (womb). Mỗi noãn sào có chứa nhiều tiểu nang (fokkices), trong đó có noãn phát triển nhưng chỉ có một phần nhỏ trong số này đạt tới tiêu chuẩn trưởng thành. Các tiểu nang tiết ra estrogen và một lượng nhỏ androgen.
- Sau khi phóng noãn, có một hoàng thể thành lập ở nơi tiểu nang bị vỡ và tiết ra progesterone. Estrogen và progesterone thay đổi điều hòa trong tử cung suốt chu kỳ kinh nguyệt và khi amng thai. Trung bình, chu kỳ kinh nguyệt mỗi tháng là 28 ngày nhưng có người thấy sớm hơn hoặc trễ hơn.
2. HỆ THỐNG ỐNG (Duct System)
Hệ thống ống dẫn trong cơ quan sinh dục nữ gồm có: Vòi tử cung hay noãn quản (uterine tubes), tủ cung (uterus) và âm đạo (vagian).
a, vòi tử cung (uterine tubes) hay vòi Fallope:
- Là một trong hai ống dẫn noãn tức tế bào trứng (ova cells) từ noãn sào (ovary) đến tử cung (womb).
- Phần cuối noãn nở lớn ra trong xoang bụng theo một cấu trúc hình phiễu có những cơ phận nhỏ như ngón tay gọi là vân mao (fimbria) hay tua loa vòi tử cung (fimbreae ò uterine tube) bao quanh lỗ mở. Các vân mao nầy có tính nhu động khi trứng rụng để hướng noãn về vòi tử cung.
- Noãn được thụ tinh ở phần cuối vòi, gần noãn sào.
b, Tử cung (uterus):
- Còn gọi là dạ con, một bộ phận thuộc cơ quan sinh sản của phụ nữ.; Tử cung đóng vai trò chuyên môn hóa giúp cho phôi (embryo), tức trứng mới thụ tinh, cấy chặt vào thành trong của mình và trưởng dưỡng thai nhi bằng máu của người mẹ.
- Lúc chưa mang thai, tử cung có hình trái lê dài khoảng 7.5cm, được treo trong khung chậu bằng cách xếp gấp phúc mạc (ligament), còn gọi là “dây chằng”, và các băng xơ (fibrous bands).
- Phần trên tử cung thông với hai vòi tử cung (uterine tube, fallopian tubes), còn phần dưới nối với âm đạo (vagina) ở cổ tử cung (cervix).
- Mặt trong tử cung được lót bằng một lớp màng nhầy gọi là nội mạc tử cung (endometrium) và một thành làm bằng cơ trơn dầy gọi là cơ tử cung (myometrium).
- Khi sanh con, cơ tử cung co thắt hết sức mãnh liệt nhằm mục đích đẩy thai nhi vượt qua cổ tử cung và âm đạo. Vào thời kỳ không mang thai, cổ tử cung cung trải qua các giai đoạn phát triển và thoái hóa dưới hình thái chu kỳ kinh nguyệt (menstrual cycle).
c, Âm đạo (vagina):
- Là bộ phận nằm phía dưới đường sinh dục của phụ nữ, gồm một ống cơ có lót lớp màng nhầy, nối liền cổ tử cung ra tới bên ngoài.
- Âm đạo tiếp xúc với dương vật đang ở trạng thái cương cứng trong lúc giao hợp. Đến ngưỡng cực khoái lạc, tinh dịch chứa tinh trùng được phóng xuất, còn gọi là xuất tinh, vào phần trên âm đạo. Từ đây, tinh trùng phải vượt qua cổ tử cung (cervix) và tiến vào tử cung (womb) để thụ tinh với noãn, tức trứng rụng (ovum). Tiến trình nầy diễn ra trong vòi Fallope.
- Thành âm đạo có đặc tính đàn hồi lớn để giúp cho trẻ sơ sinh chiu qua. Đôi khi, do thai nhi quá lớn, các nhà chuyên môn phải phẫu thuật âm đạo cho rộng thêm và vá lại ngay sau khi sanh xong.
3. CHỨC NĂNG VÀ CHU KỲ SINH DỤC
(Female Reproductive Functions & Cycles)
a. Sự sinh noãn và Chu trình buồng trứng (Oogenesis & Ovarian Cycle):
- Sự sinh noãn là một tiến trình tạo nên các noãn trưởng thành, còn gọi là tế bào trứng (egg cell), xảy ra bên trong noãn sào (oocyte).
- Các tế bào mầm, hay tế bào nguyên thủy, phân chia tế bào thành các noãn nguyên bào (oogonia). Các noãn nguyên bào nầy sẽ bắt đầu giảm phân lần thứ nhất để thành các noãn bào trong thai nhi (oocytes in the fetus). Việc phân chia vẫn chưa chấm dứt cho đến giai đoạn phóng noãn và chỉ được coi là hoàn thành khi đã thụ tinh.
- Mỗi lần noãn nguyên bào giảm phân đều không cân xứng, vì thế mới thấy hiện tượng sản sinh ra một noãn lớn (large ovum) kèm theo rất nhiều thể cực nhỏ.
- Do sự kích thích nang trứng (follicle – stimulating – hormone - FSH), một lượng nhỏ nang nguyên thủy phát triển lớn lên trưởng thành, còn gọi là “trứng chín – mature”, mỗi tháng. Tiến trình nầy diễn ra bên trong buồng trứng nên gọi là chu trình buồng trứng (ovarin cycle).
- Đời sống sinh dục phụ nữ được coi là tốt nhất ước chừng 45 năm, từ 11 tuổi đến 55 tuổi, và mỗi tháng chỉ có 1 lần rụng trứng. Trong số 700.000 trứng hiện hữu suốt 45 năm đó cũng chỉ có 400 – 500 trứng trưởng thành, và dĩ nhiên, trong số nầy cũng chỉ có vài mươi trứng là đầy đủ điều kiện để thụ tinh mà thôi.
- Nếu tinh trùng (sperm) thâm nhập vào được bên trong trứng trưởng thành, còn gọi là noãn bào cấp hai (secondary oocyte), vào giai đoạn rụng trứng thì tiến trình thụ thai sẽ bắt đầu. Nếu không, trứng sẽ hư hỏng và chết rất nhanh.
b. Chu kỳ kinh nguyệt (Menstrual Cycle):
- Là một hoạt động mang tính liên tục các sự kiện có tính chất chu kỳ đối với phụ nữ trưởng thành vào giai đoạn không mang thai, trong đó noãn (ovun) hay tế bào trứng (egg cell) được phóng thích ra khỏi noãn sào (ovary) mỗi 4 tuần/lần cho đến thời kỳ mãn kinh (menopause) mới chấm dứt. Có ba giai đoạn diễn ra trong chu kỳ kinh nguyệt:
* Từ ngày 1-5: Là giai đoạn hành kinh (menses stage). Vào giai đoạn nầy máu chảy ra từ 3-5 ngày, mất khoảng 50-150ml máu mới ngưng. Nếu kéo dài hơn hoặc ngắn hơn là hiện tượng bất thường, có rối loạn.
* Từ ngày 6-14: Là giai đoạn tăng sinh (proliferative stage). Lúc nầy, mức kích thích tố estrogen tăng lên và máu cũng được cung cấp nhiều hơn.
* Từ ngày 15-28: Là giai đoạn phân tiết (secretory stage). Mức sản xuất hormone progesterone tăng lên, niêm mạc tử cung cũng dầy lên, được coi là giai đoạn quan trọng nhất vì mục đích tối hậu là thụ tinh.
Nếu nhìn vào biểu đồ, các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt được phác họa như sau: Một noãn vừa hình thành bên trong tiểu nang Graaf của noãn sào. Khi trưởng thành, noãn vỡ ra khỏi tiểu nang và đi dọc theo vòi Fallope đến tử cung. Một tuyến nội tiết tạm thời, còn gọi là hoàng thể, phát triển trong nang đã vỡ và tiết ra hormone progesterone. Hormone này làm niêm mạc tử cung dầy lên và được cung cấp nhiều mạch máu để chuẩn bị mang thai.
Nếu noãn không được thụ tinh, do tinh trùng thâm nhập, thì chu kỳ lại tiếp tục vào tháng kế tiếp. Lúc nầy, hoàng thể teo lại và niêm mạc tử cung bị tróc để sẵn sàng tống xuất ra ngoài mà ta gọi là “hành kinh”.
Nếu thụ tinh, trứng thụ tinh sẽ bám vào niêm mạc tử cung và hoàng thể tiếp tục tiết ra hormone progesterone, báo hiệu thời kỳ mang thai.
4. TUYẾN VÚ (Mammary Glands)
Tuyến vú đều có ở cả hai giới tính, nam cũng như nữ, nhưng chức năng đặc biệt chỉ có ở phụ nữ mà thôi.
Ở phụ nữ, tuyến vú đóng vai trò tiết sữa để nuôi trẻ sơ sinh nhờ hormone sinh dục kích thích, đặc biệt là estrogens. Đây chính là động cơ thúc đẩy tuyến vú nữ giới khởi sự phát triển lớn dần ra kể từ tuổi dậy thì.
Việc thành lập tuyến vú, còn gọi là tuyến ngọt ngào (sweet glands), do đóng góp một phần của da. Mỗi tuyến vú được cơ ngực bảo bọc như một giáp che, bên ngoài được da phủ thêm một lớp nữa để bảo vệ. Phía dưới tâm điểm của mỗi vú là khu vực đổi màu, ở chính giữa nhô lên khỏi mặt da một khối mô tuyến to cỡ 1.5cm gọi là núm vú (nipple).
Bên trong mỗi tuyến vú có từ 15-25 thùy (lobes). Chúng được cấu tạo bởi mô liên kết (connective tissue) và mỡ, có chức năng taoar nhiệt chung quanh núm vú nhằm ổn định nhiệt độ cho khu vực nầy. Bên trong mỗi thùy lại có nhiều buồng nhỏ gọi là tiểu thùy (lobules) gồm những bó tuyến phế nang (alveolar glands) để sản xuất ra sữa khi người phụ nữ có nhu cầu tiết sữa.
Ung thư vú (breast cancer) vẫn còn là bệnh dẫn đầu về cái chết ở phụ nữ. Bệnh thường được báo hiệu bằng sự biến đổi cấu trúc da quanh vú, da co rúm lại hoặc nấm vú tiết ra chất dịch nhầy. Tại Hoa Kỳ, nhờ nền giáo dục cao và tập huấn thường xuyên, đa số phụ nữ khám phá ra ung thư vú ngay từ lúc mới thành lập. Kỹ thuật khá đơn giản: Dùng tay ấn, đẩy, xoa, nắn vú để tìm những dấu vết lạ như có khối u nhỏ, cứng, hơi đau hoặc không đau. Hiện nay, Hội Ung Thư Hoa Kỳ (The American Cancer Society) sử dụng loại máy chiếu X-ray kỹ thuật cao có tên là Mammography để khám phá những khối u rất nhỏ, dưới 1cm, mỗi hai năm một lần cho tất cả phụ nữ trong hạn tuổi từ 40 đến 49 tuổi.
C. ĐIỀU TRỊ
Như đã phân tích ở phần tổng quát, do hệ thống sinh dục nam khác hẳn với hệ thống sinh dục nữ, cho nên về chuẩn đoán và điều trị của Đông y cũng chia thành 2 khoa chuyên biệt: “Nam khoa” và “Nữ khoa”.
Đông Y Học vốn có nhiều tư kiệu, sách vở đề cập đến nam khoa, y thuật rất phong phú. Tuy nhiên, một trong số tác phẩm cổ nổi tiếng không những được các danh y đương thời kính nể mà còn được kẻ hậu học gia tâm nghiên cứu và thừa kế cho đến ngày nay, đó là bộ sách “Nam – Nữ Khoa” của Phó Thanh Chủ, một “thần y” sống vào thời đại vua Khang Hy Nhà Thanh, Trung Hoa. Vì nhận thấy y lý của ông rất hay, chẩn đoán rất khoa học, phương dược rất hiệu quả, nên trong Chương này xin ghi chép lại những bài thuốc quý do chính danh y Phó Thanh Chủ biên soạn.
Sau đây là một số bệnh chứng thuộc hệ thống sinh dục thường gặp trong mỗi Khoa với các biện chứng Đông y, pháp trị và phương dược ứng dụng có hiệu quả.
NAM KHOA
1. CHỨNG ĐAU TINH HOÀN
Bài 1:
Y lý: Chứng đau tinh hoàn, dịch hoàn hay ngoại thận (hòn dái), tương đương với chứng đau dây chằng của phụ nữ, được Đông y xếp vào chứng “Sán khí” và do nhiều nguyên nhân gây ra “Sán” thường có thấp nhiệt là “Bản” (gốc bệnh) lại thêm Hàn thấp là “Tiêu” (ngọn, triệu chứng) cùng giao lưu với nhau.
- Theo cái lý đương nhiên, hễ thấp nhiệt gặp nhiệt khí thì phát, khiến cho tiểu tiện đỏ mà đau buốt, đại tiện khô táo, bụng dưới và cả giang môn đều nóng, khối ngoại thận sa xuống nên là đai hai dịch hoàn (hòn dái).
- Hàn thấp gặp hàn khí thì sinh chứng, đại tiểu tiện thông lợi quá đà, trong bụng lạnh, làm cho 2 dịch hòa săn co lại mà đau. Còn có khi do cả hàn và nhiệt giao công làm cho bụng và ngoại thận khi nóng khi lạnh, đại tiểu tiện lúc bế lúc thông.
- Nguyên nhân bởi bốn cái quá: Ăn uống quá no say, làm việc quá khổ nhọc, phòng dục quá độ, tức giận quá mức, khiến cho hỏa động, lâu ngày sinh thấp. Thấp tụ lâu ngày biến thành nước, thành đàm, ứ kết chảy vào Can kinh. Vì Can kinh tính vốn nóng nảy lại bị hàn khí bên ngoài vây bọc không có lối thoát nên thúc bách tinh hoàn gây đau.
Pháp trị:Bệnh cảm nhiễm thấp khí làm đau nhức dịch hoàn, kéo lên dây chằng, nên dùng bài “Khứ tinh hoàn” mà trị thì yên.
Công thức:
Đại hồi hương 1 cân ( tương đương 6400g)
Khương thấp 1 cân (nước cốt gừng)
Cách làm:Đem nước cốt gừng tẩm Đại hồi 1 đêm, sáng ra đemm phơi nắng cho khô. Dùng 2 lạng Thanh diêm (muối ăn) trộn chung rồi bắt lửa sao vàng, tán bột mịn, lấy rượu quết vớt bột thuốc luyện làm hoàn to bằng hạt ngô. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 30 hoàn với rượu hay nước cháo thì lành.
Bài 2:
Y lý: Thận tử thống (quả ngoại thận đau)
Công thức:
Trần bì | 15g |
Mẫu đơn bì | 10g |
Tiểu hồi hương | 10g |
Chỉ thực | 10g |
Xích phục linh | 03g |
Trạch tả | 03g |
Ngô thù du | 03g |
Thương truật | 03g |
Sơn tra phiến | 02g |
Tô ngạnh | 02g |
Sinh khương | 03 lát |
Sắc uoonga ngày 1 thang.
Bài 3:
Y lý: Thận tử thống (hòn dái đau)
Công thức:
Đại hồi hương | 30g |
Tiểu hồi hương | 30g |
Xích thạch chi | 30g |
Quảng mộc hương | 30g |
Cách làm:Trước hết, đem 2 vị Đại hồi hương và tiểu hồi tẩm với rượu cho ướt rồi sao khô. Còn Xích thạch chi thì đem đốt cho chín. Tất cả tán bột mịn, Dùng 1 lượng Ô mai nhục (phần thịt quả Ô mai) vừa đủ, nghiền nát nhừ rồi trộn với bột thuốc, quết cho thật đều, làm hoàn to bằng hạt bắp. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 15 hoàn với rượu nhạt vào lúc đói, công hiệu như thần.
Bài 4:
Y lý: Chứng Thiên trụy (hòn dái sưng to, sa xuống).
Công thức:
Tiểu hồi hương | 30g |
Trư linh | 30g |
Cách làm: Tán nhỏ 2 vị thuốc thành bột mịn. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 06g bột thuốc với nước chín pha chút muối nhạt vào lúc đói. Cũng có thể dùng 1 chén muối rang cho thật nóng, bọc vào khăn vải chườm lên khắp vùng sưng trướng.
Bài thuốc tuy đơn giản nhưng bất luận dịch hoàn bên nào sưng mà uống vào cũng đều hay cả.
Bài 5:
Y lý: Dịch hoàn, tức ngoại thận hay âm nang (hòn dái) bị sưng trướng, trong chứ đầy chất dịch mà người miền quê hay gọi là “dái nước” hay “dái bọng”, thể chất còn mạnh, thường ho đàm, suyễn thở, buồn nôn, hoặc sợ lạnh phát sốt, họng sưng đỏ đau, là do Tỳ Phế bất hòa, thủy thấp ứ đọng.
Pháp trị:Kiên Tỳ lợi Thấp, sơ phế khơi thông thủy đạo.
Công thức:
Phục linh | 20g |
Lục nhất tán | 12g |
Hậu phác | 10g |
Tô diệp | 10g |
Trạch tả | 10g |
Hạnh nhân | 10g |
Đại phúc bì | 10g |
Trần bì | 10g |
Xa tiền tử | 10g |
Trư linh | 10g |
Bạch truật | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang
Gia giảm:
Tỳ hư khí yếu, gia Đảng sâm 12g hoặc Thái tử sâm 12g, Ý dĩ nhân 30g, Chích cam thảo 06g; loại bỏ vị Lục nhất tán.
Nếu có cao huyết áp, loại bỏ Phòng kỷ.
Có triệu chứng suy tim, tăng phục linh lên 50 – 60g gia Chu sa 03g, Bá tử nhân 12g.
Suyễn thở, gia Tô tử 10g, Đình lịch tử 10g, La bặc tử (sao) 10g.
Bụng thũng trướng (phúc thủy), gia Hồ lô biều (quả bầu già, khô) 30g.
Sưng to hạch cổ (amidal), gia Bản lam căn 30g
Mụn nhọt khắp người, phối hợp với “Ngũ vị tiêu độc ẩm”, Thổ phục linh.
2. CHỨNG DI MỘNG TINH
Gọi chung tê“Di – Mộng – Tinh” nhưng kỳ thật có tới 3 hình thái bệnh: “Di tinh”, “Mộng tinh” và “Hoạt tinh”, mỗi bệnh có những nguyên nhân và triệu chứng khác nhau.
Đàn ông con trai không có giao hợp mà tinh khí tự nhiên xuất ra gọi là “Di tinh”.
Đàn ông con trai trong lúc ngủ thấy giao hợp với nữ giới và sau đó phòng tinh gọi là “Mộng tinh”.
Đàn ông con trại không nằm mộng, không thấy giao hợp mà tinh khí cứ chảy ra có giọt có dây thấm ướt cả quần gọi là “Hượt tinh” hay “Hoạt tinh”.
Nguyên nhân:
Theo nhân định của đại y Tuệ Tỉnh, thông thường người con trai đến tuuooir trưởng thành, khỏe mạnh, chưa lập gia đình hoặc đã lập gia đình nhưng lâu ngày chưa gần gũi vợ, do tinh khí tràn đầy hay vì mơ tưởng dục tình mà xuất tinh thì không xem là có bệnh, không cần điều trị; một khi được thỏa mãn tình dục là hết. Riêng những người nguyên khí hư yếu, tâm không tàng thần, thận không tàng tinh cho nên thấy chứng di tinh, nằm mơ thấy giao hợp xuất tinh thì cũng do Tâm với Thận. Còn những người thích ăn uống thực phẩm quá nồng, ngon ngọt, cay béo cũng bị chứng Di mộng tinh vì thấp chứng hóa nhiệt dồn xuống hạ tiêu kích thích thận hỏa gây ra mộng tinh. Đông y chia Di mộng hoạt tinh thành 3 thể bệnh chính:
a, Do âm hư hỏa vượng:
Triệu chứng:Ngủ không yên giấc, mơ nhiều, dễ tỉnh giấc, dương vật dễ cương cứng, hay thấy giao hợp rồi xuất tinh, lâu dần biến sang “tảo tiết” còn gọi là chứng xuất tinh sớm, đầu choáng, tim đập nhanh, mỏi mệt toàn thân, chất lưỡi đỏ, mạch đi Tế Sác.
Phân tích:Do Tâm Thận âm suy không chế phục được hỏa, hư hỏa bốc lên sinh di mộng tinh.
Pháp trị: Tư âm thanh hỏa, an thần cố tinh.
Phương dược:Dùng bài “Tri bá địa hoàng thang” làm chủ, trong đó có Tri mẫu, Hoàng bá, Sinh địa, Mẫu đơn bì để tư âm thanh hỏa; gia thêm Hắc táo nhân, Long cốt, Mẫu lệ, Ngủ vị tử để an thần cố tinh. Nếu bệnh lâu ngày không khỏi, gia thêm Kim anh tử, Khiếm thực để bổ thận sáp tinh.
Đây là bài thuốc tiêu biểu:
Thục địa | 16g |
Qui bản | 12g |
Tri mẫu | 12g |
Hoàng bá | 12g |
Kim anh tử | 12g |
Khiếm thực | 12g |
Liên nhục | 12g |
Tủy heo | 12g |
Sắc uống ngày 1 thang
b, Do thận hư:
Triệu chứng:Thường xuyên bị di mộng hoạt tinh, chóng mặt, ù tai, lưng mỏi, thần trí lừ đừ, mặt xanh nhợt, tay chân lạnh, sợ rét, mạch đi Trầm Tế là Thận dương hư; còn như lưỡi đỏ, mạch đi Tế Sác là do Thận âm hư.
Phân tích:Thận hư làm di tinh, đa số hoạt tinh hoặc xuất hiện cả mộng và hoạt tinh cùng một lúc. Khi thận hư thì thấy các triệu chứng chóng mặt, ù tai, lưng gối mệt mỏi, mạch Tế.
Pháp trị: Bổ Thận cố tinh.
Phương dược: Dùng bài “Đại bổ âm tiễn” hiệp với “Kim tỏa cố tinh hoàn” làm chủ. Nếu do Thận âm hư thì gia thêm Sinh địa, Mạch môn đông; còn Thận dương hư thì gia thêm Ba kích, Tỏa dương.
Đây là bài thuốc tiêu biểu:
Do Thận âm hư:
Sa sâm | 12g |
Mạch môn | 12g |
Thạch hộc | 12g |
Kim anh tử | 12g |
Khiếm thực | 12g |
Liên nhục | 12g |
Qui bản | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang
Do Thận dương hư:
Thục địa | 16g |
Hoài sơn | 12g |
Sơn thù nhục | 10g |
Câu kỷ tử | 10g |
Đương qui | 10g |
Đỗ trọng | 10g |
Thỏ ty tử | 10g |
Chế phụ tử | 10g |
Nhục quế | 06g |
Cao ban long | 12g |
Sắc uống ngày 1 thang
c, Do Thấp nhiệt:
Triệu chứng: Thường xuyên bị di tinh, miệng đắng hoặc khác nước, tiểu tiện nóng đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch đi Nhu Sát.
Phân tích: Thấp nhiệt dồn xuống dưới quấy rối tinh khí cho nên vừa bị di tinh lại thêm tiểu tiện nóng đỏ. Thấp nhiệt nung đốt ở trên cho nên thấy đắng miệng, khác nước. Rêu lưỡi vàng nhớt, mạch đi Nhu Sác đều là hiện tượng của Thấp nhiệt.
Pháp trị:Thanh nhiệt hóa thấp.
Phương dược:Dùng bài “Nhị diệu tán” gia thêm Trạch tử, Tỳ giải, Tri mẫu, Khổ sâm.
Sau đây là bài thuốc tiêu biểu:
Tỳ giải | 16g |
Hoài sơn | 16g |
Bồ công anh | 16g |
Ý dĩ nhân | 20g |
Hoàng bá | 12g |
Mẫu lệ | 12g |
Hạn liên thảo | 12g |
Camthảo | 06g |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang
Và sau đây là một số bài thuốc thuộc loại “diệu phương” của các danh y kim cổ sáng chế, đã được thử thách qua thời gian về tính hiệu quả đối với chứng di mộng hoạt tinh.
Diệu phương:
Bài 1:
Biện chứng Đông y: Can hỏa vượng
Pháp trị: Thanh can tả hỏa, chống di mộng hoạt tinh.
Bài thuốc: “Vu bá hoàn” của Thẩm Trọng Khuê, Y sư thuộc Viện Nghiên Cứu Trung Y, Trung Quốc.
Công thức:
Mẫu lệ | 150g |
Vu bạch bì | 30g |
Hoàng bá | 90g |
Tri mẫu | 90g |
Thần khúc | 15g |
Cáp phấn | 15g |
Thanh đại | 10g |
Cách dùng:Các vị tán bột mịn, còn Thần khúc nấu chung với bột hồ cho sền sệt rồi trộn bột thuốc, quết đều, vò viên bằng hạt bắp. Ngày uống 2 -3 lần, mỗi lần 10-12 viên với nước chín vào lúc đói bụng.
Bài 2:
Biện chứng Đông y:Thận dương hư
Pháp trị: Bổ Thận sáp tinh.
Bài thuốc: “Địch thị bí tinh hoàn”của Địch Minh Nghĩa, Y sư thuộc Viên nghiên cứu Trung Y tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
Công thức:
Thỏ ty tử | 60g |
Thích vị bì | 60g |
Phá cổ chỉ | 30g |
Ngũ vị tử | 30g |
Cách dùng:Các vị tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4 – 6g với nước ấm.
Bài 3:
Biện chứng Đông y:Thân dương suy
Pháp trị: Bổ Thận trợ dương, bền tinh khí
Bài thuốc: “Bổ thận sinh tinh hoàn” của Trần Thụ Sâm, Y sư.
Công thức:
Sinh sái sâm | 30g |
Lộc nhung | 30g |
Dâm dương hoắc | 30g |
Ngũ vị tử | 30g |
Cách dùng:Tán bột mịn, làm viên nặng 2g. Ngày 2-3 lần, mỗi lần 1 viên. Có thể ngậm với ½ lít rượu trắng, sau 2 tuần lễ thì dùng được. Ngày 2-3 lần, mỗi lần 5-10ml.
Bài 4:
Biện chứng Đông y:Tâm Thận lưỡng hư do thói xấu thủ dâm.
Pháp trị: Bổ Tâm Thận, yên thần trí
Bài thuốc: “Song bổ cố tinh hoàn” của Trần Thụ Sâm, Y sư.
Công thức:
Nhân sâm | 30g |
Sinh chi tử | 15g |
Thạch xương bồ | 15g |
Ngũ vị tử | 10g |
Kim anh tử | 15g |
Chích viễn chí | 12g |
Cách làm: Các vị tán bột, luyện mật làm hoàn, mỗi hoàn nặng 10g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn.
Bài 5:
Biện chứng Đông y: Do Tâm Thận bất giao.
Pháp trị: Tâm Thận tương y
Bài thuốc: “Tâm Thận bất giao” của Phó Thanh Chủ
Công thức:
Thục địa | 5 lạng |
Bạch truật | 5 lạng |
Sơn thù nhục | 3 lạng |
Nhân sâm | 3 lạng |
Phục thần | 3 lạng |
Hắc táo nhân | 3 lạng |
Khai mạch môn | 3 lạng |
Bá tử nhân (sao) | 3 lạng |
Chích viễn chí | 1 lạng |
Thạch xương bồ | 1 lạng |
Ngũ vị tử (sao) | 1 lạng |
Hoài sơn (sao) | 3 chỉ |
Khiếm thực (sao) | 5 chỉ |
Cách làm: Tán bột mịn, luyện mật làn hoàn nặng 10g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 2 hoàn với nước ấm. Về đo lường của người cưa: 1 lượng = 35g; 1 chỉ = 3.5g.
Bàn luận: Thận thuộc “Thủy”, Tâm thuộc “Hỏa”, bản tính nước với lửa coi nhau như cừu địch, tựa hồ không thể hợp trị được. Nhưng chẳng biết, Thủy Hỏa tuy tương khắc mà lại nương tựa nhau. Bởi lẽ Thận thủy không có Tâm hỏa giao liên thì Thận thủy giao liên thị Tâm hỏa phát cháy, cho nên phải nhờ Thận thủy để tưới mát. Như vậy là Tâm Thận có mối giao liên nhau.
Bệnh run sợ không yên là bệnh của Tâm nhưng thật do Thận bệnh.
Bệnh di mộng hoạt tinh là bệnh của Thận nhưng thật do Tâm bệnh.
Hai bệnh xảy ra là bởi “Tâm Thận bất giao”, phải ;à cho “tương giao”.
Phương thuốc nêu trên trị cả Tâm và Thận nhờ khéo dùng thuốc trị Thận ít hơn thuốc trị Tâm. Há chẳng biết tâm làm chủ, khi Tâm quân yên tỉnh thì Thận khí tự nhiên yên, mà thận khí đã yên thì Tâm hỏa là sao còn động được.
Trị Tâm tức là trị Thận, còn trị Thận tức là trị Tâm; cho nên “Tâm Thận tương y” là cái pháp rất hay, thu công mau lẹ.
Bài 6:
Biện chứng Đông y:Di Mộng Hoạt Tinh
Pháp trị: Tâm Thận đồng trị
Bài thuốc: “ Thanh Chủ di mộng hoạt hoàn”
Công thức:
Thục địa | 8 lạng |
Sơn thù (sao khô) | 4 lạng |
Bạch truật (sao vàng) | 4 lạng |
Nhân sâm | 3 lạng |
Phục linh | 3 lạng |
Khai mạch môn | 3 lạng |
Bạch thược (sao rượu) | 3 lạng |
Ba kích nhục (bỏ lõi) | 3 lạng |
Nhục thung dung | 3 lạng |
Hoài sơn (sao vàng) | 1 lạng |
Nhục quế (cạo vỏ) | 1 lạng |
Lộc nhung (sấy khô) | 1 lạng |
Hắc táo nhân | 1 lạng |
Chích viễn chí | 1 lạng |
Bá tử nhân (sao khô) | 1 lạng |
Phá cố chỉ (sao muối) | 1 lạng |
Ngũ vị tử (sao khô) | 1 lạng |
Sa nhân nhục | 5 chỉ |
Thục phụ tử | 2 chỉ |
Tử hà xa | 1 cái |
Cách làm: Tất cả tán bột mịn luyện với mật ong thiệt làm hoàn, mỗi hoàn nặng 10g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 2 hoàn với nước ấm (ghi chú: 1 lượng = 35g; 1 chỉ = 3,5g)
Bàn luận:Theo danh y Phó Thanh Chủ, di mộng hoạt tinh không chỉ có Thận bệnh mà cả tâm cũng có bệnh, cho nên phải “Tâm Thận kiêm trị” thì mới thành công. Đây là một bài thuốc cực hay, cực quý, đã ứng dụng trị liệu cho hằng nghìn người đều thành công.
Phương thuốc nầy dùng Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù để bổ Thận; dùng Ba kích, Nhục thung dung, Phụ tử, Lộc nhung để bổ Hỏa trong Thận. Như vậy có thể đã đủ rồi, nhưng tại sao lại còn gia thêm Nhân Sâm, Phục linh, Bá tử nhân, Mạch môn, Viễn chí, Táo nhân là thuốc bổ Tâm? Há chẳng biết Thận hỏa hư là vì Tâm hỏa hư, nếu chỉ bổ Thận hỏa mà quên Tâm hỏa thì Thượng tiêu khô kiệt thêm. Cho nên “Tâm Thận đồng trị”, Thủy hỏa tương tế là khéo dụng pháp vậy.
Bài 7:
Biện chứng Đông y:Dạ mộng di tinh (đêm nằm mộng xuất tinh)
Pháp trị: Bổ thận, bổ cả Tâm Can Tỳ.
Bài thuốc: “Phó Thanh Chủ dạ mộng di tinh thang”.
Công thức:
Thục địa | 1 lạng |
Bạch truật (sao vàng) | 5 chỉ |
Sơn thù nhục | 4 chỉ |
Phục linh | 3 chỉ |
Bạch thược (sao rượu) | 3 chỉ |
Sinh táo nhân | 3 chỉ |
Đương qui | 3 chỉ |
Ý dĩ nhân | 3 chỉ |
Phục thần | 2 chỉ |
Ngũ vị tử | 1 chỉ |
Bạch giới tử | 1 chỉ |
Hoàng liên | 5 phân |
Nhục quế | 5 phân |
Sắc uống ngày 1 thang. Chỉ cần 1 thang là dứt bệnh, uống 10 thang không tái phát (Ghi chú: 1 lượng tương đương 35g; 1 chỉ tương đương 3.5g; 1 phân tương đương 0,35g)
Bàn luận:Ban đêm nằm mộng thấy giao hợp mới xuất tinh là do Tâm hỏa vượng động, Thận thủy chưa đến nỗi bị tổn hại lắm. Nhưng đêm không nằm mộng mà cũng di tinh là vì Thận thủy hao tán suy kiệt rồi. Trên không thông cửa “ngọc quan” không thể đóng kín phải xuất tinh hoài, bất luận ngày đêm.
Pháp trị đúng đắn phải bổ Thận mà thêm chút ít dược phẩm để bổ cả Tâm, Can, Tỳ nên thu công mau lẹ là phải lắm rồi.
Bài 8:
Biện chứng Đông y: Di tinh, kiện vong (di tinh và hay quên).
Pháp trị: Tâm Thận đồng bổ
Bài thuốc: “Phó Thanh Chủ Tâm Thận hợp trị thang”
Công thức:
Thục địa (sấy khô) | 5 lạng |
Hoài sơn (sao vàng) | 4 lạng |
Nhân sâm | 3 lạng |
Khiếm thực (sao vàng) | 3 lạng |
Khai mạch môn (sao) | 3 lạng |
Sinh táo nhân | 3 lạng |
Đương qui (sấy khô) | 3 lạng |
Sơn thù (sao khô) | 3 lạng |
Liên tu (nhụy sen) | 2 lạng |
Bá tử nhân (sao khô) | 1 lạng |
Chích viễn chí | 1 lạng |
Thạch xương bồ | 1 lạng |
Ngũ vị tử (sao khô) | 1 lạng |
Cách làm: Tất cả tán bột mịn, luyện với mật ong thiệt làm hoàn nặng 10g. Ngày nhai nuốt 5 chỉ với nước chín (1 lạng tương đương 35g; 1 chỉ 3,5g)
Bàn luận:Di tinh là bệnh ở Thận, hay quên là bệnh ở Tâm, trên dưới cách xa nhau thì làm sao mà “hợp trị” cho được? Há chẳng biết di tinh tuy do Thận thủy suy nhưng gốc bởi Tâm hỏa hư nhược nên mới sinh chứng hay quên. Khi bồi bổ Tâm quân để trị chứng hay quên thì cửa “ngọc quan” (hòn dái) không cần đóng mà tự nhiên đóng kín. Đã đóng kín thì làm gì có di tinh. Đây là pháp “nhất cử lưỡng đắc”, kết quả trong nháy mắt.
Giản phương:
Trị di mộng hoạt linh đặc biệt chứng di tinh, ngoài các bài thuốc hỗn hợp đã được giới thiệu, còn khá nhiều bài thuốc đơn giãn chỉ có 1-2 vị nhưng hiệu quả rất cao lại dễ kiếm, dễ làm, dễ sử dụng.
Sau đây là một số bài thuốc đơn giản, kinh nghiệm:
Chọn lá sen tươi hơi già, rửa sạch, dùng dây kẽm xỏ cuống treo phơi khô trong mát (phơi âm can). Suốt bỏ hết gân lá, cân đúng 100g lá khô, tán bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g với nước cơm. Bài nầy còn trị luôn bệnh đàn ông liệt dương, bất lực cũng rất hay.
Phỉ tử (hạt hẹ) 30g, Phúc bồn tử 15g, dây tơ hồng vàng 20g. Giã nát nhừ như cám, vò viên bằng hạt bắp, đem sấy thật khô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3g.
Đảng sâm 15g,rửa sạch cắt khúc ngắn, Câu kỷ tử 15g, Hoài sơn 25g, Lụa mề gà (kê nội kim) 5g, Xương sống heo 1 đôi, chặt khúc ngắn. Bỏ tất cả vào thố sành, hầm kỹ. Ngày ăn hai lần, mỗi tuần lễ làm 2-3 lần, sẽ có kết quả.
Bạch quả 3 hạt (đập bỏ vỏ),Trứng gà 1 quả. Trước hết, khoét 1 cái lỗ nhỏ trên đầu trứng gà, nhét 3 nhân Bạch quả vào rồi dùng giấy bịt kín lỗ lại. Đem hấp trong nồi cơm, mỗi ngày ăn 2 quả hột gà.
Hạt sen già, khô, 300g. Tách bỏ phần mầm xanh (tâm sen) rồi tán thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 muỗng canh bột hạt sen với nước cơm.
3. CHỨNG YẾU SINH LÝ
Khái niệm:
Nhóm từ “yếu sinh lý” do Đông y sử dụng mang ý nghĩa khá bao quát khiến nhiều người nhận định sai. “Yếu sinh lý” được biểu thị bằng hai chứng:
Dương vật cương nhưng không đủ cứng (còn gọi là Dương suy).
Xuất tinh sớm hơn thời gian bình thường (premature ejaculation).
Đông y học xếp “yếu sinh lý” vào chứng “Tảo tiết” . Theo sách “Thẩm thị tôn sinh thư” viết: “Tảo tiết là hiện tượng chưa giao hợp đã phóng tinh hoặc phóng tinh quá sớm làm dương vật mềm rũ ngay”. Một số thầy thuốc xưa phân biệt chứng “Tảo tiết” khác với chứng “Dương suy”.
“Tảo tiết” là chứng phóng tinh quá sớm khiến dương vật mềm rũ ra ngay không còn khả năng giao hợp.
“Dương suy”là chứng trạng dương vật có cương nhưng không đủ cứng để tiến hành giao hợp.
Về sau, nhiều thầy thuốc Đông y đồng thuận quan điểm cho rằng “Tảo tiết” là chứng trạng khởi đầu, đi trước, còn “Dương suy” cũng đều làm giới đàn ông ưu phiền, lo lắng, mặc dù chịu ảnh hưởng bởi tập quán và nền đạo lý Đông phương người Việt Nam rất ít khi mang chuyện phòng the như vấn đề “yếu sinh lý” ra thảo luận hay thố lộ với bất cứ ai, đặc biệt trước chỗ công cộng. Hậu quả là hạnh phúc gia đình tan võ, vợ chồng bất hòa, cuối cùng là cuộc chia tay đầy nước mắt. Lỗi tại ai? Đâu là nguyên nhân?
Nguyên nhân:
Đông y nhận định chứng “Tảo tiết, Dương suy” do ba nguyên nhân chủ yếu sau đây gây ra:
1. Do Thận khí hư tổn:
Triệu chứng:Tảo tiết, lưng đau, gối mỏi, tóc rụng, răng lung lay, mạch bộ Xích đi Nhược. Nếu kèm Thạn dương hư thì thêm triệu chứng sợ lạnh, tay chân lạnh, đoản hơi, sắc mặt trắng bệch, tiểu tiện trong và dài hoặc đi tiểu vặt nhiều lần, đại tiện nhão, lưỡi nhuận bệu hoặc có vết răn, mạch đi Trầm. Nếu kiêm Thận âm bất túc thì có triệu chứng ngũ tâm phiền nhiệt, đổ mồ hôi trộm, miệng khô, họng khát, đầu choáng, tai ù, nước tiểu vàng đỏ, đại tiện bó, lưỡi đỏ ít rêu, mạch đi Tế Sác vô lực.
Phân tích:Thận tàng tinh, là cái gốc của sự kín đáo. Do sắc dục thái quá, giao hợp vô độ, hoặc như tuổi trẻ sớm phạm thói xấu thủ dâm, lâu dần làm tổn hại Thận khí. Một khi Thận khí hư thi dương không thể cường, như lốp xe xì hơi, làm sao chạy được. Tảo tiết do Thận khí hư tổn là thể bệnh hay gặp nhất, nhiều nhất.
Pháp trị : Có thể dùng phương “Lộc giác tán gia giảm”, nếu kiêm cả Dương hư thì dùng bài “Tán dục đan”. Nếu chứng trạng còn nhẹ, chọn dùng “Khiếm thực hoàn” hoặc “Tỏa dương đan gia giảm” để bình bổ, cố sáp.
2. Do Can kinh thấp nhiệt:
Triệu chứng: Tảo tiết là chính, bực nhọc, miệng đắng, nước tiểu vàng đỏ, tiểu gắt nóng, đau buốt trong niệu quản, sưng bộ phận sinh dục và ngứa, rêu lưỡi vàng, mạch đi Huyền hữu lực.
Phân tích:Sách Linh Khu, chương Kinh Mạch, viết: “Mạch của Túc quyết âm Can kinh đi qua bộ phận sinh dục” và“đường biệt của nó kết ở âm hành (dương vật)”. Can chủ về cân (gân), chủ sơ tiết (xuất ra), mà tiền âm (bộ phận tiểu tiện, giao hợp) là nơi hội tụ của tôn cân. Nếu Can kinh thấp nhiệt dồn xuống âm khí, sơ tiết thất ước, không gìn giữ cẩn trọng, từ đó hình thành chứng Tảo tiết.
Pháp trị: Nên thanh tả thấp nhiệt ở Can kinh, dùng phương “Gia vị tam tài phong tủy đan”. Nếu bị thấp nhiệt nặng thì dùng “Long đởm tả Can thang” nhưng khi trúng bệnh thì ngưng, chớ lạm dụng.
Triệu chứng: Tảo tiết kèm theo cơ thể gầy còm, sắc mặt kém tươi, toàn thân mệt nhọc do khí hư, tay chân uể oải, biếng ăn, đại tiện nhão, hay hồi hộp, hơi thở ngắn, đổ mồ hôi ngày lẫn đêm (tự hãn), ngủ hay mê, thường quên lãng, lưỡi nhợt, mạch đi Tế.
Phân tích:Phần lớn phát sinh ở những người hay lo nghĩ, làm việc nhiều về trì óc khiến cho lao thương mệt nhọc Tâm thần. Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Tảo tiết do Thận khí hư tổn, dựa vào nguyên nhân và mạch là chính. Tảo tiết do Thận khí hư tổn thì do phòng dục vô độ gây ra, còn Tâm Tỳ khuy tổn là do lo nghĩ mệt trí lâu ngày mà thành.
Pháp trị:Nên bổ ích Tâm Tỳ. Tuy nhiên, một là tránh dùng thuốc táo nhiệt, hai là thuốc đắng lạnh; chỉ nên ôn bổ hoặc bình bổ mới là pháp chữa đúng. Hơn nữa, Tảo tiết cũng còn do một vài nguyên nhân khác nữa như hoảng sợ làm hại Thận, do tình cảm không thoải mái. Hoảng sợ thì dùng thuốc định chí an thần, ưu uất thì thư Can giải uất. Còn như không biểu hiện chứng trạng rõ rệt thì nhắm vào Can Thận Tâm Tỳ bất túc, dùng pháp trị “thanh Tâm cố sáp” là tốt nhất với các bài “Bí tinh hoàn”, “Thanh tâm hoàn gia giảm”…
ĐIỀU TRỊ
Sau đây là một số bài thuốc Đông y tiêu biểu trị chứng “Tảo tiết” có hiệu quả, đã được thử thách qua nhiều thời đại.
Giản tiện phương (bài thuốc đơn giản):
Thực phẩm: Hầm cà rốt với thịt dê, hầm Đông trùng hạ thảo với nhau thai (Tử hà xa), hầm Đỗ trọng với cật heo, hầm Hồ đào nhân với nhộng tằm, chế viên “Tam thận” bằng 3 cái dương vật của hải cẩu, dê và bò.
Canh cật heo, hồ đào, sơn thù: Cật heo 2 quả, Hồ đào nhục 10g, Sơn thù nhục 10g. Nấu canh ăn hoặc hầm chín ăn với cơm trị chứng tảo tiết, đau lưng do Thận suy, ù tai, di tinh rất hay.
Canh cật dê, đậu đen:Cật dê 2 quả, Đậu đen 100g, Đỗ trọng 15g, Tiểu hồi 08g, Sơn thù nhục 12g, Hồ đào nhục 10g. Sau khi làm sạch cật dê, thái nhỏ, cho tất cả ào nồi nấu canh chừng 30 phút, vớt bỏ xác Đỗ trọng, Tiểu hồi, rồi nêm nếm cho vừa miệng. Ăn hằng ngày. Trị chứng Thận suy, tảo tiết, hai chân cất bước không lên rất hay.
Nhân sâm 10g, Ba kích nhục 12g, Nhục thung dung 12g, Dây tơ hồng vàng 12g. Hiệp lại, sắc lấy nước uống hằng ngày. Có tác dụng bổ Thận tráng dương, trị chứng tảo tiết xuất tinh sớm rất hay.
Diệu phương hợp dược (thuốc thang tổng hợp):
Bài 1:
Bài thuốc: “Dương thận thung dung thang”
Công thức:
Dương thận (dái dê) | 1 cặp (2 cái) |
Dương bín (bín dê) | 2 cái |
Nhục thung dung | 12g |
Câu kỷ tử | 15g |
Ba kích nhục | 12g |
Hoài sơn | 15g |
Thục địa | 10g |
Cách làm: Làm sạch dương thận và dương bín, thái nhỏ, hợp với các vị thuốc bỏ vào thố sành, thêm lượng nước ừa phải rồi đun lửa chưng cách thủy cho chín, ăn cái uống nước.
Có tác dụng bổ ích tinh huyết, tráng dương, trị đau mỏi lưng gối, dương vật không cương cứng do Thận khí hư yếu gây ra.
Bài 2:
Bài thuốc: “Bổ thận tráng dương thang”
Công thức:
Nhục thung dung | 15g |
Thục địa | 12g |
Sơn thù nhục | 16g |
Chích viễn chí | 10g |
Hoài sơn | 12g |
Dây tờ hồng vàng | 12g |
Lộc nhung | 02g |
Ngũ vị tử | 06g |
Phỉ tử | 06g |
Sa uyển tật lê | 05g |
Sắc uống ngày 1 thang. Có tác dụng bổ Thận tráng dương trị chứng tảo tiết, dương vật không cương nổi.
Bài 3:
Bài thuốc: “Hải cẩu bổ thận hoàn”
Công thức:
Hải cẩu thận | 01 cái |
Lộc nhung | 15g |
Nhân sâm | 50g |
Ba kích nhục | 50g |
Hoài sơn | 50g |
Ngũ vị tử | 50g |
Cách làm:Tẩm Hải cẩu thận trong rượu đế qua đêm thật ướt, lấy ra nướng lửa than cho vàng thơm. Các vị thuốc còn lại đem sấy dòn rồi tán chung với Hải cẩu thận thành bột mịn, luyện với mật ong thiệt làm hoàn 10g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần hoàn lúc bụng đói.
Bài nầy có tác dụng bổ thận tráng dương, dương vật xìu xìu không cương cứng rất hay.
Bài 4:
Bài thuốc: “Hải mã hương trùng thang”
Công thức:
Hải mã (ngựa biển) | 10g |
Cửu hương trùng | 10g |
Dây tơ hồng vàng | 15g |
Hoài sơn | 15g |
Thục địa | 15g |
Tiên mao | 10g |
Dâm dương hoắc | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang. Chủ trị đàn ông con trai tảo tiết, dương vật khó cương cứng để giao hợp. Còn trị cả chứng tiểu tiện nhiều lần do thận khí suy.
Bài 5:
Biện chứng Đông y: Thận khí suy tổn
Chủ trị:Tảo tiết, lưng gối yếu mỏi, tóc rụng, răng lung lay, mệt, hồi hộp.
Bài thuốc: “Thổ thị trị tảo tiết chứng phương” của Thổ Vinh Hoa, Đông y sư thuộc Trường y dược Thiên quan tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
Công thức:
Sơn thù nhục | 15g |
Ngũ bội tử | 15g |
Dâm dương hoắc | 15g |
Tang thầm tử | 15g |
Ngũ vị tử | 10g |
Đảng sâm | 10g |
Câu kỷ tử | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang
Bài 6:
Biện chứng Đông y: Thận dương hư
Triệu chứng:Sợ lạnh, tay chân lạnh, tiểu vặt, tảo tiết.
Bài thuốc: “Tiết trị trấn nuy tán”của Y sĩ Tiết Minh thuộc Viện nghiên cứu Trung y dược tỉnh Triết Giang, Trung Quốc.
Công thức:
Tật lê tử | 300g |
Dâm dương hoắc | 300g |
Mạch môn đông | 150g |
Câu kỷ tử | 150g |
Thiên môn đông | 150g |
Phỉ thái tử | 120g |
Ba kích nhục | 120g |
Tiên mao | 100g |
Hồ lô ba | 100g |
Đại ngô công (rết to) | 180g |
Hải mã | 200g |
Dương thận | 01 quả |
Cách làm:Trước hết, cắt bỏ đầu và chân Ngô công, bẻ nhỏ; Hải mã sấy chín; Cật dê lột bỏ màng trắng, thái mỏng sấy khô. Tất cả đem tán thành bột mịn, ngày dùng 2 lần, mỗi lần lường 1 muỗng canh bột uống với nước chín.
Bài 7:
Biện chứng luận trị:Tâm Thận bất giao
Triệu chứng: Tảo tiết kiêm di mộng hoạt tinh
Bài thuốc: “Dương thị bí tinh thang”của Dương Thủ Nghĩa, Y sư thuộc Trung y viện tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.
Công thức:
Sinh mẫu lệ | 30g |
Sinh khiếm thực | 30g |
Sinh long cốt | 30g |
Sinh liên tử | 30g |
Mạch môn đông | 18g |
Tri mẫu | 18g |
Ngũ vị tử | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 8:
Biện chứng Đông y: Thận âm bất túc, tướng hỏa vọng động.
Triệu chứng:Tảo tiết mà mỏi lưng, miệng khô, mồ hôi trộm, váng đầu, ùa tai, tiểu tiện vàng, đại tiện táo, ngủ hay mê, lưỡi đỏ ít rêu, mạch ddi Tế Sác.
Bài thuốc: “Lý thị hó tinh xung tễ” của Lý Viết Khánh, Y sư Trung học học viện Bắc Kinh, Trung Quốc.
Công thức:
Thục địa | 30g |
Xích thược | 20g |
Phục linh | 15g |
Mạch môn đông | 15g |
Câu kỷ tử | 15g |
Mẫu đơn bì | 12g |
Trạch tả | 12g |
Tri mẫu | 12g |
Sinh địa | 10g |
Hoàng bá | 10g |
Ngũ vị tử | 08g |
Sắc uống ngày 1 thang.
4. CHỨNG LỆT DƯƠNG
Khái niệm:
Liệt dương hay bệnh “Bất lực” được Đông y xếp và chứng “Dương nuy”, “Dương ủy” hay “Âm nuy”; Y học hiện đại gọi là “Impotence”.
Liệt dương là hiện tượng dương vật mất hẳn sự cương cứng, thường ở vị thế rũ; nếu có cương thì cũng ở trạng thái mềm, không đủ khả năng giao hợp.
Liệt dương khác với Tảo tiết. Liệt dương có ước muốn giao hợp nhưng dương vật không cương cứng, còn Tảo tiết có khả năng cương cứng nhưng vì xuất tinh quá nhanh khiến dương vật mềm rũ ngay sau đó, không thể giao hợp được.
Liệt dương là thể bệnh nặng nhất trong phạm vi tính dục ở nam giới. Tại Hoa kỳ, ước tính có tới 10,000,000 – 20,000,000 đàn ông bị chứng bất lực và tỷ lệ càng tăng khi bước qua tuổi 50.
Nguyên nhân:
a/ Theo Y học hiện đại:
85% trường hợp nhược mạch (vascular insufficiency) do chứng vữa xơ động mạch, phẫu thuật khung chậu, chấn thương khung chậu…
Dùng thuốc trị bệnh lâu dài gồm: Thuốc kháng histamine, thuốc chống huyết áp cao, chống trầm cảm, chống loạn tâm thần, thuốc an thần…
Chứng nghiện rượu, nghiện thuốc lá.
Mắc bệnh tiểu đường, thiếu năng tuyến giáp, giảm hormone sinh dục nam, rối loạn tuyến tiền liệt, chấn thương bộ phận sinh dục, căng thẳng tinh thần…
b/ Theo Đông y học:
Do “nguyên dương bất túc”, với các triệu chứng: Liệt dương, đau lưng, mởi gối, ù tai, tóc rụng, răng lung lay, sợ lạnh, tay chân đều lạnh, cơ thể gầy yếu, thở ngắn, đầu choáng, mắt hoa, sắc mặt nhợt nhạt, mạch đi Trầm Tế, bộ Xích Nhược. “Nguyên dương bất túc”, còn gọi là “Chân dương bất túc”, “Thận dương bất túc” hoặc “Mệnh môn hỏa suy”, tuy có nhiều sách, nhiều thầy thuốc y học cổ truyền gọi tên khác nhau nhưng đồng nghĩa, cùng một cơ quan. Nguyên nhân do bẩm sinh bạc nhược, dâm dục quá độ, trẻ tuổi có thói xấu thủ dâm làm gây hư hoại dần chức năng Thận khí.
Do Tâm Tỳ lưỡng hư,có các triệu chứng: Liệt dương, hồi hộp, thở ngắn, đổ mồ hôi suốt ngày (tự hãn), ăn uống kém, bụng trướng, đại tiện nhão, lưỡi nhạt, mạch đi Tế. Thực ra, về lâm sàng, liệt dương phần lớn do Khí Huyết ở Tâm Tỳ bất túc vì dụng Tâm thái quá, phiền não tư lự kéo dài làm cho Tâm Tỳ lao thương mà sinh bệnh. Há chẳng biết Tâm Tỳ khí huyết là nguồn sinh hóa Hậu thiên, một khi bất túc thì tiên thiên Thận khí mất nguồn phụng dưỡng, tinh khí ở Thận suy giảm, Thận dương mất đi sự ấm áp cho nên phát chứng “Dương nuy” hay liệt dương.
DoKhủng sợ hại Thận, với các triệu chứng: Liệt dương, hay run sợ không có lý do chính đáng, nghi ngờ, mất ngủ, hay nằm mê, tinh thần sa sút. Bình thường, dương vật có thể cương cứng nhưng chuẩn bị giao hợp lại lo âu, dẫn tới bất lực. Nội Kinh, chương “Kim quỹ chân ngôn luận” viết: “sợ thương Thận”. Sách “Bản thần thiên” lại nói: “hãi sợ không giải được thì thương tinh, tinh tổn hại thì sinh nuy”. Chữ “nuy” ở đây được sách “Loại kinh chú giải” định nghĩa: “Nuy là cái ủ rũ bởi dương nuy”.
Dothấp nhiệt hạ trú, với các triệu chứng: Liệt dương sau khi bộ phận sinh dục bị ẩm ướt, đau ngứa, mạch đi Huyền hoặc Sác. Nguyên nhân thường xuất hiện ở những người mập phì vốn nhiều thấp khí cộng thêm ăn uống nhiều món bổ béo nồng hậu, hoặc nghiện rượu, nghiện hút ma túy làm cho Dương minh hư suy. Các biểu hiện: Hai chân nặng nề, yếu đuối, ra mồ hôi ở bộ phận sinh dục, đau ngứa ngọc hành (hòn dái), tiểu tiện sẻn đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền… đều là chứng trạng Hạ tiêu bị thấp nhiệt cả.
Điều trị:
Giản tiện phương :
Cháo thịt chim sẻ: Chim sẻ còn sống 5 con, làm sạch lông, bở nội tạng, chặt là tư, xào chín tới, cho thêm 7 cốc rượu và vào, lại đảo vài lượt. Tiếp theo, cho nước và 50g gạo nếp, ninh thành cháo, thêm chút gia vị cho vừa miệng. Mỗi ngày ăn 1 lần, cứ 7 ngày là một liệu trình.
Bài nầy chữa bệnh liệt dương do Thận hư rất hay. Còn trị được cả chứng long gối đau mỏi, đi tiểu liên miên.
Cá chạnh, mật ong:Cá chạch sống 5 con, làm sạch, ướp với mật ong thiệt khoảng 30 phút. Bỏ vào thố sành, chưng cách thủy chừng 1 tiếng đồng hồ, ăn hết 1 lần. Làm liên tục 5-7 ngày. Trị bệnh liệt dương rất hay.
Thịt gà hầm rượu:Thịt gà trống 500g, chặt miếng nhỏ, hầm với 200ml rượu đế ngon cho chín. Ăn hết trong ngày. Trị chứng bất lực, xuất tinh sớm cũng có kiến hiệu.
Hầm Nhục thung dung với cật dê: Nhục thung dung 20g (mua ở tiệm thuốc Bắc), thận (cật) dê 1 cặp (2 cái). Trước hết, làm sạch cật dê, thái mỏng, cho hết vào thố sành, thêm một lượng nước vừa phải, đậy nắp kín, hầm cách thủy, chờ chín thêm chút gia vị rồi ăn.
Bài nầy có tác dụng bổ thận, ích tinh, tráng dương. Dùng trị chứng dương vật ỉu xìu không cương cứng nỗi, chân gối yếu, tiểu đêm nhiều vì Thận suy.
Tôm he ngâm rượu:Tôm he 250g, rửa sạch, ngâm vào rượu gạo chừng 15 phút, vớt ra bắc lên chảo thêm ít dầu mè xào chín với ngọn lữa cao, gia chút gia vị làm thành món ăn với cơm.
Bài nầy có tác dụng bổ Thận tráng dương, thông huyết mạch, điều trị chứng yếu sinh lý, dương vật xìu xìu do Thận khí kém rất hay.
Rau hẹ với tôm nõn: Rau hẹ 1 nắm chừng 120g, tôm nõn 200g, bỏ vào chảo thêm chút dầu mè xào chín với ngọn lửa mạnh, thêm gia vị cho vừa miệng rồi ăn. Lại có phương gia thêm gan dê 150g, công lực càng nhanh.
Có tác dụng bổ Thận tráng dương, trị chứng dương vật mềm rũ, lại còn trị được cả chứng đái dầm, phụ nữ kinh nguyệt không đều.
Đuôi heo, Đỗ trọng, Tục đoạn:Đuôi heo 1 cái, làm sạch, chặt khúc; Đỗ trọng 25g, Xuyên Tục đoạn 25g (mua ở tiệm thuốc Bắc). Cho tất cả vào thố sành, đem chưng cách thủy cho chín, thêm gia vị, ăn cái uống nước.
Bài nầy có tác dụng bổ Thận kiêm bổ trung ích khí, trị chứng yếu sinh lý, dương vật không thể cương cứng, đau lưng, mệt mỏi.
Câu kỷ tử, ngầu bín:Câu lỷ tử 40g (mua ở tiệm thuốc Bắc), Ngầu bín (dương vật bò) 1 cái. Trước hết, rửa sạch dương vật bò, thái miếng. Bỏ tất cả vào thố sành, thêm một lượng nước vừa phải, đậy kín nắp, đun lửa vừa, chờ cho chín thêm một chút rượu ngon và ít gia vị rồi ăn.
Có tác dụng tráng dương bổ thận, trị chứng dương vật xìu, di tinh, đi tiểu đêm nhiều lần. Còn trị người già yếu sức, đi đứng khó, dễ mệt, rất hay.
Tử hà xa, gạo nếp, hắc chi ma:Tử hà xa (nhau thai nhi) 1-2 cái, gạo nếp 500g, mè đen (không vỏ) 500g. Trước hết, chọn nhau thai con so, vô bệnh, rửa sạch, thái thành miếng. Tất cả đem sấy hay rang cho khô dòn, tán thành bột mịn, luyện với mật ong tốt là tễ, mỗi hoàn nặng 15g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn trước bữa ăn sáng và tối.
Có tác dụng bổ ích khí huyết, tráng dương, trị Thận khí hư, dương vật bất cử rất hiệu nghiệm.
Diệu phương kinh trị:
Đông y có cả một kho tàng y thuật, y dược và kinh nghiệm lâm sàng trị bệnh “Dương nuy”, tức bệnh bất lực hay liệt dương. Các toa Đông dược được lưu truyền đến ngày nay, cho dù đơn giản 1-2 vị hoặc phối ngũ cả 20-30 vị, đều đã trải qua thời gian thử thách. Nếu có chỉ dấu lạc quan cũng là nhằm giúp người bệnh phục hồi khả năng sinh lý bình thường bằng kỹ thuật kích hoạt chức năng Thận, làm tăng tối đa lưu lượng máu tràn vào dương vật và giữ càng lâu càng tốt để thực hiện thành công thao tác giao hợp. Về phương châm, Đông y luôn hướng tới mục tiêu cao thượng. Do vậy, mọi sự lạm dụng hoặc lợi dụng thành tựu của y học để thực hiện ý đồ bất chánh, phải tự nhiên, đều không được khuyến khích.
Sau đây xin giới thiệu một số bài thuốc tâm đắc của các danh y kim cổ. Điều cần nói thêm là sẽ thiếu các toa thuốc thuộc loại “bí truyền” như “Hoàng Đế to” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” bởi xét thấy xuất xứ mang tính hoang đường, dược vị cũng chẳng có gì đặc biệt, không ra ngoài khuôn thước của những bài thuốc nổi tiếng đã được chọn.
Bài 1:
Xuất xứ:Phó Thanh Chủ, danh y đời Nhà Thanh, Trung Hoa, chế tác.
Chủ trị: “Dương nuy bất cử” (Dương vật yếu, không cương cứng).
Công thức:
Thục địa | 30g |
Sơn thù nhục | 12g |
Bạch truật (sao) | 15g |
Nhân sâm | 10g |
Phục thần | 08g |
Nhục quế | 06g |
Chích viễn chí | 03g |
Ba kích nhục | 03g |
Nhục thung dung | 03g |
Đỗ trọng (sao) | 03g |
Sắc uống ngày 1 thang
Lý giải:Dương vật mềm rũ không cường được là bởi lúc bình nhật quá ư phóng đãng, giao hoan vô độ khiến cho thoát tiết cái thủy ở trong Thận và làm cho cái hỏa trong Thận cũng vì đó mà tiêu vong đi. Vì thủy tiết thì hỏa cũng tiết là lẽ tất nhiên. Ví dụ, việc nấu ăn, hẳn rồi soong trong bếp phải có nước rồi mới nổi lửa nấu cơm. Nếu như thiếu nước, cứ nung lửa thì làm sao nước sôi.
Ghi chú:Thủa xưa, phẩm chất của các loại dược thảo rất cao, rất mạnh, cho nên các thầy thuốc thường ra cần lượng thấp, vừa đủ hoạt hóa. Ngày nay, do phẩm chất dược lực kém và tình trạng lờn thuốc, thiết nghĩ bài thuốc trên có thể tùy nghi tăng thêm liều lượng mới đủ công lực.
Bài 2:
Bài thuốc: “Bổ thận tráng dương hoàn”
Xuất xứ: Của Trần Thụ Sâm, Y sư Trung Quốc.
Chủ trị:Dương nuy, âm lạnh, già trước tuổi, do Thận dương hư.
Công thức:
Nhân sâm | 30g |
Dâm dương hoắc | 30g |
Câu kỷ tử | 30g |
Nhục thung dung | 30g |
Cách làm: Tán bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn nặng 12g, ngày nhai nuốt 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn. Có thể ngâm với nửa lít rượu trắng, sau khoảng 2 tuần lễ thì dùng được, ngày 2-3 lần, mỗi lần muỗng canh. Nếu muốn dùng dạng thuốc sắc, giảm liều lượng mỗi vị xuống còn 1 nửa, ngày 1 thang.
Gia giảm: Nếu xuất tinh sớm, gia thêm Ngũ vị tử 50g. Trong thời gian dùng thuốc, cần hạn chế giao hợp, siêng năng tập thể dục để tăng cường sức khỏe, giúp nâng cao hiệu quả.
Bài 3:
Bài thuốc: “Vũ thị dương nuy phương”
Xuất xứ:Của Vũ Tác Doanh, Y sư thuộc Trung y viện thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc.
Chủ trị:Dương nuy do Thận dương hư nặng, hay nằm, tay chân lạnh.
Công thức:
Phỉ thái tử | 30g |
Câu kỷ tử | 50g |
Dâm dương hoắc | 30g |
Lộc gân (gân nai) | 20g |
Sơn thù nhục | 25g |
Tiên mao | 20g |
Ba kích nhục | 20g |
Cẩu thận (cật chó) | 20g |
Cao sơn hoàng ngưu chiên | 20g |
Cách làm:Tán bột mịn, luyện mật là tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín pha chút muối nhạt.
Bài 4:
Bài thuốc: “Lâm thị tráng chí thang”
Xuất xứ:Của Lâm Thế Cần, Y sư thuộc Trung y viện thành phố Từ Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy kèm gân xương yếu mỏi, đi đứng không vữn.
Công thức:
Tang ký sinh | 15g |
Ngưu tất | 10g |
Thỏ ty tử | 10g |
Sa uyển tử | 10g |
Nhục thung dung | 10g |
Đỗ trọng | 10g |
Sơn thù nhục | 10g |
Hoài sơn dược | 10g |
Ngũ vị tử | 05g |
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 5:
Bài thuốc: “Trương thị cường dương hoàn”.
Xuất xứ:Của Trương Mộng Nông, danh y nỗi tiếng thuộc Trung y học viên Hà Bắc, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy, kèm theo di tinh, hoạt tinh, kiệt sức.
Công thức:
Chế Hà thủ ô | 120g |
Hoài sơn dược | 120g |
Dâm dương hoắc | 90g |
Xà sàng tử | 90g |
Viễn chí nhục | 60g |
Đương qui | 60 |
Phá cố chỉ | 60g |
Phục linh | 60g |
Tục đoạn | 60g |
Khiếm thực | 60g |
Phỉ thái tử | 60g |
Thỏ ty tử | 60g |
Câu kỷ tử | 60g |
Hồng sâm tu | 60g |
Tiểu hồi hương | 60g |
Cao Ly hồng sâm | 60g |
Hải cẩu thận | 02 quả (tẩm sữa, nướng) |
Dương khởi thạch | 90g (nung chín) |
Thạch liên tử | 60g (sao luôn vỏ) |
Cách làm: Tán bột mịn, luyện với mật ong là tễ nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín pha chút muối nhạt.
Bài 6:
Bài thuốc: “Đoàn thị bổ Thận trợ dương thang”
Xuất xứ:Của Đoàn Á Đình, Y sư thuocj Trung ý viên thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy kèm hoạt tinh, đau lưng, ù tai, yếu sức, mệt nhọc do Thân âm – dương đều hư.
Công thức:
Thục địa | 30g |
Câu kỷ tử | 15g |
Lộc giác giao | 15g |
Thỏ ty tử | 12g |
Dương khởi thạch | 15g |
Sơn thù nhục | 12g |
Nữ trinh tử | 15g |
Dâm dương hoắc | 15g |
Ba kích nhục | 15g |
Phỉ tử | 12g |
Cam thảo | 03g |
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 7:
Bài thuốc: “Bổ thận hoàn”
Xuất xứ: Của Chu Lương Xuân, Y sư thuocj Trung y viên thành phố nam Thông, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy, xuất tinh sớm.
Công thức:
Tử hà xa | 35g |
Thục địa | 45g |
Kim anh tử | 45g |
Ba kích nhục | 45g |
Nhục thung dung | 45g |
Thỏ ty tử | 45g |
Cáp giới (tắc kè) | 01 cặp |
Cách làm: Tán bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn.
Ghi chú: Bài thuốc nầy không hợp với những người có chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, hạ tiêu có thấp nhiệt hoặc tướng hỏa quá thịnh, không nên dùng.
Bài 8:
Bài thuốc: “Các thị trợ nguyên thang”.
Xuất xứ:Cát Lương Thần, Y sư thuộc Trung Y Viện Bắc Kinh, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy, dương vật mềm rũ, đầu choáng, tai ù, rang lung lay, lưng đùi yếu mỏi, tảo tiết, tóc râu bạc sớm.
Công thức:
Sinh địa | 30g |
Hoài sơn | 30g |
Thỏ ty tử | 15g |
Câu kỷ tử | 30 |
Sơn thù nhục | 10g |
Mạch môn đông | 30g |
Hoàng tinh | 30g |
Ngũ vị tử | 10g |
Kim anh tử | 10g |
Hồ đào (đốt cả vỏ) | 01 quả |
Sắc uống ngày 1 thang
Bài 9:
Bài thuốc: “Nhị chí bách bổ hoàn”
Xuất xứ:Của Tân Bá Vị, danh y nỗi tiếng của Trung Quốc.
Chủ trị:Dương nuy, thần khí bạc nhược, tinh huyết hao tổn.
Công thức:
Lộc giác giao | 10g |
Hoàng tinh | 15g |
Câu kỷ tử | 12g |
Thục địa | 20g |
Thỏ ty tử | 10g |
Kim anh tử | 10g |
Thiên môn đông | 12g |
Mạch môn đông | 12g |
Ngưu tất | 10g |
Chỉ thực | 10g |
Long nhãn nhục | 05g |
Lộc giác sương | 20g |
Nhân sâm | 10g |
Hoàng kỳ | 20g |
Phục linh | 12g |
Sinh địa | 10g |
Sơn thù nhục | 12g |
Ngũ vị tử | 06g |
Khiếm thực | 10g |
Hoài sơn dược | 15g |
Tri mẫu | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 10:
Bài thuốc: “Tri thù hoàn”
Xuất xứ: Của Chu Lương Xuân, Y sư thuộc Trung Y viện thành phố Nam Thông, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy mệt nhọc, tinh huyết hao tổn, mất ngủ.
Công thức
Nhục thung dung | 60g |
Thục địa | 90g |
Dâm dương hoắc | 60g |
Tri thù hoa (sấy sơ) | 30g |
Tử hà xa | 60g |
Chích lộ phong phòng | 60g |
Cách làm:Tán bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn. Trị dương nuy rất hay.
Bài 11:
Bài thuốc: “Quan thị bổ Thận âm thang”
Xuất xứ: Của Quan Hưng Yến, Y sư thuộc Trung Y viện Liêu Ninh, Trung Quốc.
Chủ trị: Dương nuy, lưng mỏi, tai ù, lòng bàn tay bàn chân nóng, tiểu tiện vàng hoặc đục như nước cơm, cơ quan sinh dục ẩm ướt, đổ mồ hôi, chất lưỡi đỏ, gốc lưỡi vàng nhớ do Thận âm hư, thấp nhiệt hạ trú.
Công thức:
Thục địa | 15g |
Mộc thông | 15g |
Trạch tả | 15g |
Tri mẫu | 15g |
Mẫu đơn bì | 15g |
Hoạt thạch | 15g |
Xa tiền tử | 15g |
Hoàng bá | 15g |
Ngọc trúc | 20g |
Khiếm thực | 20g |
Liên kiều | 20g |
Kim ngân hoa | 20g |
Long nhãn nhục | 20g |
Đương qui | 20g |
Cam thảo | 15g |
Nữ trinh tử | 15g |
Quế chi | 15g |
Hoài sơn | 12g |
Sơn thì nhục | 10g |
Phục linh | 10g |
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 12:
Chủ trị:Liệt dương do Thận dương suy.
Công thức:
Lão thục địa (sấy khô) | 240g |
Toàn đương qui | 240g |
Xuyên đỗ trọng (sao) | 240g |
Câu kỷ tử (sấy khô) | 180g |
Xà sàng tử | 60g |
Nhục thung dung | 60g |
Ba kích nhục | 30g |
Chế phụ tử | 30g |
Nhục quế (cạo bỏ vỏ) | 30g |
Lộc nhung (sấy) | 30g |
Cách chế:Tất cả đem tán bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín pha chút muối nhạt.
Bài 13:
Biện chứng Đông y:Thận dương hư, tinh quan bất cố.
Pháp trị:Bổ Thận trợ dương, ích Thận cố tinh.
Bài thuốc: “Bổ tử hoàn”
Công thức:
Phá cố chỉ | 240g (sao nước muối) |
Phục linh | 120g |
Cửu thái tử | 60g |
Cách làm: Trước hêt, đem thuocs bỏ vào lọ thủy tinh miệng rộng, đổ giấm cũ vào cho ngập mặt thuốc khoảng 1 ngón tay, ngâm chừng 1 đêm. Sau đó, cho thuốc vào nồi đất hoặc nòi tráng man, ninh cạn rồi sấy thật khô, tán thành bột mịn, khuấy hồ trộn làm hoàn to bằng hạt bắp. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15g.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Tuấn Thọ 25 tuổi, đến khám bệnh cho biết trước đây có bị cảm lạnh, qua điều trị bệnh khỏi dần. Nhưng vài hôm sau bỗng thấy bụng dưới và bìu dái có giật khá đau, tưởng chuyện tầm thường nên bỏ qua không uống thuốc men gì hết.
Sau khi cưới vợ ít lấu, thấy hiện tượng xuất tinh sớm rồi dương vật không thể cương cứng. Đã tìm đủ thuốc đủ thầy chữa trị nhưng không có kết quả. Gần đây lại còn bị di tinh, hoạt tinh, kèm theo đau lưng mõi gối, cơ thể rã rời, người lạnh run, giảm sút trí nhớ, đầu óc căng cứng, tiểu vặt, ăn kém, lưỡi nhạt, rêu trắng mạch đi Hư Nhược. Chẩn đoán “Suy dinh dục” thể Thận dương hư.
Cho dùng 1 liều thuốc “Bổ tử hoàn”, bệnh nhân cho biết dương vật đã cương nhu khá bình thường, tinh không còn tự xuất. Liền cho uống tiếp 1 liều nữa, sinh lực phục hồi như cũ, việc giao hợp rất sung mãn, các triệu chứng đều biến mất, bệnh khỏi. Theo dõi hơn 1 năm không thấy tái phát, vợ sinh 1 đứa con.
Bàn luận: Bệnh nầy do hàn tà xâm nhập trực trúng âm kinh là ngưng trệ chức năng của kinh Quyết âm nên thấy bụng dưới đau và bìu dái co rút; lại vì cưới vợ phòng sự quá độ làm thương tổn Thận dương, tinh quan bất cố dẫn đến liệt dương. Trong bài có Phá cố chỉ đại ôn bổ Thận dương, ích Thận cố thoát; Của thái tử cố tinh, làm nhưng việc xuất tinh không chủ động; lại thêm Phục linh để kiện Tỳ ích khí hóa tinh huyết mà dưỡng khí tiên thiên; sắc thuốc bằng giấm cũ là muốn lấy vị chua sáp tăng thêm tác dụng giữ gìn tinh khí, do đó đạt thắng lợi.
Bài 14:
Biện chứng Đông y:Thận âm Thận dương lưỡng hư
Pháp trị:Tư âm, tráng dương, ích thận
Bài thuốc: “Gia vị ích tinh tráng dương hoàn”
Công thức:
Thục địa | 15g |
Sơn thù nhục | 15g |
Hoài sơn dược | 15g |
Câu kỷ tử | 15g |
Dâm dương hoắc | 30g |
Phục linh | 12g |
Nhục thung dung | 12g |
Tỏa dương | 12g |
Ba kích nhục | 12g |
Bạch nhân sâm | 12g |
Hắc táo nhân | 12g |
Thỏ ty tử | 12g |
Thiên môn đông | 10g |
Cam thảo | 10g |
Lộc nhung | 06g |
Cách chế: Tất cả đem sấy khô giòn, tán thành bột mịn, luyện với mật ong là tễ, mỗi hoàn nặng 10g. Ngày nhai nuốt 3 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín. Kiêng những thực phẩm tanh (cua, sò, mực), lạnh (nước đá, kem).
Hiệu quả lâm sáng: Trần Minh Tân, 38 tuổi, hơn 1 năm qua giao hợp gặp trở ngại vì dương vật không cương cứng lên được, đi tiểu có ít tinh dịch trắng đục chảy ra, thường xuyên bị hoạt tinh. Gần đây cảm thấy lạnh từ eo lưng trở xuống, tim hồi hộp, thở mệt, mất ngủ, hay quên.
Khám ngoại diện thấy người bệnh sắc mặt xanh xao, cơ thể béo bệu, lưỡi nhạt không rêu, tiếng nói nhỏ yếu, mạch đi Huyền Tế vô lực, mạch Xích Trầm Trì. Chẩn đoán liệt dương do Thận âm – dương đồng suy.
Sau khi uống 1 liều thuốc “Gia vị ích tinh tráng dương hoàn” mạch chuyển Hoãn Hoạt, các triệu chứng giảm hơn 60%, cho thấy Thận âm và Thận dương hồi phục dần. Giữ nguyên công thức, cho uống tiếp 2 đợt nữa, dương cường tốt, giao hợp bình thường, bệnh khỏi.
Bàn luận: Dựa theo mạch mà xét, trường hợp nầy do sắc dục quá độ làm kiệt tinh, mà kiệt tinh thì thương âm, âm tổn thì hạ dương, cuối cùng âm dương lưỡng suy nên sinh liệt dương. Mạch đi Huyền Tế, mạch Xích lại Trần Trì chính là biểu tượng mạch Dương hư. Đi tiểu tinh dịch theo ra còn thêm hoạt tinh, lạnh từ eo lưng trở xuống là dấu hiệu Dương hư Âm khuy, tinh quan bất cố. Dùng thuốc tư âm tráng dương, ích thận, cố tinh như bài nầy là đúng pháp.
Bài 15
Biện chứng Đông y: Cuồng nộ thương Can, Can khí uất trệ.
Pháp trị: Sơ Can lý khí.
Bài thuốc: “Tiêu dao tán gia giảm”
Công thức:
Bạch thược | 12g |
Sài hồ | 10g |
Toàn đương qui | 10g |
Phục linh | 12g |
Bạch truật | 10g |
Xuyên luyện tử | 10g |
Chích cam thảo | 06g |
Bạc hà diệp | 10g |
Tiểu hồi hương | 03g |
Sắc uống ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng:Lê Sang, 30 tuổi, cho biết cưới vợ đã 2 năm nhưng chưa có con. Vì sự chê trách của vợ và gia đình, bệnh nhân đâm ra bực bội, mỗi lần giao hợp thấy dương vật ủi xìu không cương cứng như dạo trước. Bị vợ cằn nhằn, bệnh nhân càng tức tối hơn, hai bên sường đau xốc, lưng gối đau mỏi, tim hồi hộp, mất ngủ, cả người lạnh, tay chân cũng lạnh, ăn kém, đi tiêu lỏng. Có uống bài thuốc bổ thận tráng dương nhưng không thấy chuyển biến.
Khám thấy mạch đi Huyền Tế, rêu lưỡi mỏng trắng. Chuẩn đoán do vợ chồng bất hòa vì chuyện chăn gối khiến cho bệnh nhân u uất, mà u uất thì thương Can. Can khí một khi uất trệ thì làm hại Cân (Gân) ở Quyết âm, gây chứng liệt dương. Sau khi uống 4 thang “Tiêu giao tán gia giảm” bệnh nhân cho biết dương vật cương cứng như cũ, giao hợp bình thường, bệnh khỏi. Chẳng bao lâu vợ có thai, sinh được đứa con trai.
Bàn luận: Liệt dương hay “Dương nuy” là bệnh ở Can thuộc Quyết âm chân, bệnh sinh do nội thương. Trương Cảnh nhạc nói: “Âm nuy giả dương bất cử dã”, cần bổ thận tráng dương thì mới thu công. Trường hợp nêu trên lại do u uất thương Can gây liệt dương là bệnh hiếm thấy trên lâm sàng; vì thế cần nên theo dõi cả những nguyên nhân bên ngoài mà ứng dụng pháp trị cho thích hợp.
Bài 16:
Biện chứng đông y: Thận dương bất túc, mệnh môn hỏa suy.
Pháp trị: Ôn thuận tráng dương.
Bài thuốc:“Hải hà tán”
Công thức:
Sinh hải hà (*) 500g
Dâm dương hoắc 200g
Hồ đào nhân 80 quả
Rượu đế ngon 250ml
Cách chế: (*) Sinh hải hà là tôm biển còn sống. Trước hết, đổ rượu vào bình miệng rộng, bắc lên bếp đun rượu cho nóng, bỏ tôm biển vào trộn đều để tôm thấm rút hết rượu. Vớt tôm ra, sấy thật khô. Hồ đào nhân đem giả dập, ngâm trong nước muối rồi cũng sấy khô. Hồ đào nhân đem giã dập, ngâm trong nước muối rồi sấy khô. Sau cùng, đem hải hà và hồ đào tán thành bột mịn, chia thành 20 gói. Ngày uống 2 lần, mỗi lần ½ gói bột thuốc với nước sắc Dâm dương hoắc ( dùng 10g Dâm dương hoắc nấu lấy 100ml nước để uống thuốc ). Mỗi đợt điều trị là 2 tháng. Trong thời gian chữa bệnh, kiêng giao hợp.
Hiệu quả lâm sàng: Võ Thiếu Quân, 25 tuổi, sau khi lấy vợ một thời gian vì dương vật mất hẳn sự cương cứng nên bị vợ chê. Bệnh nhân rất đau khổ, đã tìm đủ thuốc đủ thầy chạy chữa nhưng vẫn không kiến hiệu.
Được giới thiệu bài “Hài hà tán”, dùng gần 2 tuần lễ thì bệnh nhân mừng rỡ báo tin dương vật bắt đầu cương cứng gần bằng lúc chưa mắc bệnh. Uống hơn 1 tháng, sức mạnh giao hợp rất sung mãn, bệnh khỏi. Lại căn dặn uống thêm thuốc “Lục vị địa hoàng” nhằm mục đích lấy âm tích dương, cũng cố căn nguyên. Theo dõi hơn 6 tháng, mừng vợ có thai.
Bàn luận: Tôm biển vốn thuộc cam bàn, đem rang nấu sắc đỏ thì thành ôn ấm, từ âm chuyển sang dương, dùng tư bổ Tâm Can Thận rất tốt; Hồ đào nhân là thuốc ích Thận, lợi Tam tiêu, bổ Mệnh môn hỏa; Dâm dương hoắt bổ âm trợ dương. Ba thứ bổ cả âm dương, giúp nhau cường thịnh nên hiệu quả nhanh.
Bài 17:
Biện chứng đông y:Thận hư tinh yếu, Mệnh môn hỏa suy.
Pháp trị:Bổ thận cố tinh.
Bài thuốc: “Cửu tử hồi xuân thang” hiệp “Hải lộc tán”
Công thức:
17a. “Cửu tử hồi xuân thang”:
Thỏ ty tử 25g
Phúc bồn tử 25g
Câu kỷ tử 25g
Cửu thái tử 15g
Thạnh liên tử 15g
Xà sàng tử 10g
Phá cố tử 05g
Ngũ vị tử 05g
Đại thục địa 50g
Hoài sơn dược 50g
Dâm dương hoắc 25g
17b. “Hải lộc tán”
Hải mã ( sấy chín) 10g
Lộc nhung (sấy chín) 10g
Hồng nhân sâm 10g
Nhục quế (cạo vỏ) 03g
Cách chế: Bài “ Cửu tử hồi xuân thang” đem sắc lấy 2 nước, trộn chung nhau, chia làm 3 lần uống trong ngày. Toa “Hải lộc tán” đem tán thành bột mịn, mỗi lần 3g với nước thuốc “Cửu tử hồi xuân thang” mà uống. Cứ 15 ngày là một đợt điều trị, mỗi đợt cách nhau 3 ngày. Kiên trì dùng 1-3 đợt sẽ thấy kết quả.
Hiệu quả lâm sàn: Đã trị thảy 128 ca liệt dương, tuổi từ 25-50 tuổi, đều có vợ. Có 65 ca dương nuy hoàn toàn, 63 ca dương vật cương nhưng không đủ cứng. Thời gian mắc bệnh sớm nhất 2 tháng, lâu nhất 7 năm, trong đó có thêm 29 ca hoạt tinh. Sau khi dùng phương thang nói trên từ 4-12 tuần lễ, có 107 ca dương vật cứng như cũ, 11 ca cương cứng nhưng tinh sớm, 6 ca phải mất hơn 5 tháng điều trị mới hồi phục trên 80%, 4 ca vô hiệu vì mắc bệnh lâu 7 năm.
Bàn luận: Đây là một trong những bài thuốc rất nổi tiếng. Tính hiệu quả đã được thử thách, đánh giá cao qua lâm sàn. Nếu so với các bài thuốc “Hoàng đế toa”, “Minh mạng toa” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” từng được dân gian tôn sùng là “linh dược” thì có thể nói không quá đáng rằng bài “Cửu tử hồi xuân thang” và “Hải lộc tán” xứng đáng ngôi vị “Thần dược”.
Phiếm luận
BẤT LỰC – BỆNH KHAI TỬ TÌNH YÊU
Ngày nay vấn đề chẩn đoán bệnh tật cũng như chọn lọc thuốc trị bệnh không còn thiên man vạn nan thu thuở xưa nữa. Muốn chọn Bác sĩ giỏi, giàu kinh nghiệm, cứ lật sổ niêm giám điện thoại ra là biết ngay vị đó đang lam việc ở đâu và chuyên khoa về bệnh gì. Muốn tìm thuốc đặc trị cứ vấn Kế dược sĩ sẵn sàng có mặt tại các dược phòng. Còn muốn tìm hiểu về y học, hãy bước vào thư viện và các hiệu sách, từ chứng cảm lạnh thông thường cho đến bệnh nan y nhu HIV/AIDS, cancer, chủ đề nào cũng có, trình độ nào cũng có. Chỉ riêng bệnh “Bất lực” ở nam giới, căn bệnh đặc biệt ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, lại ít thấy y khoa quan tâm. Tài liệu, sách vở nghiên cứu chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nói về thuốc điều trị, trong thời gian gần đây có vài biệt dược như Vaigra chẳng hạn, được tán thán la “ thần dược” nhưng không phải hoàn toàn vô hại vì đẻ ra một số phản ứng phụ nguy hiểm khiến hằng tỷ người ham chuyện gối chăn vừa hồ hởi vừa run. Rõ ràng bệnh “Bất lực” vẫn còn là bóng ma vĩ đại trong tình yêu và “khai tử” hạnh phúc lứa đôi có thể tuyên đọc bất cứ lúc nào. Ôi! Bất lực, mi là ai mà khốc liệt đến thế?
Bất lực (impotence), trước hết là một biểu tượng cho sự thất bại. Chẳng cần quan sát, chỉ nghe xướng danh không thôi là đã bị thần ái tình gạt phăng ra khỏi danh sách thi tuyển hôn phu. Thật là thiếu thẩm mỹ, thiếu sinh khí với một cơ phận sinh dục được biểu thị bằng cụm từ đáng chán: “liệt dương”, “6 giờ chiều”, “gãy cột cờ”, “xìu xìu ễn ễn” hay “hết xíu quách”. Bất lực cũng còn là một căn bệnh… không giống con giáp nào cả, từ nguyên nhân cho đến kết quả. Nói rằng bệnh nhưng chẵng gây đau đớn, không truyền nhiễm, không làm suy yếu sức khỏe và cũng không gây chết người. Nói rằng vô bệnh, vậy mà giao cho một việc rất đơn giản cũng làm không xong thì khỏe, vô bệnh ở chỗ nào? Người chồng tự nhiên biến thành kẻ thù chăn gối của người vợ. Hạnh phúc biến thành địa ngục với những hình phạt âm thầm nhưng vô cùng nghiệt ngã.
QUAN ĐIỂM CỦA Y HỌC HIỆN ĐẠI
1. Khái niệm và định nghĩa:
Giao hợp là một động tác sinh lý tự nhiên của sinh vật, trong đó có loài người. Giao hợp hoàn chỉnh trải qua ba giai đoạn:
a. Giai đoạn ham muốn làm tình.
b. Giai đoạn cương cứng bộ phận sinh dục của giống đực.
c. Giai đoạn phóng tinh (không nhất thiết có yếu tố cực khoái).
Từ “bất lực”, theo nghĩa đen, là không đủ sức hoặc không đủ năng lực (inaptness) hoàn thành một việc theo ước muốn. Theo nghĩa rộng, từ “liệt dương” (impotence) được coi là chính xác nhất. Liệt dương là tình trạng dương vật của giống đực không còn hoạt động, mất tính cương cứng theo y muốn.
2. Những công trình nghiên cứu:
Liên tiếp vào những năm 1863, 1866, 1898 rồi 1952, 1963, 1986 và 1979, các giáo sư, bác sĩ Eckardt, Gaskell, Langley, Contri, Newman, Kaplan đã thực hiện nhều công trình nghiên cứu về bệnh liệt dương. Khởi thủy, họ đưa ra nhiều học thuyết khác nhau nhưng cuối cùng đưa ra quan điểm được đa số đồng thuận:
“Hiện tượng cương là một phản xạ từ dây thần kinh tủy sống, đòi hỏi yếu tố giản động mạch và ứ đọng tĩnh mạch với sự tham gia đắc lực của hệ cơ”. Như vậy, bệnh liệt dương có liên quan đến thần kinh, huyết mạch, nội tiết và cả mô học chứ không đơn giản như chúng ta thường nghĩ.
Các nhà khoa học phân tích:
a. Ở thể cương: Dương vật cương lên được là nhờ hai thể: thể hang và thể xốp. Thể xốp bao quanh nệu đạo, còn thể hang có dạng hình thoi nằm hai bên thể xốp và thông với nhau bằng những hệ thống mao mạch có tính đàn hồi.
b. Sinh lý của thể cương: Trung tâm chi phối thể cương nằm trong tủy sống S2-S4 thuộc hệ đối giao cảm và T12-L1 thuộc hệ giao cảm.
c. Chi phối: Dương vật cương cứng do 3 hệ thống thần kinh chi phối: Dây thần kinh thể hang, dây thần kinh thể cương và dây thần kinh hạ vị. Khi cơ co bóp sẽ đẩy máu vào động mạch khiến bộ phận sinh dục nam cương cứng, nếu máu thoát vào tĩnh mạch thì dương vật sẽ xìu xuống.
3. Nguyên nhân gây liệt dương:
Giao hợp hoàn chỉnh là sự hoạt động “ăn khớp” giữa các hệ thần kinh trung ương, thần kinh thực vật, hệ tuần hoàn, hệ nội tiết. nó còn đòi hỏi sự phát triển bình thường của bộ phận sinh dục, sự hoàn hảo về giải phẫu học của thể hang, tức yếu tố giúp dương vật cương cứng. Một khi các yếu tố nói trên bị rối loạn, khuyết tật, sẽ dẫn tới tình trạng liệt dương. Sau đây một vài yếu tố chính:
Tầm thần: Do lo sợ quá độ, bệnh trầm cảm, sự thất vọng, bao lực kiệt sức, bất hòa giữa vợ chồng.
Nội tiết: Thiếu hoặc giảm lượng kích thích tố nam và một số kích thích tố khác như VIP, LHRH, tăng Prolactin do bứu tuyến yên.
Huyết mạch: Xơ hóa thể hang do chấn thương, động mạch chậu thiếu phát triển. Đây là nguyên nhân phổ biến nhất, chiếm đến 60% trường hợp liệt dương.
Thần kinh: Bị chấn thương tủy sống, cổ, ngực, bệnh động kinh do thương tổn não, bệnh liệt toàn thân, bứu não, teo vỏ não.
Bộ phận sinh dục dị dạng: Do thoái hóa bẩm sinh, teo. Hiện tượng bán nam bán nữ, còn gọi là “bê đê”, nằm trong yếu tố này.
Các nguyên nhân khác: Nghiện rượu, nghiện ma túy, tiểu đường, chạy thận nhân tạo, ghép thận, dùng thuốc kháng histamine, thuốc an thần, thuốc chống huyết áp cao, thuốc lợi tiểu, thuốc giãn mạch, thuốc kháng androgen liều cao, cắt bỏ hai tinh hoàn… Tại sao? Các nhà nghiên cứu giải thích:
Liệt dương do tâm thần là hiện tượng gây xáo trộn sự vận động của não, cơ quan tiếp nhận thông tin và trả lời mọi đòi hỏi về tình dục. Khi não hỗn loạn hoặc thiên lệch về cảm ứng thì người bệnh không còn thiết tha gì đến tình dục.
Yếu tố nội tiết rất cần cho tình dục, bởi lẽ kích thích tố nam duy trì sự phát triển cơ quan sinh dục, kích hoạt các trung tâm tình dục ở não và vùng dưới đồ thị, kiểm soát sự cương cứng, tác động sự ham muốn giao hợp và thể cương.
Huyết mạch giữ vai trò chính trong việc bơm máu vào thể hang của dương vật và kềm giữ máu trong suốt thời gian giao hợp. Sau giai đoạn cực khoái và phóng tinh, máu sẽ bị cơ co bóp đẩy ra tĩnh mạch khiến cho thể hang xẹp như bong bóng xì hơi, dương vật xìu xuống và mềm nhũn. Trong bệnh tiểu đường, các cơ nhẵn của thể hang bị xơ chai nặng, mất tính co giãn, nên gây liệt dương.
Trong yếu tố thần kinh, nên biết rằng giao hợp bình thường đòi hỏi sự phối hợp hài hòa giữa trung tâm tủy sống thuộc thần kinh giao cảm D12-L2 (ngực và lưng), trung tâm đối ngoại giao cảm, S2-S4 và trung tâm tình dục ở não. Một khi huyết mạch ở não bị chấn thương, khả năng tình dục giảm tới 80%.
QUAN ĐIÊM CỦA ĐÔNG Y HỌC
Bệnh bất lực hay liệt dương, Đông y xếp vào chứng “dương nuy”. Sách Hoàng Đế Nội Kinh, thiên “Sinh lý” viết:
“Nam tử bát tuế, thận khí thịnh, sỉ canh phác trường. Nhị bát, thận khí thực, thiên quí chí, tinh khí dật tả, âm dương hòa, cố năng hữu tử”. Tạm dịch “Con trai đến 8 tuổi thì thận khí mạnh, răng thay, tóc dài. Tới 16 tuổi thì thận khí sung mãn, tinh khí tràn đầy, khí âm khí dương chan hòa cho nên có con”. Từ lý luận mang tính kinh điển, bệnh liệt dương được xếp vào một trong những bệnh thuộc Thận. Vì thế, khi truy cứu nguyên nhân gây bệnh liệt dương, hầu hết y văn cổ truyền đều quy trách vào thận khí hoặc Thận dương suy.
Sách “Hải Thượng Y Tông Lĩnh” của y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác, hiệu “Hải Thượng Lãn Ông” cũng đồng quan điểm:
“Dương sự khỏe hay yếu do chân hỏa thịnh hay suy, vì hỏa tác động những căn bản do tình sự. Muốn chữa có kết quả nên bể đều 5 tạng khiến tinh ba của năm tạng chuyển về thận, vì Thận là nơi tàng chứa tinh, không cần dùng thuốc cương dương mà dương cũng tự cương”. Nhưng Thận tạng, học thuyết của Đông y quan niêm như thế nào? Y văn cổ truyền giải thích:
Thận: Là cơ quan đều hòa thủy dịch lại là nơi chứa tinh của ngũ tạng lẫn tinh của bộ máy sinh dục. Thận lại còn trong coi sự phát dục, tăng trưởng của cơ thể. Xét về dich học, qui luật âm dương, Thận ứng với hành Thủy, đóng ở phươn Bắc, biểu tượng là quẻ Khảm, thuộc về màu Đông, tương ứng với màu đen trong ngũ sắc, ứng với sự sợ hãi trong ngũ tình, vị mặn trong ngũ vị, khai khiếu ra lỗ tai cùng tiền âm và hậu âm, vinh nhuận ra tóc. Dựa trên cơ sở lý luận về ngũ hành, người xưa cho rằng con người giống như vũ trụ, sở dĩ tồn tại và phát triển được là nhờ khả nẳng tự đều chỉnh, chống lại mọi rối loạn về bệnh lý theo mô thức “sinh toán học” tự phục hồi trong y khoa phòng ngừa.
Mệnh môn hỏa: Động y học chia thận làm hai phần: Thận âm và Thận dương, còn gọi là Thận khí, Thận hỏa hay Mệnh môn hỏa. Y tổ Hải Thượng Lãn Ông cho rằng hai quả thận cũng là một “Thái Cực Đồ”, chính giữa có một điểm nhỏ gọi là “mệnh môn”. Mệnh môn này cũng biểu thị bằng “Hỏa” nhưng là hỏa vô hình (khác với tâm hỏa, thuộc hữu hình, thuộc quẻ Ly Trong Bát quái đồ). Hải Thượng Lãn Ông giải thích:
“Con người mới sinh ra thì hai quả thận là Thái cực trong việc lập mệnh, các tạng phủ khác đều nhờ vào một điểm Mệnh môn ấy”. Cho nên y thư nói: “Bách bệnh gốc đều ở tạng Thận” hoặc là “Gặp chứng hư yếu phải giữ ngay lấy phương Bắc” ám chỉ hành Thủy, tạng Thận và bồi bổ tạng Thận để giữ lấy sinh mệnh”. Cho nên, bệnh liệt dương cho dù biến thái trăm kiểu nghìn dáng thì gốc bệnh nằm ngay ở Thận chứ không còn nơi khác. Pháp chữa trị đúng đắn nhất vẫn là phục hoạt Thận khí, bồi đắp Thận tinh.
Tóm lại, bệnh liệt dương hay bất lực tuy tác hại một người với lực phản động cực kì hung hãn có thể làm di lụy tới hai người và trở thành trận cuồng phong cuống phăng cả đàn con cùng cả họ hàng quyến thuộc xa gần ra khỏi mái ấm gia đình. Chúng ta thường nói: “Trời kêu ai nấy dạ”. Những gì sảy ra ngoài ý muốn thì còn có thể than Trời, trách Đất sao ăn ở bất công nhưng hậu quả do ta xây dựng có ý thức bằng những hồ gạch độc hại thì trách ai đây?
Nghiện rượu, nghiện thuốc lá, đùa giỡn với ma túy là những trò chơi thiếu khôn ngoan. “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” câu nói bình dân nhưng rõ ràng là tiếng chuông báo tử, có sức thuyết phục và có giá trị vượt thời gian.
Hỡi các đấng mày râu! Hỡi các chàng trai anh hùng! Đã là chiễn sĩ thì không có lý do gì đào ngũ, cuốn cờ bỏ chạy. Hãy hiên ngang đứng lên và tiến về phía trước. Đó là mệnh lệnh của tình yêu!!!
NỮ KHOA – PHỤ KHOA
TỔNG QUÁT
Từ thời thượng cổ, các thầy thuốc Đông y đã sớm biết sinh lý và bệnh lý của nữ giới có nhiều hình thái khác hơn nam giới nên đã lập ra một khoa riêng để chuẩn đoán và đều trị, đặt tên là “Nữ khoa” hay “Phụ khoa”. Hình thái khác biệt ấy có thể tóm lược qua hai nhận định mang tính kinh điển như sau:
Sách “Tuệ Tĩnh Toàn Tập” Chương XIV, Mục “Tạp bệnh”, quốc y Việt Nam Tuệ Tĩnh nói: “đều là người, đàn bà yếu hơn đàn ông; đều là bệnh, đàn bà nhiều bệnh hơn đàn ông; đều là trị bệnh, đàn bà khó trị hơn đàn ông”.
Sách “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” Quyển thứ 26-27 tập “Phụ đạo Xán Nhiên” (hiểu rõ về Phụ khoa) trang “tiểu dẫn”, y tổ Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông viết: “chữa mười người đàn ông không khó bằng chữa một người đàn bà”.
Thật vậy, ngoài những chứng ngoại cảm, nội thương và các bệnh nan y đều có thể mắc phải như nam giới, nữ giới đều có còn nhiều cơ quan và chứng bệnh đặc biệt mà nam giới không bao giờ liên lụy, như: Kinh nguyệt, rong kinh, rong huyết, thai tiền, sản hậu, nuôi con bằng sữa mẹ, vô sinh, trưng hà, bạch đới, tiền hậu mãn kinh, ung bứu tử cung… đa mang, phức tạp. Chính những lý do nầy dẫn tới hình thành bộ môn “nữ khoa” hay “Phụ khoa” với đội ngũ chuyên viên, bệnh viện, y cụ, trường đào tạo và sách vở hướng dẫn hoàn toàn riêng biệt. Nói chung, tất cả đề được hệ thống hóa và chuyên mông hóa.
Muốn tìm hiểu thấu đáo “Phụ khoa” không gì tốt hơn là nghiên cứu song song cả hai học thuyết Đông và Tây y để thẩm thấu trọn vẹn cái giá trị vừa vĩ đại vừa vi tế lắm khi mưu thuẫn sâu sắc từ cách dùng thuật ngữ chuyên môn cho đến lý luận. Qua đó, vượt khỏi quan niệm khinh trọng, mỗi người rút ra được bài học tâm đắc để ứng dụng ngay vào hoàn cảnh thực tiển một cách có lợi nhất theo từng trường hợp và đều kiện khả thi.
Y HỌC HIỆN ĐẠI
CẤU TRÚC CƠ QUAN SINH DỤC NỮ
1. Bộ phận sinh dục ngoài:
Bộ phận sinh dục ngoài, còn gọi là ngoại âm, nằm giữa hai đùi, phía trước là xương chậu, phía sau là hậu môn, trong đó bao gồm nhiều bộ phận nhỏ với các cấu trúc và chức năng đặc biệt như: Mu, mô lớn, mô nhỏ, âm vật, tiền đình âm đạo, cửa niệu đạo, màng trinh và âm hộ,…
Mu: gồm một lớp mỡ nằm ở vị trí mặt trược xương chậu, lớp mỡ này cấu tạo không đều, mỏng ở phía trước, rất dày ở phía sau. Đến tuổi đậy thì, khu vực này mọc lông, phân bố thành một hình tam giác đáy hướng xuống dưới, càng gần cuối mở ra hai bên như hình chiếc tháp canh.
Mô lớn: Gồm hai nếp gấp nằm gần hai bên đùi. Thời kỳ chưa chồng hay chưa sinh con, mô lớn thường che phủ âm đạo một cách tự nhiên. Sau khi có chồng hoặc sinh con, 2 nếp gấp tách ra xa khỏi âm đạo. Lớp mỡ đệm bên dưới mô lốn có chứa nhiều mạch máu, tuyến dịch và dây thần kinh.
Mô nhỏ: Gồm một nếp nhăn mỏng nằm phía trước mô lớn, kết hợp nhau thành nếp nhăn hai tầng bọc quanh bao âm vật (mặt trên) và mép âm hộ (mặt dưới). Mặt ngoài mô nhỏ không có lông, màu hồng nhạt, có chất nhờn ẩm ước và dính như keo loảng. Dưới lớp da có mạch máu, nhiều sợi cơ đàn hồi và dây thần kinh cảm giác với cường độ cảm ứng nhanh.
Âm vật: Nằm giữa mô nhỏ, đầu trước ngoại âm, có cấu trúc giống như phần xương xốp ở bộ phận sinh dục nam, được chia làm ba bộ phận: chân âm vật, thân âm vật, đầu âm vật. Đầu âm vật tập trung rất nhiều dây thần kinh, cảm giác rất nhạy và phồng lên mỗi khi có nhu cầu tình dục. Thời kì còn nhỏ tuổi, âm vật thường được bao âm vật phủ kín, ít lộ ra ngoài.
Tiền đình âm đạo: Nằm giữa mô nhỏ, phía dưới âm vât, nửa phía trước là của niệu đạo, nửa phía sau là cửa âm đạo.
Tuyến tiền đình: Kích thước bằng hạt đậu nành, nằm hai bên cửa âm đạo. Khi có nhu cầu về tình dục, tuyến tiền đình tiết ra chất nhờn màu vàng nhạt làm trơn ướt cửa âm đạo. Tuyến này không lộ diện trong trường hợp bình thường, khi bị viêm có thể xưng lên hoặc làm mủ.
Cửa nệu đạo: nằm phía dưới âm vật, trên cửa âm đạo, nơi giải phóng nước tiểu. Do cấu trúc quá gần với cửa âm đạo, các vi khuẩn bám quanh cửa niệu đạo dễ dàng xâm nhập vào âm đạo gây ra chứng viêm nhiễm đường sinh dục.
Của âm đạo và màng trinh: Cửa âm đạo là “cổng” vào bên trong cơ quan sinh dục nữ. Hình thể và kích thước cửa âm đạo không đồng nhất, to nhỏ không đều tùy thuộc vào chủng tộc cơ thể, thời kì còn trẻ, hoặc đã lập gia đình hay sinh nở. Phía trên cửa âm đạo có 1 lớp màng mỏng chắn ngang, hai bên gắn liền với vách cửa âm đạo gọi là màng trinh, dày mỏng tùy theo cấu trúc, giữa có một lỗ nhỏ và dễ rách khi bị va chạm mạnh. Màng trinh chứa các tổ chức hạt, mạch máu và các chùm dây thần kinh.
2. Bộ phận sinh dục bên trong:
Bộ phận sinh dục bên trong của nữ giới có: Âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng và buồng trứng.
Âm đạo: là trục lộ giao thông nối liền cơ quan sinh dục bên trong và bên ngoài, nằm giữa bàng quang, niệu đạo và trực tràng. Khi đứng, âm đạo nằm hướng về phía trước, đầu trên tương đối rộng, vách phía trước dài khoản 7-9 cm, vách phía sau 9-12 cm.
Vách âm đạo có 3 lớp: Lớp màng niêm mạc, lớp cơ trơn khá phẳng và lớp tổ chức đàn hồi. Lớp niêm mạc âm đạo có màu phấn hồng, sinh ra các dịch thẩm thấu giúp cho âm đạo giữ được trạng thái ẩm ướt và dịch này thường có màu trắng sữa gọi là bạch đới hay huyết trắng. Sau tuổi dậy thì, do ảnh hưởng nội tiết tố buồng trứng (estrogen hormone), các tế bào thượng bì của âm đạo bao gồm các chất tiết xuất ra và được phân giải thành chất kiềm, trị số pH là 4.5, có đặc tính tự làm sạch âm đạo và kháng các vi khuẩn phát triển trong âm đạo.
Âm đạo là con đường để bài tiết kinh nguyệt, các chất dịch, cũng là hành lang tiếp nhận cớ quan sinh dục nam khi giao hợp và là của ngõ giúp thai nhi lọt ra khỏi bụng mẹ. Hết 1/3 phía ngoài âm đạo là khu cảm giác kích hoạt sự hưng phấn. Đây cũng là vị trí chủ yếu để thăm khám, thực hiện các thủ thuật về phụ khoa.
Tử cung: có hình dạng hao hao giống như con trâu, nằm ở giữa khung chậu, phía trước bàng quang, phía sau gần với trực tràng. Tử cung gồm hai bộ phận:
a. Thể tử cung: Là phần to hơn nằm phía trên, gồm nhiều cấu trúc khá phức tạp, trong đó quy tụ các bộ phận chủ yếu: Vách tử cung, lớp màng tương thuộc dạng phúc mạc, lớp cơ trơn và lớp nội mạt tử cung. Riêng lớp cơ trơn, vào lúc bình thường dày khoản 0.8 cm, nhưng khi mang thai có thể tăng độ dày lên tới 2.5 cm. Còn lớp nội mạc tử cung, quan trọng hơn hết là lớp hải miên (bông biển) có đặc tính biến đổi theo trạng thái mang tính chu kì của nội tiết tố buồng trứng, mỗi tháng tự tróc một lần và bị đẩy ra ngoài cùng với máu gọi là kinh nguyệt.
b. Cổ tử cung: là phần dẹp hơn thể tử cung, ở dưới, có hình tụ tròn, dài khoản 2.5-3 cm. Phần cổ tử cung nằm trong âm đạo gọi là phần cổ tử cung âm đạo. Nhờ các lớp niêm mạc chứa tế bào phân tiết, cổ tử cung thường được phủ một lớp niêm dịch để ngăn chặn sự xâm nhập của vi trùng hoặc vi khuẩn. Vào giai đoạn rụng trứng, lớp niêm dịch có khuynh hướng mềm mỏng, giúp cho tinh trùng dễ dàng vượt qua. Theo khoa lâm sàng học, các nhà chuyên môn thường dùng phương pháp xét nghiệm niêm dịch trong cổ tử cung để chuẩn đoán tình hình rối loạn bên trong buồng trứng.
Tử cung có chức năng nuôi dưỡng bào thai cho đến ngày sinh nở. Tử cung và cổ tử cung có kích thước to hay nhở tùy thuộc vào độ tuổi và tình trạng sinh đẻ ít hay nhiều của phụ nữ.
3. Ống dẫn trứng:
Ống dẫn trứng bao giờ cũng có hai ống, một bên trái và một bên phải, nhỏ, dài, hình trụ tròn hơi cong, chiều dài từ 8-14 cm, đầu trong gắn liền với gốc tử cung giống như đầu bò với sừng bò, đầu ngoài xòe ra tua tủa như cánh san hô.
Ống dẫn trứng được cấu tạo bởi 3 lớp: Lớp niêm mạc, lớp cơ trơn va lớp màng thuộc thể tương. Ống dẫn trứng có chức năng sinh thực và phát triển, hoạt động vô cùng tinh tế. Trong một thời gian hạn định, ống dẫn trứng làm cho tinh trùng của người nam và trứng của người nữ gặp nhau theo một trình tự hoàn toàn trái chiều để kết cấu thành bào thai. Bào thai được phát dục trong ống dẫn trứng rồi sau đó tách ra và chuyển dịch về phía tử cung. Lúc này màng trong của tử cung đã chuẩn bị sẵn một căn phòng cho bào thai trú ngụ rồi 3-4 ngày sau đó đưa hẳn vào trong xoang tử cung để “định cư” lâu dài.
4. Buồng trứng:
Buồng trứng gồm một đôi, có dạng tròn, hình bầu dục, treo lơ lửng trong tinh tuyến, bề ngoài có màu trắng xám. Kích thước của buồng trứng tùy theo tuổi tác, trung bình ở người trưởng thành có kích cỡ 4x3x1 cm và trọng lượng ước chừng 4-6g.
Buồng trứng có chức năng sinh sản các trứng, rụng trứng theo chu kì và tiết xuất các nữ tiết tố để cung cấp cho nhu cầu sinh lý. Ở các bé gái mới sinh ra, buồng trứng chứa hơn 100.000 noãn bào nguyên thủy. Đến tuổi dậy thì, dưới sự đều phối của các kính thích tố phân tiết sau mỗi lần kinh nguyệt, trong buồng trứng có một số noãn bào đồng loạt phát dục nhưng chỉ có một noãn bào phát dục đầy đủ, gọi là trứng chín và rụng. Do đó, trong đời sống sinh lý của người nữ, chỉ có chưng 300-400 noãn bào được phát dục đến ngưỡng chín mà thôi. Số còn lại sẽ tự thoái hóa mặc dù vẫn hiện diện cho đến sau thời kì tắt kinh.
SINH LÝ CƠ QUAN SINH DỤC NỮ
1. Hệ thống thần kinh trung ương
Các chức năng sinh dục của con người được đều khiển bởi các nội tiết tố tiết ra từ các tuyến vùng dưới đồi của não bộ, gọi tắt là GnRH. Những hạch này cùng các dây thần kinh hoạt động phần lớn theo mệnh lệnh của tuyến yên, biến thành một mạng lưới đều hành phức hợp nhưng hoàn hảo.
Các tuyến vùng dưới đồi kết hợp với các màng tế bào phân tiết phóng thích các kích thích tố hoàng thể (LH) và các kích thích tố noãn bào(FSH) tạo phản ứng dây chuyền tiếp theo sau và buồng trứng phân tiết sản xuất ra nội tiết tố estrogen và progesterone.
Mặc dù kích thích tố hoàng thể (LH) và noãn bào (FSH) đều được phóng xuất từ các tuyến vùng dưới đồi (GnRH) nhưng cả hai LH và FSH lại có kĩ thuật phân tiết không giống nhau tùy theo ảnh hưởng bởi các đơn vị quản trị tại trung khu thần kinh, ví dụ các tuyến thúc đẩy việc tăng tiết sữa, vận hành chu kì kinh nguyệt, thời kì rụng trứng, sản lượng estrogen và progesternoe được phóng xuất…
a. Chức năng sinh lý Estrogen: Estrogen đóng vai trò phát dục ở tử cung, giúp cổ tử cung phân tiết niêm dịch nhiều hơn để tinh trùng dễ thoát qua “trạm gác” cài đạt nhiều chướng ngại, thúc đẩy nhu động trong ống dẫn trứng, tăng sinh tế bào thượng bì âm đạo hoặc các tuyến dẫn sữa,duy trì nữ tính, tăng tính nhạy cảm và sức co bóp của tử cung khi mang thai cũng như lúc đẻ.
b. Chức năng sinh lý Progesterone: Chức năng sinh lý có phần “phản động” so với kích thích tố Estrogen. Progesterone tác dụng giảm niêm dịch cổ tử cung vừa làm đặc hơn, gây bất lợi cho việc di chuyển của tinh trùng, ức chế sự giao động của ống dẫn trứng, thúc dẩy sự phát dục tế bào tuyến vú qua hình ảnh bầu vú lớn dần lên ở tuổi trưởng thành, làm tăng nhiệt lên từ 0.3-0.5 độ C từ sau giai đoạn rụng trứng và duy trì cho tới kỳ kinh, ức chế sự phân tiết LH của tuyến yên vùng dưới đồi bằng tác dụng phản hồi.
2. Sinh lý kinh nguyệt:
Sau tuổi dậy thì, sự phân tiết các kích thích tố tuyến sinh dục và buồng trứng ở nữ giới thay đổi theo chu kỳ. Đều này cũng xảy ra ở ống dẫn trứng và nội mạc tử cung đẫn tới hiện tượng nội mạc tử cung bóc ra và xuất hiện kinh nguyệt.
Từ ngày hành kinh, là ngày thứ nhất, tính đến ngày thứ nhất của lần hành kinh sau được gọi là một chu kì kinh nguyệt. Mỗi chu kỳ có thể phân thành 5 giai đoạn như sau:
a. Giai đoạn tái sinh: Nội mạc tái sinh, bắt đầu từ ngày thứ 3 trước khi ngưng hành kinh và kéo dài cho đến 4-5 ngày sau khi sạch kinh, nghĩa là dài hơn chu kỳ kinh nguyệt. Dấu hiệu tái sinh được thấy qua bề mặt lớp thượng bì có những tế bào hình lập phương to nhỏ khác nhau xuất hiện.
b. Giai đoạn tái sinh: Vào thời kỳ nầy, nội mạc sẽ tạo ra các tầng chức năng, hoàn thành việc tăng sinh gián chất và thể tuyến, nội mạc trở nên đầy hơn, số lượng thể tuyến nhiều hơn.
c. Các giai đoạn phân tiết: Trong lúc trứng rụng ở nội mạc ít có dấu hiệu thay đổi rõ nét. Sau khi trứng rụng 24-26 giờ, do tác dụng của kích thích tố Progesterone, nội mạc bắt đầu biến đổi từ giai đoạn tăng sinh chuyển dần qua giai đoạn phân tiết. Thế nào là phân tiết?
Là giai đoạn hoạt động của các kích thích tố sinh dục, khả năng rụng trứng hoặc không rụng trứng, khoảng cách thời gian rụng trứng… Nhờ đấy, có thể chuẩn đoán yếu tố gây ra chứng vô sinh.
Tế bào tuyến thượng bì xuất hiện chất đường glucose cùng các không bào. Ngoài ra, các động mạch nhỏ hình xoán ốc tăng lên rất nhanh, các ống rỗng tĩnh mạch to lên về sau trở thành thành phần chủ yếu của mạng huyết quản nội mạc. Trong thời kỳ nầy, nội mạc, có hiện tượng xưng phồng do tích tụ nước.
d. Giai đoạn trước kỳ kinh: Là thời kì toàn thịnh của chức năng hoàng thể (LH) với mức độ phân tiết nội mạc đạt tới đỉnh cao. Lúc này nội mạc trở nên mền, tế bào tuyến thượng bì trở nên thấp, nhân kéo xuống đáy, thể tuyến mở rộng với độ cong cực lớn, tế bào gián chất tăng năng lực phản ứng với các kích thích tố buồng trứng… Vào giai đoạn này, nước trong tế bào gián chất bị hấp thu và xẹp xuống nên nội mạc có hiện tượng nhăn nhúm.
e. Giai đoạn kinh nguyệt: Nếu sau khi trứng rụng mà không thụ tinh, do nồng độ kích thích tố hoảng thể giảm thấp, 2-3 ngày trước khi có kinh sẽ có hiện tượng nội mạc bị nhăn, vì các động mạch hình xoán ốc ngày càng cong gây chướng ngại vận mạch làm máu chảy chậm lại gần như đông cứng.
Do bế tắt vận mạch, các nhánh thông tĩnh mạch liền được mở ra đẩy máu theo đường vòng, không chảy vào mạng vi huyết quản nữa. Yếu tố này làm cho 2/3 nội mạc bị thiếu máu nghiêm trọng, biến thành hoại tử và tạo đều kiện cho máu chảy ra ngoài với mỹ danh kinh nguyệt.
Trước kỳ kinh cũng có thêm hiện tượng nứa là sự sung huyết dưới lớp thượng bì, sau bị vỡ tan ra, các huyết dịch chảy vào khoan trống. Đó là biểu hiện sớm nhất của hiện tượng kinh nguyệt. Tiếp theo, nội mạc bị hoại tử và bóc ra dẫn tới các động mạch xoán ốc, các vi huyết quản và tĩnh mạch nhỏ cũng bị gãy lìa làm cho hiện tượng xuất huyết tăng lên. Thông thường, lượng xuất huyết nhiều nhất diễn ra ngày thứ 2-3 của kì kinh rồi giảm dần. Nội mạc bong ra ở dạng miếng mỏng, đôi khi bóc ra cả mảng lớn.
Ngày thứ ba của ky kinh, tầng chức năng của nội mạc dần dần tróc sạch, chỉ còn lại tầng nội mạc gần sát lớp cơ. Chính nới đây, trong chu kỳ kinh nguyệt tới, nội mạc tử cung lại tiếp tục tái sinh.
3. Chức năng của buồng trứng
a. Sinh trưởng: tế bào noãn bên trong buồng trứng còn được gọi là noãn bào hay hư bào.
Khi một hài nhi gái chào đời, trong cơ quan sinh dục của em chứa từ 150000-500000 noãn bào. Đến tuổi thiếu nhi, số lượng noãn bào gốc phát dục rất nhanh, tuy nhiên phần lớn bị tiêu vong. Sau tuổi dậy thì (14-17 tuổi), số lượng noãn bào đạt tiêu chuẩn còn khoản 34000 và trong số đó chỉ có không đầy 300-400 noãn bào được chín và rụng qua tiến trình rụng trứng. Số noãn bào còn sót lại sau thời kỳ mãn kinh gọi là trứng lép, không có khả năng thụ tinh.
Noãn bào nguyên thủy là một đơn vị căn bản của buồng trứng, có cấu trúc rất vi tế, bên trong gồm tế bào noãn hình lưới, một lớp tế bào hạt phủ bên ngoài và màng tế bào bọc lót ngoài cùng.
Bắt đầu mỗi chu kì kinh nguyệt, nhờ kích thích, nhiều noãn bào gốc phát dục, các tế bào DNA (di truyền) và hợp chất albumine trong tế bào noãn tăng lên rất nhanh, đường kính từ 15mm tăng lên 100mm, gồm đủ các hoạt tính sinh lý và được đặt tên “noãn bào nguyên thủy sơ cấp”.
Tiếp tục phát triển, noãn bào sơ cấp tăng trưởng và phân hóa, đường kính từ 100-125mm tăng lên 200mm. Tiến trình này có 5 sự thay đổi quan trọng và tất yếu diễn ra bên trong noãn bào sơ cấp: Xuất hiện thụ thể kích thích tố noãn bào (FSH), thụ thể Estrogen, màng trong noãn bào và dịch hóa…
Khi noãn bào sơ cấp phát dục sẽ trở thành noãn bào thứ cấp với cấu trúc mới, lớp tế bào hạt tăng nhiều tầng, khoảng trống đầy dich noãn bào, xuất hiện thụ thể hoàng thể (LH), lactogen và thụ thể khích thích tố tuyến tiền liệt.
Do ảnh hưởng của FSH, đường kính noãn bào thứ cấp từ 200mm tăng lên tới 2cm, thể tích phát triển không ngừng, dịch trong xoang buồng trứng được tích tụ, lớp ngoài được bao bọc bởi mấy tầng tế bào hạt gọi là “khứu noãn”. Sự hình thành “khứu noãn” cho thấy noãn bào đã phát triển thành noãn bào chín.
Trong chu kỳ kinh nguyệt bình thường, noãn bào lớn thì có khả năng rụng trứng do đều kiện tích lũy đủ dịch xoang. Tuy nhiên, trong số 10-15 noãn bào đủ lớn trong một chu kì kinh nguyệt, chỉ có một noãn bào rụng trứng mà thôi. Hiện tượng rụng nhiều trứng rất hiếm, chỉ chiếm 1-2% mỗi chu kỳ.
Các loại noãn bào nào không rụng trứng sẽ trải qua quá trình thoái hóa được loại trừ triệt để, các noãn bào này có thể tiến hóa hoại tử và phát triển thành u nang.
b. Noãn tử:
Noãn tử là tế bào noãn trong noãn bào. Tiến trình biến đổi từ tế bào nguyên của noãn bào đến trứng chín gọi là noãn tử.
Trong bào thai nữ đã có mặt tế bào nguyên, gồm 44 nhiễm sắc thể bình thường và 2 nhiễm sắc thể tính (44+2x). Từ tuần lễ thứ 8 đến tuần lễ thứ 20 của thai nhi, tuy sự phân chia tế bào diễn tiến cực nhanh, một số tế bào nguyên noãn đã phát dục thành các tế bào tương đối lớn ở dạng sơ cấp, nhưng nhiễm sắc thể vẫn không thay đổi.
Tới tuổi dậy thị, trước khi rụng trứng, tế bào noãn sơ cấp vốn mang nhiễm sắc thể song bội (44+2x) phân chia trứng chín lần thứ nhât thành nhiễm sắc thể đơn bội (22+x) nghĩa là tách thành hai tế bào con to nhỏ không giống nhau, mỗi tế bào gồm 23 nhiễm sắc thể. Lúc này tế bào noãn trở thành tế bào thứ cấp.
Sau khi rụng trứng, tế bào noãn thứ cấp bắt đầu chia trứng đã chín lần thứ 2 và ngừng biến đổi thêm ở giứa thời kỳ này. Nếu sau 24h trứng rụng mà chưa gặp tinh trùng, tế bào noãn thứ cấp sẽ bắt đầu thoái hóa.
C .Lô đồ của noãn tử:
Có ba học thuyết giải thích về yếu tố giúp cho noãn tử đi vào ống dẫn trứng, các màng ống dẫn trứng sau khi rụng trứng: do lực hấp dẫn của ống dẫn trứng, các cớ đàn hồi của ống dẫn trứng, sức co bóp của dải cơ lân cận kèm sức chuyển động của các sợi lông.
Thực tế, khi rụng trứng, quan sát bằng kính hiển vi thấy các cơ dẫn ống trứng và các giải giữ buồng trứng đều co lại, ống dẫn trứng uống cong như hình cây cung và các tuy tiếp cận với buồng trứng cũng co duỗi từng chặp. Đều này giúp các nhà chuyên môn tin cậy vào học thuyết do lực hấp dẫn của ống dẫn trứng và sự co thắt của hệ thống dây chằng hơn các học thuyết khác.
Một số trường hợp ống dẫn trứng bị khuyết tật,chỉ có một bên hoặc trứng rụng phía đối diện với buồng trứng, vẫn có khả năng thụ thai. Đều này cho thấy ống dẫn trứng, vẫn có khả năng thụ thai. Đều này cho thấy ống dẫn trứng có sức thu hút mãnh liệt, lôi cuốn cả noãn tử rụng ở phía buồng trứng khác chiều.
ĐÔNG Y HỌC
Y tổ Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông, trong sách “Hải Thượng Y Tông Lĩnh”, quyển thứ 26-27 chủ đề “Phụ đạo xuân nhiên”(hiểu rõ về phụ khoa) đưa ra nhận định như sau:
“… con trai bẩm thụ thể chất khỏe mạnh của quẻ Càn chủ về Dương; con gái bẩm thụ thể chất mềm yếu của quẻ Khôn chủ về Âm. Thế thì lễ Âm Dương đã chia ra gái trai khác nhau. Sách Nội Kinh nói: “con trai 64 tuổi thiên quý mới hết, con gái 49 tuổi thiên quý đã kiệt”, thì trai gái hưởng thụ lại hơn kém khác nhau. Đó là Âm Dương, Khí Huyết, gái so với trai hình dáng khác nhau. Huống chi lúc có kinh và khi thai sản ngượng nghịu không thể nói cùng ai, lại là trách nhiệm riêng của một mình phụ nữ, không thể coi cùng một chứng bệnh, cùng một phương thuốc với con trai được”.
Người đời đã nói đọc sách Đông y đã khó, hiểu học thuyết và thực hành học thuật của Đông y càng khó hơn. Đều đó có phần đúng, tuy nhiên của thiên đàn mông lung huyền ảo mà các bật minh sư đại giác còn nói mở được thì hà cớ gì môn y học cổ truyền được truyền thừa trên dưới 4000 năm lại không có lối vào: Đâu là bí quyết? “Thuật ngữ Đông Y” hay “ Học thuyết Đông y” chính là chìa khóa vạn năng.
1. Thuật ngữ
Đông y học thường mô tả các cơ quan sinh dục nữ một cách khái quát, thiếu hệ thống hóa như Y học hiện đại. Về vị trí, hình dáng, chức năng và cả tên gọi các cơ quan sinh dục nữ cũng khó xác định, dễ lầm lân.
Nhằm giúp việc tham khảo, nghiên cứu, đối chiếu giữa hai trường phái Đông-Tây y được dễ dàng hơn, chúng tôi xin trích dẫn một số thuật ngữ Đông y có liên quan đến “Phụ khoa”.
Âm hộ:
Âm hộ (vaginal orifice), y văn cổ truyền gọi là “tứ biên”, “sinh hộ”. Ngày nay, thầy thuốc Đông y cũng như hầu hết các Bác sĩ Tây y đều dùng chung để chỉ cơ quan sinh dục nữ. Từ “Âm hộ” được thấy dùng sớm nhât trong sách “ phụ nhân đại toàn lương phương”. Theo ngữ nghĩa, âm hộ chỉ là lỗ âm đạo, nhưng thực tế được dùng tương đối rộng, ám chỉ toàn bộ âm vật, mô lớn, mô nhỏ, và bộ phận tiền đình âm đạo. Còn từ “tứ biên” (bốn bên) để chỉ các bộ phận nằm trước, sau, phải, trái của lỗ âm đạo. Thuật ngữ “sinh hộ” được ghi trong sách “can chi cứu cánh luận”, ý nghĩa giống như âm hộ hay tứ biên.
Ngọc môn:
Trong Đông y, Thuật ngữ “ngọc môn” có nghĩa tương đông với cửa âm đạo trong y học hiện đại, chỉ bộ phận nằm gần với màng trinh. Từ “Ngọc môn” thấy ghi sớm nhât trong sách “Mạch trinh”, về sau được dùng tương đối phổ thông dành cho hạng xử nữ, tức người con gái chưa chồng bao gồm cả cửa âm đạo và màng trinh. Đôi khi người xưa dùng từ “Bào môn” để thay “Ngọc môn” nhưng không chính xác lắm vì Bào môn chỉ cửa âm đạo của người phụ nữ đã sinh con. Trong một số y văn cổ còn dùng “Bào môn” để chỉ cả hai bộ phận tử cung và bàng quang.
Âm đạo:
Từ âm đạo được dùng giống như y học hiện đại. Sách “Tố vấn thượng cổ thiên trấn luận” mô tả âm đạo bằng “Địa đạo” nhưng không phổ biến. Về sau các sách đề cập đến âm đạo như “Trư bệnh nguyên hậu luận” hoặc “Thiên yếu kim phương” thường dùng thuật ngữ âm đạo hơn. Ngoài ra, có sách Đông y còn gọi âm đạo bằng thuật ngữ “Trung hòa môn”nhưng không được lưu truyền.
Tử môn:
Tương ứng với cổ tử cung trong Y học hiện đại. Sách “Hoàng Đế Hội Kinh” dùng thuật ngữ này đầu tiên. Người xưa cho rằng cửa thì phải có hai cái bên phải, bên trái. Bên trái gọi là “Bào môn”, bên phải gọi là “Tử hộ”. Thực tế, ngoại trừ trường hợp dị dạng, nữ giới chỉ có một tử cung và một cổ tử cung mà thôi. Vì vậy, đọc các sách Đông y cổ, nếu gặp thuật ngữ “Bào môn” hay “Tử hộ” thì nên hiểu rằng nó là “Tử môn”, con đường dẫn kinh nguyệt và thai nhi ra ngoài.
Bào cung:
Bào cung là thuật ngữ y khoa xuất hiện khá sớm. Trong sách “Thần Nông Bản Thảo” do tác giả Thạch An chủ biên đã sữ dụng từ này. Trong Đông y, thuật ngữ “Bào cung” nhằm chỉ luôn các bộ phận chung quanh tử cung gồm buồng trứng, ống dẫn trứng. So với khoa giải phẫu học của Y học hiện đại, bộ phận “Bào cung” của Đông y và “tử cung” của Tây y có khác nhau cần phân biệt.
2. Sinh lý nữ giới:
Bàn về sinh lý của nữ giới, Đông y hoàn toàn dựa trên cơ sở học thuyết âm dương, tạng tượng, ngũ hành sinh khắc mà luận giải, khác hẳn khoa cở thể học và sinh lý học của Y học hiện đại. Sau đây một vài luận điểm trọng tâm của Đông y học:
a. Sinh lý của Bào cung:
Y văn cổ truyền nhận định rằng tử cung hoạt động không giống như ngủ tạng, không giống như lục phủ, cho nên dặt tên là “Phủ kỳ hằng”. Gần đây, các y gia lại cho rằng : về hình thể, tử cung giống như Tạng về tác dụng giống như Phủ. Giống như Tạng, bởi vì thời kì kinh nguyệt và khi mang thai thì “chứa mà không tiết”. Giống như phủ,bởi vì tới chu kỳ thì tiết ra kinh nguyệt và đúng quy trình thì đẻ ra hài nhi nên “tiết mà không chứa”. Cho nên, tử cung có chức năng đặc biệt, vừa Tạng cũng vửa là Phủ.
Nhờ chức năng sinh động “tiết” lẫn “chưa” tử cung là cơ quan đều hòa khí huyết, có đầy đủ sinh khi, thông suốt bào lạc, giúp thiên quý tràn đầy chín rụng, nhiệm mạch Thái Xung thịnh. Cho nên, chức năng sinh lý của tử cung có sự phố hợp nhịp nhàng của cả phủ tạng , kinh lạc lẫn khí huyết.
b. Sinh lý thiên quý:
“Thiên quý” hiểu sâu xa là chất của thận tinh, có tác dụng đều tiết sự sinh trưởng, sinh sản, kinh nguyệt, thai nghén; ở đây ám chỉ kinh nguyệt và thai sản. “Thiên quý” giúp cho nữ giới phát dục lúc còn nhỏ vận hành kinh nguyệt khi tới tuổi dậy thì, bảo dưỡng khi mang thai và tiêu hao dần vào thời kì mãn kinh.
Sách “Hoàng Đế Nội Kinh” quyển y thư cổ truyền nhất của Đông y ra đời vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên, thiên “Cố Vấn thường cổ thiên trí luận” viết rằng “Con gái 7 tuổi thận khí thịnh, răng khỏe, tóc dài; 27 tuổi thiên quý tốt, nhiệm mạch thông, mạch Thái Xung thịnh, đến kì kinh nguyệt sẽ sinh con; 37 tuổi thận khí cân bằng, răng mọc đủ và khỏe; 47 tuổi xương cốt chắt, tóc dài nhất, thân thể khỏe mạnh; 57 tuổi mạch âm dương suy yếu, tóc bắt đầu rụng; 67 tuổi mạch tam dương suy, mặt có nếp nhăn, tóc bạc; 77 tuổi nhiệm mạch hư, Mạch thái xung giảm nhỏ, thiên quý cạn, cổ tử cung không thông, không thể sinh con”. Luận thuyết này cho thấy sự biến đổi của thiên quý đi từ khỏi điểm xung thịnh ban đầu và thoái bộ dần tối chỗ cạn kiệt, tạo ảnh hưởng trực tiếp lên các đặc trưng sinh lý suốt chiều dài cuộc đời người phụ nữ.
c. Sinh lý của Bào mạch:
Bào mạch, còn gọi là Bào lạc, thuộc hệ thống của tử cung, được phân bổ thành hai mạch: Mạch Xung và mạch Nhiệm hay Nhâm.
Sách "Linh Khu ngữ âm ngũ vì" viết: "Mạch xung nhiệm khởi từ trong bào thai". Chức năng sinh lý chủ yếu của bào mạch là kinh nguyệt và thụ thai.
Sách "Tố Vấn bình nhiệt bịnh luận” viết: "Người đến tháng không có kinh, bào mạch tắc. Người bị bào mạch, thuộc tâm lạc trong bào, khi đó làm cho khí tim phổi không thông nên tới tháng không có kinh” .
-Sách "Ký bệnh luận” viết: "Người bị bào mạch có quan hệ đến Thận". Các luận giải trên cho thấy bào mạch có sự tương quan chặt chẽ giữa tử cung và hai tạng Tâm và Thận. Tâm chủ huyết, Thận tàng tinh; một khi Tâm huyết Thận tinh sung túc do lạc mạch chuyển vào bào cung thì kinh nguyệt và thụ thai sẽ tới.
d. Sinh lý thúc đới xung nhiệm:
Bào cung làm chủ kinh nguyệt và mang thai, quan hệ chặt chẽ với hai mạch Xung Nhiệm, trong đó hai mạch Xung Nhiệm có tác dụng quan trọng nhất đối với bào cung.
Mạch Xung Nhiệm khởi đi từ trong bào, cần thiết cho sự vận hành khí huyết toàn thân. Tuy cùng một nguồn nhưng Xung mạch thịnh nhất nên được gọi là "biển của ngũ tạng lục phủ”, biển của 12 kinh mạch còn gọi là "huyết hải". Còn Nhiệm mạch cũng bắt đầu từ trong bào đi ra âm hội và tuần lưu một vòng tới khắp các bộ vị thuộc âm kinh nên đợc đặt tên là “lưới chung của âm mạch". Tất cả âm dịch, tinh, huyết, tâm dịch của cơ thể đều do Nhiệm mạch quản trị nên còn gọi là "biển của âm mạch". Có kinh và mang thai là có liên hệ đến hai mạch Xung Nhiệm. Khi Xung thịnh. Nhiệm thông thì kinh huyết mới hành được.
e. Tác dụng của thí huyết:
Nữ giới lấy huyết làm chủ, từ huyết sinh thành để vận hành sinh hóa nhưng thống nhiếp bởi khí, khí lại dựa vào huyết nuôi dưỡng mới đủ sức hoạt động nên ngời xa có câu : "khí vi huyết sư, huyền vi khí mẫu”.
Khí huyết sinh hóa từ tạng phủ, vận hành trong kinh lạc nhưng hoạt động sinh lý của tạng phủ kinh lạc lại phải nương nhờ khí huyết dung dưỡng thì mới hoạt động bình thờng. Cho nên khí huyết là cơ sở vật chất của tất cả hoạt động sinh lý trong cơ thể con ngời. Kinh, đới, thai. sản, nhũ (sữa mẹ) đều lấy tinh huyết làm gốc, lấy khí làm dụng.
f. Tác dụng của Tạng phủ:
Tạng phủ đóng vai trò rất quan trọng, giúp hệ thống sinh dục nữ hoạt động điều hòa, nhịp nhàng, bao gồm các chức năng: Sinh tinh, hóa khí, hoạt huyết để thúc đẩy tiến trình phát dục, sản xuất thiên quý, vận hành kinh nguyệt, thấm nhuận âm xoang, chủng lử dục thai, lâm bồn (đẻ) và tiết nhũ (sữa). Trong ngũ tạng, Thận và Gan là 2 tạng có ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với cơ quan sinh dục nữ.
-Thận là nguồn của thiên quý. Thận tạng chứa tinh, tinh hóa khí. Khí ở đây là thận khí, gồm đủ nguyên dương nguyên âm, tức thận dương thận âm, chủ quản về sinh lý cơ quan sinh dục nữ. Thiên quý sinh ra từ tiên thiên (thận), bị chi phối từ thận khí (thận dương). Thận khí lúc khởi phát, thiên quý còn yếu khi thận khí cực thịnh thiên quý cũng dần tiêu hao rồi mất.
Thận là gốc của Xung Nhiệm. Tác dụng cua hai mạch Xung Nhiệm trong cơ quan sinh dục nữ chịu sự tác động trực tiếp từ Thận, có sự chỉ đạo của Thận.
Thận tinh hóa khí sinh huyết. Tinh của tiên thiên là gốc của tinh hậu thiên, như mẹ với con. Tinh hóa khí, khí sinh tinh, tinh sinh huyết với huyết cùng một nguồn (tương sinh). Tinh huyết là cơ sở sinh lý của cơ quan sinh dục nữ.
Thận chủ tiết dịch: Khi thận khí sung mãn thì âm dịch chảy không ngừng vào Nhiệm mạch, cung cấp dinh dưỡng,nhờ đó âm hộ và vách âm đạo mới có dịch nhờn.
Thận bảo hộ bào thai:Lạc mạch của tử cung tương giaovới thận, vị trí tử cung chịu ảnh hưởng của thận khí. Ngôi thai được thông sướng, thận tinh tràn đầy. Tâm thận tương giao, thủy hỏa ký tế thì âm dương cân bằng; âm dương cân bằng thì kinh đến và cơ thể khỏe mạnh.
-Gan tàng huyết. Tàng huyết không phải chỉ có giữ, mà chủ yếu để tiết ra, thể thì âm mà dụng là dương. Huyết chứa trong gan, ngoài nhiệm vụ nuôi dưỡng châu thân, còn đưa vào huyết hải nên thường gọi là “Gan tư (điều hòa) huyết hải".
-Gan chủ lưu tiết. Bình nhật Can khí cần hòa hoãn, thoải mái, không ưa cuồng nộ, uất hận, ưu phiền. Kinh nguyệt phụ nữ có quan hệ trực tiếp tới sự lưu tiết của gan, khi Can khí đạt, huyết mạch lưu thông thì kinh nguyệt ra đúng kỳ.
-Tỳ vi hỗ tơng. Tỳ vị là hai cơ quan thuộc hệ thống tiêu hóa, gồm lá lách với dạ dày, chuyên lo việc sinh hóa cơm nước, dung bồi Hậu thiên, hình thành khí huyết, không có cái gì là không nhờ cậy. Sách “Nữ Khoa Kinh Luận” viết: “Kinh nguyệt và sữa của phụ sản phụ là do Tỳ vị sinh ra”. Thế mới biết rằng, sinh lý phụ nữ gồm kinh nguyệt, thai, sản, sữa có tương quan mật thiết với Tỳ vị.
-Tim huyết, Phối khí. Tim chủ huyết, Phổi chủ khí. Sách "Nội Kinh" viết: "Bào mạch thuộc Tâm, còn Lạc ở trong bào” . Khi tâm khí không thông thì mạch bị bế tắc và không có kinh nguyệt. Nếu huyết mạch sung thịnh thì khí huyết bào cung vượng và có kinh nguyệt đều.
Xuyên qua phần tổng luận “Phụ khoa” cho thấy cánh cửa hai nền y học Đông – Tây đã mở rộng, mọi vấn đề trở nên sáng tỏ hơn nhiều. Bước tiếp theo là khai dụng triệt để kinh nghiệm lâm sàng của cả hai nền y học Đông – Tây qua chẩn đoán và điều trị các chứng bệnh "Phụ khoa" thường gặp để vừa nâng cao sức khỏe bản thân vừa mở rộng từ tâm chia xẻ hiểu biết cho những ai cần giúp đỡ.
CÁC BỆNH PHỤ KHOA
1. RỐI LOẠN KINH NGUYỆT
(Kinh nguyệt không đều)
Tổng luận
Theo y lý Đông phương, chữa bệnh phụ nữ cần hỏi “Kinh nguyệt” trước tiên. Đông y chẩn đoán các hiện tượng kinh nguyệt dựa trên cơ sở học thuyết âm dương, ngũ hành, tạng tượng. Sách Nội Kinh chép rằng: "Ba mạch Xung, Nhiệm (hay Nhâm), Đốc cùng một nguồn gốc mà chia thành ba ngã”.Câu này được y tổ Hải Thượng Lãn Ông giải thích như sau:
a. Mạch xung là bể của huyết, Mạch Nhâm chủ về bào thai, hai mạch cùng thông thì kinh nguyệt có mà đúng kỳ, kinh nguyệt có rồi thì huyết trống rỗng, sau 7 ngày lại đầy dần, giống như mặt trăng có lúc tròn lúc khuyết. Lại nói: Mạch Xung là bể của máu, các kinh hội tụ ở đó, nữ giới thì có tích mà hay đầy, vì huyết là âm, nữ giới theo huyết đầy thịnh nên âm huyết mỗi tháng một lần thấy kinh.
b. Mạch Nhâm (hay Nhậm, Nhiệm) có nghĩa là nhiệm vụ chung của Âm mạch, nơi bắt đầu sinh và nuôi sống con người. Mạch Nhâm đảm nhiệm âm huyết của toàn thân. Thái xung thuộc kinh Dương minh là bể của huyết, cho nên cốc khí (đồ ăn) thịnh thì bể huyết đầy mà kinh nguyệt ra đúng kỳ.
c. Mạch Đốc, có nghĩa là quản đốc, cjir huy, bắt đầu từ du huyệt ở hạ cực vùng bụng dưới theo cột sống lưng lên tới huyệt phong phú
vùng ng d 'theo cộ s n ửng n tớ h vệ ph ng ph ~ o ớ n đầ 1
vòng r(l tra( trấn xuồng sững mũi nên gọi là bể của Dơng mạch" . Mạch
Đôr cùng các kinh Xl/ng~ Nhâm, Thủ thái do'ngi Thủ thiếu âm, trên thì tạo
ra sữa, dới thì là kinh nguyệt. '
Nội Kinh lại nói:
Con gái 7 tuổi Thận khí thịnh, răng thay, tóc dài, 14 tuổi thiện quý (kinh nguyệt tinh khí) đến, mạch Nhâm thông, mạch Thái xung thịnh, hai mạch lưu thông kinh nguyệt đầy dần, đúng kỳ thì ra giống như mặt trăng có lúc tron lúc khuyết nên gọi là "kinh nguyệt và kinh đến không sai hẹn gọi là “nguyệt tín” .
-Kinh nguyệt và sữa, gốc Ở chất tinh ba của cơm nước trong dạ dày; chất ấy đi về tỉm, ngang qua phôi, dồn vào mạch Xumg, Nhâm mà làm thanh kinh nguyệt, biến ra sắc đỏ làm thành máu.
Khí tự nhiên của vô cực, tinh của âm dơng ngũ hành hòa hợp với nhau mà ngưng kết lại, Càn đạo (quẻ Càn, mạnh mê) thành trai, Khôn đạo (qué
Khôn, nhu hòa) thành gái. Trai 1 tuổi khởi. đầu từ cung Dần (cung thứ 3 trong 12 chi), gái 1 tuổi khởi đầu từ cung Thân (cung thứ 9 trong 12 chi). Dần là âm trong dơng, thuộc về số8. Thân là dơng trong âm, thuộc về số 7. Cho nên, ti ai dện 2 lần 8 (8 x 2 = 16) tuổi thì tinh đầy, gái đến 2 lần 7 (7 x 2 = 14) ruổi thì kinh nguyệt có, âm dơng hòa hiệp mới có thể sinh con.
Trai đến tuổi 8 lần 8 (8 x 8 = 64) số quẻ (8) đã hết thì dơng tinh teo lại (dương vật không cường nữa), gái đến tuổi 7 lần 7 (7 x 7 = 49) sô' quẻ (7) đã hết thì kinh nguyệt khô kiệt (huyết không ra nữa), không thể sinh con được nữa.
-Lại nói: “Gái thấy kinh sớm thì tính khôn khéo, thấy kinh chậm thì tính đần độn" là dựa vào cái lý "tôm chủ thần minh" (tinh khôn, sáng dạ). LýĐông Viên bổ sung: "Tỳ là nguồn gốc sinh hóa, Tâm cai quản huyết các
kinh, Tâm Tỳ hòa bình thì kinh nguyệt ra đúng hạn kỳ. Nếu bên trong bị thất tình khuấy nhiễu, bên ngoài bị khí lục dâm xâm phạm, ăn uống không điều độ làm việc ngủ nghỉ thất thờng thì Tỳ Vị h tổn, tâm hỏa dốy động làm cho kinh nguyệt không đều' .
Nguyên nhân
a. Nguyên tắc vận hành:
Phàm con gái 13 tuổi đã có kinh nguyệt, tới 14 tuổi cha có kinh nguyệt
là bẩm chất yếu ớt và phần nhiều có chứng âm hư nội nhiệt, hay nóng về đêm. Đến 18, 19 tuổi vẫn cha thấy kinh thì phải kịp thời bổ huyết và thong thả kết hôn mới tốt.
-Con gái thiên quý (kinh nguyệt) đã đến hơn 10 năm mà không giao hợp thì kinh không đều. Cha tới 10 năm mà giao hợp sớm thì kinh nguyệt cũng không đều. Kinh không hành thì huyết cũ không ra, huyết mới đi sai đường hoặc tích vào trong xơng hay biến thành phù thũng (oed()ma). về san tuy giao hợp cũng khó đậu thai.
-Giao hợp nhiều thì tinh kiệt, đẻ nhiều thì huyết khô, cả hai thứ đều làm sai vòng kinh nguyệt, trồi sụt nhiều ít vô chung. Cũng còn do huyết mạch ở Xung Nhâm bị thơng tổn mà kinh không đều, ăn uống sút kém, vinh vệ suy vi đều là nhân tố ảnh hưởng.
Kinh nguyệt bình thờng 28, 30 ngày một lần hành, nếu Dơng thịnh thì
kinh tới sớm, nếu phần Dơng bất cập thì kình tới muộn. Nếu kinh ra lúc
nhiều lúc ít, lúc dút hẳn lúc làm băng lậu hay rong kinh không cầm đều do
âm dơng thịnh suy sinh ra.
Về chứng kinh ra nhiều và ra trớc kỳ là do Dơng khí lấn vào âm nên
huyết chạy lan tràn. Chứng kinh ra ít và sau kỳ là do âm khí lấn vào dơng
thì tử cung lạnh, khí cũng lạnh, huyết không vận hành được.
b. Phân biệt chứng trạng:
Mỗi tháng một lần hành kinh là bình thờng. Kinh ra trớc kỳ, san kỳ, trước sau hỗn loạn, bế kinh, đều là dấu hiệu có bệnh.
Phụ nữ 3 tháng thấy kinh một lần gọi là “cư kinh" , 1 năm thấy kinh 1
lần gọi là "ty niên" , cả đời không thấy kinh mà thụ thai gọi là "ám kinh" , sau khi thụ thai rồi mà hằng tháng vẫn thấy kinh và sinh con gọi là "thịnh thai" hay "cấu thai" , thụ thai đợc vài tháng bỗng nhiên ra huyết nhiều mà thai vẫn bình yên gọi là "lậu thai" .
Nếu bên trong huyết ứ cha sạch, ngoài bị cảm nhiễm phong, hàn, tháp
nhiệt, thử hoặc ăn đồ sống, lạnh, thất tình uất kết làm kinh nguyệt rối loạn gọi là chứng huyết trệ" .
- Sau khi sạch kinh mà giao hợp quá nhiều hay lao động quá sức khiến kinh nguyệt hỗn loạn gọi là chứng “huyết khô”.
- Kinh nguyệt là âm huyết, âm theo dương tức phối hợp với khí, tuỳ theo khí mà thành hình: Khí nhiệt thì huyết nhiệt, khí hàn thì huyết hàn, khí trệ thì huyết trệ. Kinh ra hòn cục hay kinh sắp hành mà đau bụng là do khí ngưng kết lại. Kinh hành rồi mới đua bụng là khí huyết đều hư.
- Sắc khinh màu nhợt là do khí hư mà có nước lẫn vào. Sắc kinh màu tía là do khí nhiệt, sắc kinh màu đen là do cực nhiệt.
- Phụ nữ bế kinh, có thể do nhị dương (Túc dương minh mạch của vị) có bệnh, Tâm Tỳ phát sinh, tình chí u uất. Không bộc lộ được ẩn tình thì kinh không hành, có thể biến thành chứng “Phong tiêu” (co giật) hoặc phát chứng “Tức bôn” (suyễn thở), chết không chữa được.
- Phụ nữ bế kinh có thể do Tỳ vị hư, thân thể gầy ốm, khí huyết lưỡng hư nên không thề hành kinh. Cũng còn do lao tâm quá độ, hoả bốc lên trên, không thông xuống bào mạch nên kinh nguyệt không hành. Có thể vì cơ thể đẫy đà béo tốt, mỡ dày, đàm nhiều bó chặt huyết hải nên bế kinh.
c. Phân biệt hư, thực:
- Mạch đi Trò mà vô lực là mạch Hư (suy), mạch Hàn (lạnh).
- Mạch đi Sác mà hữu lực là mạch Thực, mạch Nhiệt (nóng).
- Sắc da trắng bệch, thở ngắn, thở gấp, sợ lạnh là Khí hư.
- Sắc mặt đen xám, da thịt khô vàng là Huyết hư.
- Sắc mặt khô sạm không bóng mượt là Dương hư.
- Kinh ra trước kỳ là chứng Thực Nhiệt.
- Kinh ra sau kỳ là chứng Hư Hàn.
- Kinh đang hành mà đau bụng là Huyết ứ.
- Kinh hành rồi mới đau bụng là Huyết hư.
- Kinh ra có khi phát sốt là Huyết hư có ứ trệ.
- Kinh đang hành mà giao hợp thì tinh và huyết xung đột, bụng dưới kết lại thành hòn cục giống như chứng “Phục lương” (Khối máu đọng từ chấn thủy xuống tới xương hố chậu) khiến đi tiểu lắt nhắt gọi là chứng “tích tinh”, thường gây chứng kinh lậu đầm đìa, còn gọi là chứng “huyết lâm”
Điều trị:
Y thư kim cổ bàn về kinh nguyệt phụ nữ cùng phương pháp điều trị xưa nay vốn là bộ môn được chăm lo chu đáo nhất, sách vở đầy đủ nhất, có nhiều thầy thuốc trình bày sở kiến nhất. Nhưng xét cho kỹ, chỉ có lý luận của danh y Phó Thanh Chủ, một thầy thuốc nổi tiếng đời Nhà Thanh, Trung Quốc, là uyên bác và thực nghiệm mang lại nhiều thành công hơn cả. Do đó, những bài thuốc hướng dẫn về “Phụ khoa” trong tập sách này hầu hết được trích dẫn từ quyển “Thanh Chủ - Nữ Khoa” của danh y Phó Thanh Chủ, một kiệt tác y học vượt thời gian.
Bài 1:
- Triệu chứng: “KINH THỦY TIÊN KỲ” King nguyệt ra trước ngày định kỳ).
- Biện chứng Đông y: Do Thận thủy Thận hỏa đều vượng.
- Pháp trị: Thanh nhiệt Thủy Hỏa.
- Bài thuốc: “Thanh kinh thang” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức 1:
Thanh hao 08g
Hoàng bá 02g (tẩm nước muối sao)
Địa cốt bì 08g
Bạch thược 12g (sao rượu)
Thục địa 12g
Mẫu đơn bì 12g
Bạch phục linh 04g.
Sắc uống ngày 1 thang, liên tiếp 2 thang thì hỏa tự nhiên bình.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ luận giải: “Đàn bà hành kinh trước ngày định kỳ mà lại ra rất nhiều, người ta cho rằng do chân huyết thiên về phần nhiệt, nghĩa là chỉ có huyết nóng chứ khí không nóng. Riêng ta cho là bởi cả Thủy Hỏa trong Thận đều vượng. Hỏa mà vượng quá thì huyết nhiệt, Thủy mà vượng quá thì huyết nhiều, thế là bởi “Thủy Hỏa hữu dư” chứ không phải “Thủy Hỏa bất túc”. Có thể không cần phải uống thuốc nhưng quá hữu dư thì tử cung sẽ nóng quá khó phần thụ thai nên cần bớt đi mới là cái đạo “ký tế” (Ký tế là một quẻ trong Kinh Dịch. “Thủy Hỏa ký tế” có nghĩa là Thủy ở trên Hỏa, như nước từ trên cao rơi xuống dập tắt lửa cháy rừng hay tưới ướt đất khô cằn. Khi Âm Dương, Thủy Hỏa, Tâm Hỏa và Thận thủy tương giao với nhau thì mọi sự điều hòa, bệnh khỏi. Đây là quẻ thuận).
Bài 2:
- Triệu chứng: “KINH THỦY TIÊN KỲ” (Hành kinh trước ngày định kỳ).
- Biện chứng Đông y: Thận hỏa vượng, Thận thủy suy.
- Pháp trị: Bổ Thủy để chế Hỏa.
- Bài thuốc: “Lưỡng địa thang” của danh y Phó Danh Chủ.
- Công thức 2:
Sinh địa 40g
Địa cốt bì 2g
Huyền sâm 40g
Mạch môn đông 20g (khứ tâm)
A giao 12g (sao phồng).
Sắc uống ngày 1 thang, uống 4 thang thì kinh nguyệt đều.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ luận giải: “Cũng là hành kinh trước định kỳ nhưng huyết ra chỉ có 1-2 giọt, nghĩa là ra ít, trái ngược với ra nhiều. Có người cho rằng “huyết nhiệt cực” chứ đâu có biết rằng “Thận hỏa vượng” làm cho Thận thủy hư.
Ôi! Cũng là kinh ra sớm nhưng phải làm sao phân biệt được kẻ “hư” người “thực”. Cái chìa khóa đó là: Thấy trước định kỳ là do Hỏa khí vượng, còn kinh ra nhiều hay ít là do Thủy khí vượng hay thiếu. Như vậy, kinh ra sớm mà thấy nhiều là vì Hỏa thịnh mà Thủy hữu dư; còn kinh ra sớm mà thấy ít là vì Hỏa thịnh mà Thủy bất túc. Nếu chỉ lo tiết Hỏa mà không bổ Thủy hoặc lo tiết cả Thủy lẫn Hỏa thì bệnh càng nặng thêm. Pháp trị chỉ chuyên bổ Thủy, không nên tiết Hỏa. Khi Thủy đủ thì Hỏa tự nhiên tiêu, ấy cũng là cái đạo “ký tế”.
Bài này dùng Sinh địa, Địa cốt bì là 2 vị thuốc có công năng thanh được nhiệt ở trong xương tủy. Xương nóng là bởi Thận nhiệt. Một khi thanh được cái nhiệt trong xương tủy rồi thì Thận khí tự nhiên cũng được thanh nhẹ mà không làm thương tổn đến Vị khí. Thế nào khéo trị. Hơn nữa, những vị thuốc được dùng thuần là những vị bổ Thủy. Thủy mà vượng thì Hỏa tự nhiên bình.
Khi chẩn trị, nên tham khảo bài số 1 để phân biệt một bên là “thực” một bên là “hư” mới tránh sử dụng thuốc sai lầm.
Bài 3:
- Triệu chứng: “KINH THỦY HẬU KỲ” (Hành kinh sau ngày định kỳ)
- Biện chứng Đông y: Do Huyết hư hàn.
- Pháp trị: Bổ huyết, ôn huyết tán hàn.
- Bài thuốc: “Ôn kinh nhiếp huyết thang” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Thực địa 25g
Bạch thược 35g(sao rượu)
Xuyên khung 18g (sao rượu)
Bạch truật 19g (sao hoàng thổ)
Tục đoạn 04g
Ngũ vị tử 02g
Nhục quế 02g
Sài hồ 02g
Sắc uống ngày 1 thang, bất quá 3 thang là kinh nguyệt điều hòa.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ luận giải rằng: “Đàn bà có người hành kinh sau ngày định kỳ mà lại thấy nhiều. Người đời cho là bệnh “Huyết hư” nhưng ta cho rằng không phải huyết hư mà là “Huyết hữu dư”. Đành rằng thấy kinh sau định kỳ cố nhiên thuộc “Hư” nhưng kẻ ra nhiều, ra ít rất khác nhau. Kẻ thấy ít thuộc “Huyết hàn mà bất túc”, kẻ thấy nhiều cũng thuộc “Huyết hàn mà hữu dư”.
- Phải biết rằng kinh thủy gốc ở Thận, sự lưu thông thì huyết ở Ngũ Tạng. Lục phỉ đều qui cả về đây. Cho nên lúc hành kinh, bào môn đã mở rộng không đóng ngay được, các đường kinh huyết cứ nhân chỗ hở ấy mà tràn ra, biến thành “huyết hữu dư”. Cái hữu dư ấy là cái bất thường nên gọi là “bất túc”.
Pháp trị “huyết hư” chỉ nên bổ mà trong phân bổ có thêm vị “ôn huyết tán hàn” chứ đừng lầm tưởng rằng những người phụ nữ hành kinh sau định kỳ (kinh muộn, trể kinh) đều là “huyết bất túc” được.
Bài thuốc “Ôn kinh nhiếp huyết thang” chuyên đại bổ tinh và huyết ở cả ba tạng Can, Tỳ, Thận, gia thêm Nhục quế để khử hàn, Sài hồ để giải uất. Thế là trong bổ có tán (đuổi, trừ) mà không bị háo khí. Trong bổ có tiết (giảm, xuất, giải) mà không bị tổn âm. Thật là “điều kinh diệu dược, nhiếp huyết tiên đơn”.
Phàm phụ nữ “kinh lai hậu kỳ” (hành kinh sau định kỳ) đều có thể dùng bài thuốc này mà chẳng sợ sai lầm, nếu thấy nguyên khí bất túc (mệt nhọc, yếu sức) thì gia thêm ít Nhân sâm là đủ rồi. Nếu bảo rằng “huyết nhiệt” mới chảy ra nhiều mà dùng thuốc “hàn lương” (lạnh, mát) cho uống thì lầm lẫn rất lớn.
Bài 4:
- Triệu chứng: “KINH THỦY TIÊN, HẬU VÔ ĐỊNH KỲ” (Kinh nguyệt trồi, sụt không đúng kỳ, sớm muộn bất thường).
- Biện chứng Đông y: Do Can khí uất, Thận cũng bị uất.
- Pháp trị: Thư Can giải uất, điều kinh.
- Bài thuốc: “Định kinh thang” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Dương quy 25g (rửa rượu)
Bạch thược 35g (sao rượu)
Thỏ ty từ 35g (sao rượu)
Hoài sơn 18g (sao vàng)
Thục địa 18g
Phục linh 12g
Hắc kinh giới 08g
Sài hồ 02g
Sắc uống ngày 1 thang, uống 2 thang kinh thủy sạch, uống 4 thang thì kinh ra đúng kỳ.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ giải thích: “Phụ nữ có người kinh nguyệt vừa hết rồi lại có hay khi trồi khi sụt không đúng kỳ. Người đời cho là “khí huyết đều hư”, còn ta thì cho rằng do “uất khí” ở Can Thận. Bởi vì kinh thủy phát xuất từ Thận mà Can là con của Thận (theo Ngũ hành sinh khắc thì Thận thuộc Thủy, Can thuộc Mộc, Thủy sinh Mộc, tương sinh) Can bị uất thì Thận cũng bị uất, đó là cái lẽ đương nhiên. Nay kinh khi trồi khi sụt, khi hết khi có, chính vì cái “khí” ở Can khi bế khi thông vậy.
Can khí uất thì Thận cũng uất, không thông. Con với mẹ là chỗ tương quan, con có bệnh thì mẹ làm sao mạnh được, cũng là cái lý hiển nhiên chứ còn ngờ gì nữa. Pháp trị phải thư Can giải uất, tức là khai luôn cái uất ở thận. Ất với Quý (Can với Thận) đồng trị thì kinh nguyệt đúng kỳ. Cho nên sơ thông Can khí càng nên gấp lắm”.
Bài thuốc này là thuốc giải uất cho Can Thận, không phải là thuốc thông kinh; bổ cái tinh cho Can Thận không phải là thuốc lợi thủy. Bởi vì cái khí ở Can Thận mà được thư hòa thì tự nhiên cái tinh được không, khi cái tinh ở Can Thận được vượng thì tự nhiên chân thủy được lợi. Không phải trị bệnh mà là trị bệnh, thế mới là khéo trị bệnh.
Bài 5:
- Triệu chứng: “KINH THỦY HỐT ĐOẠN, HỐT LAI, HÀN NHIỆT VÃNG LAI” )Hành kinh lúc hết lúc có, còn thêm chứng lúc nóng lúc lạnh).
- Biện chứng Đông y: Do Can kinh uất nhiệt, bế tắc không thông.
- Pháp trị: Bổ Can huyết, thông uất nhiệt.
- Bài thuốc: “Tử vật thang gia vị” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Thục địa 35g
Đương qui 18g (tẩm rượu sao)
Bạch thược 18g (tẩm rượu sao)
Bạch thuật 18g (sao hoàng thổ)
Xuyên khung 10g (rửa rượu)
Mẫu đơn bì 10g
Sài hồ 04g
Cam thảo 04g
Diện hồ sách 04g (tẩm giấm sao)
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ lý giải: “Phụ nữ kinh nguyệt đang hành bỗng nhiên ngưng rồi thấy kinh trở lại rồi lại hết, ngoài ra còn làm cho đau bụng từng cơn, lúc đau lúc không và lúc nóng lúc lạnh vô chừng. Người ta cho rằng bệnh “huyết ngưng” nhưng có ai biết rằng do “Can khí” không được thư hòa.
Bởi vì Can thuộc Mộc mà tàng huyết, rất sợ gió lạnh. Đàn bà đang lúc hành kinh, bào môn mở rộng, chợt gặp cơn gió lạnh, hàn khí nhập vào làm Can khí bế tắc và đường kinh nguyệt theo đó mà bế rắc luôn, lâu dần khiến cho da thịt, kinh lạc cũng thảy đều bế tắc; bởi vậy mới thấy triệu chứng “hàn nhiệt vãng lai” (nóng, lạnh luân phiên). Hễ Can khí hành thuộc dương phận thì phát nóng, còn Can khí hành thuộc âm phận thì phát lạnh. Như vậy vẫn còn là bệnh nhẹ. Nếu như cảm gió lạnh bên ngoài nặng hơn lại gặp cái nóng bên trong nhiều hơn thì cái nóng sẽ xâm phạm vào bàn cung (Nhiệt nhập huyết thất) có thể sinh chứng điên cuồng.
Pháp trị nên nhằm ngay lúc nội nhiệt chưa tăng, ngoại hàn còn nhẹ, tức thời bổ huyết cho Can, thông uất nhiệt, tán phong hàn. Như thế là huyết hành, phong tự diệt (theo cái lý: “Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt”). Đó là kế hay thượng sách.
Phương thuốc này dùng thang “Tứ vật” là để thêm “âm huyết” cho Tỳ, Thận. Dùng Sài hồ, Bạch thược, Mẫu đơn bì để thông hòa cái phong uất ở Can kinh; dùng Cam thảo, Bạch truật, Diên hồ sách để thuận lợi cho lưng, rốn mà trừ chứng đau bụng. Tất cả dẫn vào khoảng giữ “Biểu” với “Lý” và khai thông vào trong các “Kinh”, “Lạc”. Dùng thuốc mà đúng lúc, phải lẽ như thế thì tự nhiên thu được công hiệu như tiếng sấm.
Bài 6:
- Triệu chứng: “KINH THỦY HÀNH HẬU PHỤC HÀNH” (Hành kinh trong một tháng có tới 2-3 lần).
- Biện chứng Đông y: Huyết hư mà hàn.
- Pháp Trị: Đại bổ huyết để điều kinh.
- Bài thuốc: “Tứ vật thang gia vị” do danh y Phó Thanh Chủ chế tác
- Công Thức:
Thục địa 35g
Dương qui (rửa rượu) 18g
Bạch thược (sao rượu) 12g
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Sơn thù nhục (sao) 12g
Hắc kinh giới 12g
Xuyên khung 08g (rửa rượu)
Tục đoạn 04g
Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 4 thang, huyết dẫn về kinh, uống 10 thang rồi thêm 10 thang nữa, mỗi thang thêm Nhân sâm 12g, qua tháng sau hành kinh tự nhiên điều hòa.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ đưa ra hai giải thích:
a. Phụ nữ co người hành kinh chẳng những ra quá nhiều mà 1 tháng có tới 2 lần kinh nguyệt, làm cơ thể mệt mỏi, sắc mặt vàng ốm. Người ta cho rằng bởi “huyết nhiệt mà hữu dư” chứ có ai biết đó là “huyết hư, huyết hàn mà ít” chẳng thể qui kinh. Có người lại bảo “huyết vượng thì kinh nhiều, huyết hư thì kinh ít”. Riêng ta nói “kinh ra nhiều mà huyết hư”, ắt phải có lý do chính đáng.
- Chữ “Kinh” nghĩa là thường, vậy thì việc thường của Kinh là giữ huyết. Kinh đã giữ huyết thì dù cho huyết vượng thì cũng chỉ tiết ra có chừng mực. Nếu huyết không qui kinh để Kinh giữ thì dù huyết hư, huyết cũng sẽ ra nhiều. Cho nên chẩn đoán lầm “huyết vượng” mà trị chứng vượng là sai lầm rất lớn.
- Nếu bảo kinh ra nhiều là “huyết vượng” thì con người phải khỏe mạnh, hành kinh rồi thì tinh thần khí lực vẫn như thường; thế sao thấy kinh rồi lại thấy nữa mà thần trí lan man, huyết không thu giữ được? Rõ ràng là tại “huyết hư”.
- Huyết hư thì khí nhược, âm hư hại đến dương. Huyết thiếu thì tinh tán, mà tinh tán thì xương thiếu tủy, cho nên mặt mày tiều tụy, héo úa, còn ngờ gì nữa.
b. Bài này dùng thang “Tứ vật” là thần dược để bổ huyết; gia thêm Bạch truật, Kinh giới vừa bổ huyết vừa thông huyết; Sơn thù, Tục đoạn vừa để chỉ huyết vừa hành huyết; Cam thảo để điều hòa tính dược. Như thế là huyết đầy đủ mà qui kinh; đã về kinh rồi thì huyết yên, còn đâu hành nữa.
Bài 7:
- Triệu chứng: “KINH THỦY SỔ NGUYỆT NHẤT HÀNH” (Kinh nguyệt trễ, vài ba tháng mới thấy kinh).
- Biện chứng Đông y: Do khí huyết bất túc.
- Pháp Trị: Kiện Tỳ ích Thận, giải uất thông đàm
- Bài thuốc: “Trợ tiên đơn” của danh y Phó Thanh Chủ chế tác.
- Công Thức:
Bạch phục linh 18g
Trần bì 18g
Bạch truật 12g (sao hoàng thổ)
Bạch thược 12g (sao rượu)
Hoài sơn (sao) 12g
Thỏ ty tử 08g (sao rượu)
Đỗ trọng 04g (sao đứt tơ)
Cam thảo 03g
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 4 thang kinh nguyệt sẽ trở lại bình thường.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ giải thích: “Đàn bà có người vài ba tháng mới hành kinh một lần, sức khỏe vẫn bình thường. Tuy có lúc trồi lúc sụt không đúng kỳ nhưng không có cái nạn tháng nhiều tháng ít. Như vậy là khí và huyết đều đầy đủ, vô bệnh. Sao gọi là vô bệnh? Há chẳng biết một năm có bốn tháng “quí” (2 tháng) mà hành kinh thì có như có cái tiên cốt trời cho, chân khí của âm huyết bồi đắp đầy đủ bên trong, chân dương của Thận thủy không bị hao tổn. Người đời không biết, hễ trong tháng không thấy hành kinh thì nhận định là có bệnh rồi tìm cách cho uống thuốc. Đã vô bệnh mà lại trị bệnh để thành có bệnh thì lỗi đó thuộc về ai?
Ta (Phó Thanh Chủ) từng được nghe bậc dị nhân truyền dạy rõ ràng nên mới mở rộng tầm mắt và bảo cho người đời thấu hiểu, khi thấy những phụ nữ hành kinh như vậy thì chớ có hồ đồ trị liệu cho thông kinh. Tuy nhiên, số người có cái tiên cốt trời cho rất ít, còn người hao tổn khí huyết thì rất nhiều. Vì vậy, “Trợ tiên đơn” là một phép trị liệu thần kỳ cho cả người vô bệnh lẫn kẻ có bệnh.
Bài thuốc này bình bổ, nhưng trong phần bình bổ có cái lý kiện Tỳ ích Thận mà không trì trệ, giải uất thanh đàm mà không lợi tiết làm tổn hại đến khí huyết thiên nhiên. Thật là một đại pháp để điều kinh.
Bài 8:
- Triệu chứng: “KINH VỊ LAI, PHÚC TIÊN ĐÔNG” (Kinh chưa hành đã đau bụng).
- Biện chứng Đông y: Nhiệt cực hỏa uất, Thủy hỏa bất hòa.
- Pháp trị: Bổ Can huyết, giải Can uất, giáng Can hỏa.
- Bài thuốc: “Tuyên uất thông kinh thang” của danh y Phó Thanh Chủ
- Công thức:
Đương qui 18g (rửa rượu)
Bạch thược 18g (tẩm rượu, sao)
Mẫu đơn bì 18g
Bạch giới tử 08g (sao, giã nát)
Sài hồ 04g
Sơn chi tử 04g (giã nát)
Hương phụ 04 (rửa rượu)
Uất kim 04 (tẩm giấm, sao)
Hoàng cầm 04 (tẩm rượu, sao)
Sinh cam thảo 04g.
Sắc uống ngày 1 thang, uống liền 4 thang thì thang sau hành kinh không còn đau bụng như trước nữa.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ lý giải: “Phụ nữ có người trước khi hành kinh đau bụng vài ba ngày rồi mới ra kinh, lại ra nhiều những cụ đen đen tím tím. Người ta cho là “hàn cực” nhưng có ai biết đó là “nhiệt cực mà hỏa bất hóa”. Bởi Can thuộc Mộc, mà trong Mộc có Hỏa, nếu Can Mộc thư thái thì Hỏa mới tuyên thông. Nay Can Mộc bị uất kết, Hỏa không thể thông lên trên, bị ép cứng ở dưới mà sinh ra chứng đau bụng. Đến khi kinh thủy đầy phải tiết ra thì uất Hỏa cũng theo đó mà tiết ra nên làm cho kinh thủy kết thành hòn cục, tím đen. Cái màu sắc đen tím ấy chính là hình tượng “Thủy Hỏa lưỡng chiến”.
“Tuyên uất thông kinh thang” vừa giải uất thực nhiệt vừa sơ tiết cái hư Hỏa ở Can Mộc. Một khi Can huyết đầy đủ thì Can uất được giải, Can khí đã lợi thì Can hỏa tự nhiên bình, không lý do gì còn cơn đau bụng trước khi hành kinh.
Bài 9:
- Triệu chứng: “KINH HẬU, TIỂU PHÚC ĐÔNG THỐNG” (Sau khi hành kinh, đau bụng dưới).
- Biện chứng Đông y: Do Thận khí hư.
- Pháp trị: Thư Can, bổ Thận.
- Bài thuốc: “Điều can thang” của Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Đương qui 12g (rửa rượu)
Bạch thược 12g (tẩm rượu, sao)
A giao 12g (sao chín)
Hoài sơn 18g (sao)
Sơn thù nhục 12g
Ba kích nhục 04 (tẩm nước muối, sao)
Sinh cam thảo 04g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ giải thích: “Phụ nữ có người hành kinh rồi mới thấy đau bụng dưới. Người ta bảo do “khí huyết hư”, còn ta cho là “Thận khí suy, khô kiệt”. Tại sao vậy? Chẳng biết rằng kinh thủy vốn là thức nước sinh ra từ “Thiên nhất” (trong Hà Đồ Kinh Dịch nói: “Thiên nhất sinh Thủy”, nghĩa là Trời là số 1, sinh ra Thủy trước hết. Trong Ngũ hành, Thủy cũng đứng hàng thứ nhất. Con người mới tượng hình trong bào thai, hai quả thận sinh ra trước – Thận thuộc Thủy. Cho nên nói “Thiên nhất” là nói đến Thận).
Phàm lệ, hễ Thiên nhất đầy thì nó tràn ra mà vơi thì nó đóng lại. Sao kinh thủy đã hành, tức là vơi đi rồi, mà còn làm đau bụng dưới? Bởi vì Thận khí hư thì Thận thủy cạn kiệt, không còn đủ để tưới bón cho Can Mộc, dĩ nhiên Can Mộc uất lên mà chống lại Tỳ Thổ (Mộc khắc Thổ). Bụng dưới là bộ vị của Thái Âm )thuộc Tỳ Thổ), do kình chống với Can Mộc làm cái khí nghịch lên nên khua động làm đau bụng.
Pháp trị giỏi phải nhớ “Thư Can, thêm vị bổ Thận”. Một khi Thận thủy đủ thì Can Mộc thư thái, bình hòa, không còn bức bách Tỳ Thổ nữa. Từ chỗ nghịch biến thành thuận thì sao còn có thể đau bụng được. Cho nên, tất cả chứng đau bụng sau khi hành kinh mà dùng phương thuốc này điều lý thú thì đều có công hiệu, bất tất phải trị riêng chứng đau bụng.
Bài 10:
- Triệu chứng: “KINH THỦY TƯƠNG LẠI, TẾ HẠ TIÊN ĐÔNG THỐNG” (Trước ngày hành kinh, dưới rốn quặn đau)
- Biện chứng Đông y: Do hàn thấp quấy nhiễu hai mạch Xung Nhâm.
- Pháp trị: Lợi thấp, ôn hàn, khai khoát hai mạch Xung Nhâm.
- Bài thuốc: “Ôn hỏa trọ thấp thang” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Bạch truật 35g (tẩm hoàng thổ, sao)
Ba kích nhục 18g (tắm nước muối, sao)
Hoài sơn 16g (sao)
Bạch phục kinh 12g
Bạch biển đậu 12g (sao, giã nát, bỏ vỏ)
Liên nhục 08g (dùng cả tâm)
Bạch quả 10 quả (bỏ vỏ, sao, giã nát).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 4 thang khứ được tà khí, kinh thủy điều mà còn có thể sinh con. Thuốc này nên uống khoảng 10 ngày trước khi có kinh.
- Bàn luận: Phó Thanh Chủ giải thích: “Phụ nữ có người trước khi hành kinh 4-5 ngày thấy dưới rốn quặn đau như dao cắt, có khi còn làm cho nóng lạnh rồi mới hành kinh, màu sắc đen sì như nước đậu đen. Đó là dấu hiệu của chứng Hàn Thấp. nó lẫn lộn trong máu làm cho trì trệ.
Nên nhớ rằng mạch Xung, Nhâm của người đàn bà nằm ở Hạ tiêu rất sợ hàn thấp. Mạch Xung là huyết hải (bể chứa máu), còn mạch Nhân là huyết thất (nơi chứa bào thai), kinh thủy theo hai đường kinh ấy mà chảy ra ngoài. Nay Hàn và Thấp tràn ngập cả hai kinh mạch Xung, Nhâm, tanh nhau làm loạn nên phát đau. Hàn quá thì sinh ra vẫn đục, chảy ra như nước đậu đen, đó là màu sắc của “Bắc phương hàn thủy” (thuộc Thận). Vậy là bênh thuộc Hàn. Một khi tà khí (hàn) càng thịnh thì chính khí càng suy. Pháo trị đúng đắn nên “lợi thấp, ôn hàn” để cho hai mạch Xung, Nhâm thư thái thì tự nhiên dưới rốn không bị quặn đau.
Bài thuốc này dùng Bạch truật làm quân để hoạt lợi cái khí ở lưng và rốn; dùng Biển đậu, Hoài sơn, Liên nhục là để bảo vệ cái khí ở mạch Xung; dùng Ba kích, Bạch quả làm tá là để thông cái khí ở mạch Nhâm; Phục linh làm sứ để trợ khí mà thấm thấp. Nhờ đấy khí Hàn Thấp lui, kinh điều, lại còn có thể thụ thai.
Bài 11:
- Triệu chứng: “KINH TIỀN THỔ HUYẾT” (Trước ngày hành kinh, nôn ói ra máu)
- Biện chứng Đông y: Do Can khí nghịch
- Pháp trị: Bình Can thuận khí, chỉ huyết.
- Bài thuốc: “Thuận nạp thang” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Đương qui 18g (rửa rượu)
Thục địa 18g
Mẫu đơn bì 18g
Bạch phục linh 12g
Bắc sa sâm 12g
Hắc kinh giới 12g
Bạch thược 08 (sao rượu)
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang ngưng nôn ra máu, uống 2 thang kinh nguyệt thuận, uống 10 thang không tái phát.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ giải thích: “Có người đàn bà, trước ngày hành kinh một, hai ngày bỗng nhiên đau bụng rồi thổ ra huyết. Tại làm sao huyết lại nghịch thượng như thế? Người ta cho là “hỏa nhiệt cực”, còn ta cho là “cái khí ở Can nó nghịch lên”.
Phải biết rằng cái tính của Can rất gấp, chỉ ưa thuận chứ không ưa nghịch. Hễ thuận thì Can khí yên, nghịch thì Can khí động. Vậy thì, kinh mà thuận hành là bởi huyết chứ không bởi Can khí. Nay kinh nghịch hành thì tại Can khí chứ không phải tại huyết. Lại nói rằng: Kinh nghịch hành là tại Thận, không phải tại Can” cũng rất hợp lý. Cho nên huyết nghịch hành theo đường miệng thì lỗi ấy do Can không chứa huyết hoặc do Thận không thâu nạp khí để dẫn xuống. Bởi vì cái hỏa ở Thiếu âm Thận nó gấp như ngựa chạy lại được Can hỏa trực xung lên thì cái thế nghịch xung của nó càng nhanh chóng, xoay đường kinh làm cho huyết nghịch rất dễ dàng.
Tóm lại, tuy do Can không giữ huyết mà chính thật vì Thận không nạp khí cho nên can khí tự do hoành nghịch đẩy huyết ra đường miệng. Vậy phép trị nên thuận khí để bình Can đồng thời thêm chút út thuốc nạp khí cho Thận là yên.
Bài 12:
- Triệu chứng: “KINH TIÊN, ĐẠI TIỆN HẠ HUYẾT” (Trước ngày hành kinh, đi tiêu ra máu)
- Biện chứng Đông y: Do Tâm Thận bất giao làm cho kinh thủy chảy vào đại trường (ruột già)
- Pháp trị: Đại bổ Tâm, Can, Thận để chỉ huyết.
- Bài thuốc: “Thuận kinh lưỡng an thang” của danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Thục địa 18g
Mạc môn đông 18g
Đương qui 18g (rửa rượu)
Bạch thược 18 (sao rượu)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Nhân sâm 12g
Sơn thù nhục 12g (sao)
Hắc kinh giới 06g
Ba kích nhục 04g (rửa nước muối)
Thăng ma 02g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang chỉ huyết và kinh hành thuận chiều. Uống 3 thang kinh thủy sạch mà còn có thể thụ thai.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ lý giải: “Có những phụ nữ vài ba hôm trước ngày hành kinh đi tiêu ra máu. Người ta nghĩ rằng dần dần nó sẽ biến ra bệnh “băng huyết” nhưng ai biết kinh thủy chảy vào Đại trường. Nếu hỏi rằng đường đại tiện với đường hành kinh khác nhau thì làm sao huyết có thể chảy vào hồi trường mà đổ xuống hậu âm cho được?
Há chẳng biết cái dây của bào thai, trên thông Tâm, dưới thông thận. Tâm thuộc Hỏa, Thận thuộc Thủy, Thủy Hỏa phải giao nhau thì kinh thủy mới đi thuận đường. Một khi Tâm hảo và Thận thủy bất giao, huyết ở tử cung không ai kềm giữ tự do chảy xuống Tiểu trường (ruột non) rồi truyền sang Đại trường (ruột già) mà đi tiêu ra máu, đó là lẽ đương nhiên.
Phép trị, nếu chỉ cầm cái huyết ở Đại trường mà quên đi phần bồi Thủy Hỏa giúp cho Thủy Hỏa ký tế (thuận lý) thì chưa chắc cầm được huyết. Bài “Thuận kinh lưỡng an thang” là phương thuốc đại bổ 2 kinh Tâm, Can, Thận đã tương giao. Có người hỏi, nếu vì Tâm, Can, Thận đã tương giao. Có người ỏi, nếu vì Tâm, Thận bất giao thì cứ cho thuốc bổ Tâm, Thận là đủ rồi hà tất phải bổ cả Can làm chi? Há chẳng biết Can là con của Thận (Ngũ hành tương sinh, Thủy sinh Mộc) lại là mẹ của Tâm (Mộc năng sinh Hỏa). Nay bổ thêm Can là dùng cái thế liên đới, trên thông với Tâm, dưới thông với Thận, cả 3 nơi thuận hòa thì bất tất phải đặt ra vấn đề điều kinh.
Bài 13:
- Triệu chứng: “KINH TIỀN, TIẾT THỦY” (Trước ngày hành kính, ỉa chảy)
- Biện chứng Đông y: Do Tỳ khí hư
- Pháp trị: Kiện Tỳ khí, cố Tỳ huyết.
- Bài thuốc: “Kiên cố thang” của danh y Phó Thanh Chủ/\.
- Công thức:
Bạch truật 25g (sao hoàng thổ)
Nhân sâm 18g
Phục Linh 12g
Ý dĩ nhân 12g
Ba kích nhục 12g (tẩm nước muối).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 thang hết ỉa chảy trước kỳ kinh.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ luận giải: “Đàn bà có người ngày hành kinh vài ba ngày bị tiêu chảy ra toàn nước rồi mới hành kinh. Hiện tượng này là do Tỳ khí hư. Bởi vì nhiệm vụ của Tù là giữ huyết, Tù mà hư suy thì không giữ được huyết. Tỳ lại thuộc Thổ, một khi Tỳ hư thì Thổ phát sinh khô ráo làm cho chứng Thấp càng nặng (vì Thổ thuộc Thấp).
Khi kinh thủy chuyển động để xuất hành trong khi Tỳ không khỏe còn bị Thấp khí lấn tới nên khó mà điều khiển cho huyết thuận đường tới huyết hải (bể máu, chỉ tử cung). Phải chờ cho Thấp khi giảm đi, tức là ỉa chảy cho hết, thì mới tới hành kinh. Nhưng muốn trị Thấp thủy phải điều huyết trước, mà muốn điều huyết phải điều khí trước. Bao giờ Khí vượng thì Thấp tự nhiên tiêu, Huyết tự nhiên đầy mà kinh tự nhiên điều.
Bài “Kiện cố thang” là thuốc kiện Tỳ khí để cố Tỳ huyết nên huyết ở yên trong khí. Tỳ khí mạnh thì Thấp thủy tiêu làm sao có chuyện “kinh tiền tiết thủy” nữa.
Bài 14:
- Triệu chứng: “NIÊN VỊ LÃO, KINH THỦY ĐOẠN” (Tuổi chưa già, kinh nguyệt đã hết – Bế kinh)
- Bằng chứng Đông y: Khí ở Tâm, Can, Tỳ bị uất sinh bế kinh.
- Pháp trị: Giải uất, đại bổ Tâm, Can, Tỳ khí.
- Bài thuốc: “Ích kinh thang” của Danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Thục địa 35g
Bạch truật 35g (sao hoàng thổ)
Hoài sơn 18g (sao)
Đương qui 18g (rửa rượu)
Bắc sa sâm 12g
Bạch thược 12g (sao rượu)
Sinh táo nhân 12g (giả nát)
Nhân sâm 08g
Mẫu đơn bì 08g
Sài hồ 04g
Đỗ trọng 04(sao đen).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 8 thang kinh hành trở lại. Uống thêm, uống nhiều hơn nữa sẽ không còn chuyện bế kinh mà còn có thể thụ thai.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ luận giải: “Theo luật thiên nhiên, phụ nữ tới 49 tuổi ( 7 x 7 = 49) thì nước Thiên quý (Thận) cạn, đường kinh nguyệt hết. Nay tuổi còn trẻ mà đã hết kinh nguyệt, người ta cho là tại “huyết khô”, còn ta cho rằng cái khí ở Tâm, Can, Tỳ nó bị uất nên sinh ra bế kinh. Nếu thật là “huyết khô” thì con người mà sao sống được?
Há chẳng biết kinh là huyết nhưng không phải huyết đang luân chuyển trong châu thân mà là cái nước “Thiên nhất” từ trong Thận chảy ra. Kinh có cái “tinh” chí âm, lại có cái “khí” chí dương nên có sắc đỏ, tức trong âm có dương. Cho nên kinh hết sớm, cứ trách vào Thận thủy nhưng liên hệ cả Tâm, Can, Tỳ. Một trong ba tạng đó mà bị uất thì khí không nhập Thận tất không thể hành kinh được.
Phép trị chẳng những tán cái uất ở Tâm, Can, Tỳ mà còn đại bổ cho Tâm, Can, Tỳ để tính khí ở Thận tràn đầy thì kinh tự hành. Bài thuốc “Ích kinh thang” hay ở chỗ bổ để thông, tán để khai, không dùng thuốc công phạt mà kinh tự hành quả là thượng pháp.
Bài 15:
- Triệu chứng: “NIÊN LÃO, KINH THỦY PHỤC HÀNH” (Tuổi đã già còn hành kinh trở lại).
- Bằng chứng Đông y: Do Tỳ không nhiếp huyết.
- Pháp trị: Bổ Can, Tỳ khí kiêm đại bổ Thận thủy để chỉ huyết.
- Bài thuốc: “An lão thang” của Danh y Phó Thanh Chủ.
- Công thức:
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng kỳ 35g
Thục địa 35g
Sơn thù nhục 18g (sao)
Đương qui 18g (rửa rượu)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
A giao châu 04g
Hắc kinh giới 04g
Cam thảo 04g
Mộc nhĩ 04g (sao cháy)
Hương phụ (sao rượu) 02g(sao rượu).
Sắc uống ngày 1 tháng. Uống 10 thang chỉ huyết.
- Bàn luận: Danh y Phó Thanh Chủ luận giải: “Đàn bà có người 50 – 60 tuổi, kinh thủy đã hết từ lâu, bỗng hành kinh trở lại mà ra những hòn cục đen đen, tím tím; có người ra huyết đỏ dầm dề, rỉ rả. Đó là bởi Tỳ không nhiếp huyết mà sinh ra.
Nên biết rằng Tỳ lo chuyện nhiếp huyết, Thận lo về tàng tinh. Nay huyết không nhiếp, tinh không tàng thì tinh huyết tiết ra, lại còn bị cái hỏa ở Mệnh môn (Long lôi hỏa) động lên hun đốt nên huyết bôn tẩu chạy càn mà làm ra kinh nguyệt trái thường. Phép trị phải đại bổ khí huyết cho Tâm, Can, Tỳ để chỉ huyết, còn phải bổ cả Thận thủy để cho Can khí thư thái mà Tỳ được tư dưỡng. Như vậy là giúp cho Can tàng huyết, Tỳ nhiếp huyết, sẽ đứt chứng tuổi già mà ra kinh.
Ghi chú: Ngày nay, phụ nữ lớn tuổi bỗng nhiên thấy hành kinh trở lại là một chỉ dấu không tốt. Theo kinh nghiệm lâm sàng, nghi ngờ có bướu hay ung thư ở cổ tử cung hoặc trong tử cung, cần đến Bác sĩ phụ khoa để thăm khám, tìm hiểu nguyên nhân và điều trị kịp thời. Đa số phụ nữ Việt Nam, do kiến thức hạn chết và điều kiện tài chánh eo hẹp, thường bỏ qua những bệnh u bướu nguy hiểm thuộc hệ thống sinh dục. Đến khi phát hiện thì quá trễ.
2. ĐỚI HẠ
Tổng luận:
Theo Đông Y, danh từ “Đới hạ” xuất hiện lần đầu tiên trong “Nội Kinh”, vốn là bộ y thư xưa của nền y học cổ truyền Đông phương. “Đới hạ” bao gồm hai nghĩa:
- “Đới” có nghĩa là dây thắt lưng quần, còn “Hạ” là ở dưới. Theo nghĩa rộng, tất cả các chứng bệnh nằm tại bộ vị Kinh, Đới, Thai, Sản của Phụ khoa đều thuộc “Đới hạ”.
- Theo nghĩa hẹp, “Đới hạ” chỉ một thứ chất dịch màu trắng nhở, hơi dẻo, nhơn nhớt từ trong âm đạo của phụ nữ chảy ra liên miên không dứt, còn gọi là “Bạch đới”, Y học hiện đại gọi là “khí hư”.
Có hai chi tiết cần chú ý về “Đới hạ”:
- Một là, trong thời kỳ phát dục của nữ giới ở tuổi dậy thì, trước hay sau khi hành kinh, lúc mới mang thai, âm đạo của phụ nữ thường tiết ra một chất dịch màu trắng trong, trơn ướt. Đó là nội tiết tố, một hiện tượng sinh lý bình thường, không phải bệnh.
- Hai là, tùy theo bệnh chứng, “Đới hạ” biểu thị dưới nhiều hình thái bằng nhiều tên gọi khác nhau, như: “Bạch đới, Hoàng đới, Xích đới, Thanh đới, Hắc đới”. Bởi thế, việc đối chứng lập phương, tức sử dụng dược thảo điều trị, cũng khác nhau. Sau đây là một số chứng “Đới hạ” thường gặp.
BẠCH ĐỚI HẠ (Nước mạch Đái chảy ra màu trắng)
Định nghĩa:
- Là chất nhầy nhớt màu trắng kéo dài như sợi tơ từ âm đạo của phụ nữ chảy ra không ngưng gọi là “Bạch đới”, “Bạch đái hạ” hay “Huyết trắng”, tương đương với chứng “khí hư do rối loại nội tiết” của Y học hiện đại.
- Là chứng bệnh phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các bênh thuộc Phụ khoa. Thời kỳ đầu, ngoài chuyện phiền toái về vệ sinh, bạch đới út có ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhưng để lâu bệnh dễ gây viêm nhiễm và làm hoa mòn sinh lực, không nên khinh thường.
Nguyên nhân:
- Các thầy thuốc xưa, mỗi người đưa ra một quan điểm khác nhau về chứng bạch đới. Lục Trọng Thuần cho là “Tỳ hư”, Triệu Dưỡng Quỳ bảo rằng “Thận khí hư”, sách “Sào thị bệnh nguyên” nói vì “Phong hàn”, còn Trương Tử Hòa và Lưu Hà Gian thì cho là “Thấp nhiệt”, trong khi Châu Đơn Kê lại bảo do “Đàm thấp”. Đặc biệt, danh y Phó Thanh Chủ đưa ra luận chứng: “Bệnh đái hạ, tất cả đều thuộc Thấp”. Trong quyển sách “Nam Nữ Khoa”, danh y Phó Thanh Chủ có lập riêng một chương để dẫn giải về bệnh “Bạch đái hạ” được danh y Trần Tu Viên công nhận là hay và ông đã trích ra chép vào quyển sách “Nữ Khoa” do ông biên soạn để vừa tán thán tài năng tiên sinh Phó Thành Chủ vừa phổ biến những bài thuốc quý.
- Xét về cơ chế bệnh, “Bạch đới” có nhiều nguyên nhân tác động, trong khi tất cả lý luận của người xưa dựa vào “chứng trạng” lâm sàng mà đặt tên. Vì thế, việc chẩn đoán và điều trị của hàng hậu học cũng nên cân nhắc để sử dụng được thảo sao cho thích hợp, không bác bỏ một luận thuyết nào. Riêng tập sách “DƯỢC THẢO LUẬN TRỊ” chỉ giới thiệu các bài thuốc trị bệnh “Đái hạ” của danh y Phó Thanh Chủ, bởi vì lâm sàng nó cho nhiều kết quả rất mỹ mãn. Sau đây là học thuyết của danh y Phó Thanh Chủ.
Bệnh “Đái hạ”, tất cả đều thuộc “Thấp”. Gọi là bệnh “Đái hay Đới” vì nước ở “Đới mạch” chảy ra nên lấy chữ “Đái” mà đặt tên. Nên biết rằng day mạch Đái có chức năng buộc giữ bào thai, còn mạch bào thai thì thông với mạch Nhâm (vùng bụng) và mạch Đốc (vùng lưng). Mạch Nhân, mạch Đốc mà có bệnh thì mạch đái cũng sẽ suy yếu, vô lực. Một khi mạch Đái vô lực thì khó kềm giữ, buộc chặt được bào thai khiến cho bào thai lỏng lẻo và trụt xuống. Cho nên, hễ mạch Đái mà yếu thì bào thai trụt xuống, gây hiện tượng đau vùng bụng dưới, bệnh “tử huyền” (thai khóc trong bụng mẹ), hư thai, đẻ non.
Còn như tinh khí, nếu chẳng đồng hóa với kinh thủy để hành theo chu kỳ mà ứ đọng lại, hoặc do Tỳ khí hư, Can khí uất, Thấp nhiệt xâm lấn, đều có thể biến thành chứng “Đái hạ”. Chất trắng nhớt như mũi, kéo sợi hoặc có bọt thậm chí còn có mùi hôi, từ âm đạo phụ nữ tiết ra, đó là “bạch đái”.
Bệnh Đái hạ có nhiều loại:
- “Bạch đái” là đái hạ màu trắng, còn gọi là huyết trắng.
- “Hoàng đái” là đái hạ màu vàng.
- “Xích đái” là đái hạ màu đỏ.
- “Thanh đái” là đại hạ màu xanh.
- “Hắc đái” là đái hạ màu đen.
Trong các loại ấy, “Bạch đái” là nhiều nhất. Tại sao vậy? Bởi vì Can Mộc uất nhiệt xâm lấn Tỳ Thổ làm cho Tỷ Thổ không giữ được tinh khí, không hóa được vinh huyết để làm ra kinh thủy, thì cái khí thấp thổ của Tỳ bị hãm ở dưới mà sinh ra bạch đái.
Phép trị nên đại bổ Can khí làm quên, thêm những dược phẩm thư Can làm tá, sứ để Can Mộc không bị bế tắc ở dưới đất (tứ Tỳ Thổ) thì tự nhiên khí đất thăng lên. Thế là chân khí mạnh, bệnh thấp trừ, làm sao còn có chuyện “bạch đái”.
Hãy dùng phương thuốc “HOÀN ĐÁI THANG”.
Bạch truật 35g (sao hoàng thổ)
Hoài sơn 35g (sao hơn vàng)
Bạch thược 15g (tắm rượu, sao)
Thương truật 12g (sao)
Xa tiền tử 12g (tẩm rượu, sao)
Nhân sâm 08g
Cam thảo 04g
Sài hồ 03g
Trần bì 02g
Hắc kinh giới 02g
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang bệnh giảm, uống 4 thang bệnh bạch đái ngưng, uống 6 thang bệnh khỏi hoàn toàn.
Lý giải: Thuốc này đồng trị cả ba kinh Can, Tỳ, Vị trong một phương thang. Tán Thấp mà ngụ ý bổ Thổ, thăng Khí mà ngụ ý tiêu Thủy nhằm khai khoát cái Khí cho Can Mộc thì Can huyết không còn bị khô nữa. Nếu thế thì còn đâu cái chuyện hạ xuống để xung đột với Tỳ Thổ. Mà bổ ích nguyên khí cho Tỳ Thổ thì Tỳ khí không còn bị thấp nữa, làm gì không phân tiêu được Thủy khí.
Còn như bồ Tỳ mà kiêm cả phần bổ Vị nữa là vì Tỳ Vị có quan hệ “biểu lý” với nhau, từ lý (trong) đạt tới biểu (ngoài). Nếu Vị khí không mạnh thì Tỳ khí không vượng, cho nên bổ Vị chính là để bổ Tỳ. Cho nên bệnh bạch đái sạch.
Ghi chú: Trong y văn cổ có đề cập đến chứng “Bạch băng”, là thức nước nhớt trắng đục giống như trước vo gạo từ trong âm đạo chảy ra nhiều hơn chứng bạch đái, chảy ào ạt như nước vỡ bờ nên gọi là “Bạch băng”. Thực ra, đây chỉ là chứng bạch đái ở giai đoạn nặng, tương đương với bệnh “khí hư do rối loạn nội tiết tô” của Y học hiện đại. Dùng bài “Hoàn đái thang” trị cũng có kết quả.
THANH ĐÁI HẠ (Nước mạch Đái chảy ra màu xanh)
Nước mạch Đái tiết ra thường có màu xanh, nặng hơn thì màu lục hoặc màu xanh lục thêm vàng càng vẫn đục như nước đậu xanh, keo đặc mà dẻo, dinh dính, có mùi hôi tanh. Đó là “Thanh đái”.
Sở dĩ gọi “Thanh đái” bởi Can kinh bị thấp nhiệt làm cho nước ở mạch Đái chảy ra xanh như nước đậu xanh. Nói bệnh thuộc Can Mộc là vì Can thuộc Mộc, mà Mộc có sắc xanh, không còn ngờ gì nữa. Có kẻ biện bác rằng: “Can thuộc Mộc, Mộc là cây, cây luôn thích được tưới nước trong khi thấp cũng là một thứ nước để tưới cho cây, vậy làm sao cây bị bệnh?”. Há chẳng biết “Can mộc vẫn thích nước nhưng Can mộc vốn ghét cái thấp vì thấp là khí của đất, không phải nước thật. Đã ghét tức là trái ý, trái bản tính của Can, mà hễ trái ý thì khí của Can nghịch lên. Một bên (Can) nghịch lên còn một bên (Thấp khí) hạ xuống, hai đàng gia chiến chống đối nhau, không cho đi lên mà cũng chẳng xuống được, liền đình tích lại ở Trung tiêu rồi rót xuống mạch Đái tiết ra chất màu xanh, màu lục. Nước đó đúng là khí hóa do Can tạo thành.
Phép trị phải giải cái hỏa cho Can Mộc, lợi thủy cho Bàng quang, thì dù bệnh Thanh đái có màu xanh hay lục, nhẹ hay nặng, cũng đều trừ được hết.
Phương thuốc thần diệu có tên “TIÊU DAO TÁN GIA GIẢM”:
Bạch phục linh 20g
Bạch thược 20g (rửa rượu)
Sinh cam thảo 20g
Chi tử 12g (sao, giã nát)
Bác Nhân trần 12g
Sài hồ 04g
Trần bì 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang màu xanh đã lợt, uống 4 thang màu xanh hay màu lục đứt hẳn, bất tất phải uống thêm.
- Lý giải: Người xưa lập ra phương “Tiêu dao tán” là nhằm giải uất nhiệt cho Can nhưng tại sao có thể ứng dụng để trị bệnh “Thanh đái” mà kết quả hay như thần vậy? Bởi thấp nhiệt lưu trú ở Can kinh khiến cho khí ở Can bị uất, mà uất thì nó nghịch lên, chỉ có bài “Tiêu dao tán” là giải được mà thôi.
Khi Can khí khoan hòa, lại thêm Nhân trần có tính năng lợp thấp, Chỉ từ để thanh nhiệt; thế là uất nghịch được giải, thấp nhiệt tự tiêu, thật là phương thuốc kỳ diệu và nhanh thần tốc. Nếu chỉ lợp thấp, thanh nhiệt mà quên phần giải uất cho Can khí thì khó mà đình chỉ được bệnh Thanh đái.
HOÀNG ĐÁI HẠ (Nước mạch Đái chảy ra màu vàng)
Nước ở mạch Đái chảy ra màu vàng, có khi vàng sậm như nước trà đặc kèm theo mùi hôi tanh thì gọi là “Hoàng đái”. Sở dĩ gọi “Hoàng đái” là vì mạch Nhâm bị Thấp Nhiệt quấy nhiễu sinh ra.
Mạch Nhâm (vùng trước bụng) vốn không dung nạp Thủy thấp thì tại sao thủy thấp vào được mà hóa thành “Hoàng đái”? Há chẳng biết mạch Đái đi ngang, vòng quanh lưng rốn rồi mới thông với mạch Nhâm trong khi mạch Nhâm từ dưới bụng chạy thẳng lên môi và răng. Nhớ rằng môi, răng là nơi có một mạch nước không bao giờ cạn và nước này chả thông suốt xuống mạch Nhâm để hóa ra tinh. Khi mạch Nhâm bị nhiệt khí quấy nhiễu thì nước ở bào thai, thay vì hóa ra tinh, lại hóa ra thấp.
Thấp vốn là Thổ khí từ Thủy hình thành, Nhiệt là Hỏa khí từ Mộc sinh ra. Thủy sắc đen, Hỏa sắc đỏ hồng. Nay Thấp với Nhiệt gặp nhau, Hỏa muốn hóa sắc hồng không được còn Thủy muốn biến sắc đen cũng không xong, bèn hun đúc lại thành thứ nước vàng, không theo bản sắc của Thủy Hỏa mà hóa, lại theo Thấp khí mà hòa. Bởi vậy mạch đái mới chảy ra nước màu vàng.
Phép trị nên bổ hư cho mạch Nhâm, thanh nhiệt cho Thận. Nếu khinh thường không suy xét cho sắc vàng là sắc của Tỳ Thổ, tức Hoàng đái là bệnh bởi Tỳ Thổ, rồi chăm chăm trị Tỳ Thổ thì chẳng bao giờ dứt bệnh. Chỉ bằng dùng phương thuốc “DỊCH HOÀNG THANG” là vẹn cả mọi đường.
Hoài sơn 35g
Khiếm thực 35g
Hoàng bá 08g
Xa tiền tử 04g
Bạch quả 10 hạt (bỏ vỏ, giã nát).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 4 thang Hoàng đái ngưng, hết bệnh hoàn toàn. Phương thuốc này không những trị được bệnh Hoàng đái hay như thần mà còn trị luôn các bệnh Đái khác, nhưng Hoàng đái thì hiệu nghiệp bậc nhất. Nhờ Hoài sơn, Khiếm thực, chuyên bổ hư cho Nhâm mạch lại hay lợi thủy, còn thêm Bạch quả dẫn thuốc vào mạch Nhâm càng mau chóng hơn; Xa tiền, Hoàng bá để thanh hỏa cho Thận, giải nhiệt cho mạch Nhâm. Thế là đúng lý.
XÍCH ĐÁI HẠ (Nước mạch Đái chảy ra màu đỏ)
Nước mạch Đái chảy ra có khi hồng như huyết nhưng kỳ thực không phải huyết. Nó chảy rỉ rả, dầm dề, nhiều người tưởng lầm rằng là kinh nguyệt dây dưa, rong kinh, rong huyết, nhưng kỳ thật không phải kinh nguyệt hay rong kinh, rong huyết, nhưng kỳ thật không phải kinh nguyệt hay rong kinh. Đó là bệnh “Xích đái”.
Xích đái cũng là bệnh thuộc Thấp. Thấp vốn là sản phẩm bởi Thổ khí (khí đất) mà đất thì có sắc vàng lợt (vàng pha trắng), cớ sao lại có màu đỏ? Bởi vì đỏ thuộc nhiệt, mà nhiệt lại thuộc hỏa, hỏa màu đỏ, cho nên mạch Đái chảy ra nước màu đỏ. Hỏa nhiệt này không phải có một cái hỏa ở Mệnh môn quấy nhiễu thôi đâu, vì mạch Đái còn thông với Thận và Thận khí còn thông với can. Phụ nữ nào thường ưu tư thì tổn hại Tù, tức giận quá thì thương Can. Một khí hỏa ở Can bùng cháy mạnh thì xung khắc với Tỳ thổ (Mộc khắc Thổ). Tỳ thổ bị khắc thì ăn uống kém, chán ăn, biếng uống, không vận hóa được bèn sinh ra Thấp Nhiệt và hãm ở khoảng mạch Đái. Còn Can mà uất cũng không tàng huyết, huyết ấy lại thẩm vào mạch Đái. Thế là Thấp nhiệt ở Tỳ gặp huyết ở can, hai thứ trộn lẫn vào nhau và chảy ra màu sắc đo đỏ như huyết chứ không phải huyết thực. Như vậy ai bảo Xích đái thuộc Hỏa là lầm muôn đời.
Phép trị nên thanh Cam hỏa mà trợ Tỳ khí. Phương thuốc này có tên là “THANH CAN CHỈ LÂM THANG”.
Bạch thược 35g (tẩm giấm, sao)
Đương qui 35g (rửa rượu)
Hắc tiểu đậu 35g (sao)
Sinh địa 18g (tẩm rượu, sao)
A giao 12g (sao phồng)
Mẫu đơn bì 12g
Hoàng bá 08g
Ngưu tất 08g
Hương phụ 04g (tẩm rượu, sao).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang bệnh nhẹ, uống 4 thang ngưng Xích đái, uống 10 thang không tái phát.
- Lý giải: Phương thuốc này chuyên bổ Can huyết, hoàn toàn không đặt vấn đề thông lợi Tỳ Thấp, bởi vì bệnh Xích đái thuộc Hỏa và Hỏa này nặng hơn thấp.
Hỏa vượng là bởi huyết suy, cho nên bổ huyết tức là gián tiếp nén cái Hỏa xuống mà thêm phần thanh Hỏa chứ không phải lợi Thấp. Nếu đặt trọng tâm lợi Thấp thì thành ra dẫn Hỏa hạ hành khiến cho bệnh biến chứng đổi sang bệnh khác rất khó trị.
Có người hỏi rằng: “Trong pháp trị vừa nêu, Tiên sinh có nói nên “trợ Tỳ khí” nhưng tại phần lý giải lại nói chỉ “bổ Can huyết”, vậy có mâu thuẫn chăng? Bời không biết rằng dùng Bạch thược để bình Can, khi Can khí được thư thái thì không còn cách khắc chết Tỳ thổ nữa và nhờ đó mà Tỳ thổ vượng lên. Thế là bình Can huyết cũng là trợ Tỳ khí mà không cần dùng đến được phẩm Sâm, Truật.
HẮC ĐÁI HẠ (Nước mạch Đái chảy ra màu đen)
Phụ nữ có người trong âm đạp chảy ra một thứ nước màu đen, nếu nặng thì đen như nước đậu đen lại còn bốc mùi hôi tanh. Đó là “Hắc đái”. Sở dĩ gọi “Hắc đái” là vì hỏa nhiệt cực nung nấu ở hạ tiêu mà thành.
Có người hỏi rằng: Nếu hỏa nhiệt cực thì hỏa vẫn sắc đỏ, sao lại thành đen? Há chẳng biết, tuy bản sắc của hỏa là đỏ, nhưng khi gặp nhiệt cực thì tạo một giả tướng tựa như thủy. Hãy xem những người có chứng bệnh, trong bụng thì đầy mà lúc tiểu tiện lại buốt như dao cắt, âm môn phát thũng, sắc mặt đỏ, lâu ngày thân thể gầy ốm, phát vàng, dưới tim phiền táo, miệng mồm nóng khát phải uống nước thật lạnh mới thấy dễ chịu. Đó là vì Vị hỏa quá vượng kết hợp với hỏa ở Mệnh môn, Bàng quang, Tan tiêu nung nấu đến khô kiệt mà thành sắc đen chứ chẳng có chút Hàn khí nào xen vào.
Những chứng bệnh như thế mà chưa đến nổi phát cuồng cũng là nhờ còn có Thận thủy và Phế kim vô bệnh trợ lực, nhuận Tâm, thanh Vị để cứu vớt lại. Tóm tắt, bệnh “Hắc đái” là do Hỏa kết ở dưới, chẳng bốc lên trên. Phép trị chỉ nên chú tâm đến phần tiết Hỏa thì nhiệt sẽ thoái mà thấp tự nhiên trừ. Phương thuốc này gọi là: “LỢI HỎA THANG”.
Thạch cao 18g(đốt chín)
Hoàng liên 10g (sao vàng)
Chi tử 10g (sao đen, giã nát)
Lưu ký nô 12g
Bạch truật 12g (sao hoàng thổ)
Vương bất lưu hành 12g
Phục linh 12g
Xa tiền tử 12g (tẩm rượu, sao)
Đại hoàng 08g (sao vàng)
Trị mẫu 08g (sao vàng).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang tiểu tiện thông lợi, hết đau buốt. Uống 2 thang “Hắc đái” đổi sang “Bạch đái”. Uống 3 thang Bạch đái bớt dần, lại thêm 3 thang nữa hoàn toàn hết bệnh.
- Lý giải: Dùng Hoàng liên, Thạch cao, Chi tử, Tri mẫu cùng một dược, tính hàn lương hiệp với Đại hoàng để tảo trừ nhiệt cực rất mau chóng. Lại được Vương bất lưu hành và Lưu ký nô lợi thấp cũng nhanh, thêm Bạch truật bổ thổ, Phục linh thấm thấp, Xa tiền lợi thủy thì thấp nhiệt sẽ còn chỗ để đình trú. Thế là Thủy thoái mà Hỏa tiêu, bệnh khỏi.
Nếu có kẻ nào chê phương thuốc này quá mạnh về phần thông lợi thì kẻ đó không biết rằng cái phép dùng thuốc trị Hỏa lúc đang thịnh cần phải dũng mãnh, không được chậm trễ. Ví như lửa cháy nhà, nếu chữa thong thả, ắt chỉ còn thấy đống tro tàn.
3. THAI SẢN
TỔNG LUẬN
Trong các chứng bệnh thuộc Phụ khoa, bệnh lúc thai sản được xem là quan trọng bậc nhất vì nó có liên hệ đến sự an nguy sinh mệnh của cả thai phụ lẫn thai nhi. Sau đây là một số điều thiết yếu mà các bà mẹ mang thai cần lưu ý:
- Khi biết mình có thai, cần nới lỏng thắt lưng cho bào thai được thoải mái.
- Dùng thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, dễ tiêu hóa, uống nước đầy đủ.
- Năng đi bộ, bước đi chậm, khoan hòa vào những giờ khắc thích hợp.
- Làm những việc nhẹ nhàng, tránh nằm lâu, đứng lâu, ngồi lâu một chỗ.
- Năng vệ sinh các nhân, tắm rửa, chọn quần áo nhẹ nhàng, rộng rãi là tốt.
- Tập điều dưỡng cho thân, tâm thường an lạc; tránh giận dữ, ghen ghét.
- Kiêng uống rượu, hút thuốc lá, đi giàu chật, giày cao gót, đi nhún nhảy.
- Hạn chế tối đa các thực phẩm dễ gây dị ứng làm ảnh hưởng đến thai nhi.
- Ngủ, nghỉ đúng giờ. Không nên thức khuya, xem phim bạo lực.
- Tránh uống thuốc, châm cứu, chích lễ, chạy điện, xông hơi bừa bãi.
- Thăm khám định kỳ với Bác sĩ chuyên môn về sản phụ khoa.
BỆNH TRONG THỜI KỲ MANG THAI
Trong giai đoạn từ thụ thai cho đến sinh đẻ, phụ nữ rất thường gặp những chứng bệnh sau đây:
- Các triệu chứng nôn ói, tức ngực, mệt nhọc do thai nghén.
- Phù thũng, đau bụng, đau lưng, tiểu ra máu, băng huyết.
- Thai động, găng tức hai bên sườn, trụy thai, hư thai, đẻ non.
Y thư viết về thai sản xưa nay có đến hàng nghìn tác giả, hàng chục nghìn loại sách vở diễn giải dưới nhiều trình độ và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm lâm sàng, nhận thấy kiến thức và các phương thang điều trị về thai sản của danh y Phó Thanh Chủ là cao minh hơn cả. Do đó, xin sao chép nguyên tác mục “Nhân Thần” (mang thai) trong sách “Nam Nữ Khoa” của danh y Phó Thanh Chủ, thầy thuốc nổi tiếng của Trung Hoa sống vào đời vua Khang Hy Nhà Thanh, để cùng thừa kế một di sản y học cổ truyền thật đặc sắc.
NHÂM THẦN Ố TRỞ
(Khi mang thai tức ngực, nặng tim, nôn ói không cho ăn)
Đàn bà có người sau khi thụ thai cảm thấy bức bối trong tim, bần thần đã dượi, nôn ọe liên hồi, thấy cơm là sợ, nghe mùi tanh hôi là mửa, thèm đồ chua, chỉ muốn uống nước, mê mệt chỉ muốn nằm. Người đời gọi chung là nhân do “Can huyết nóng ráo” sinh ra.
Ôi! Người đàn bà mà thụ thai là nhờ cái gốc Thận khí vượng. Thận khí vượng thì mới cầm giữ được dương tinh. Một khi nhận lấy dương tinh (tinh trùng) để thành thai thì Thận thủy phải nuôi dưỡng bào thai. Trong ngũ tạng, Can là con của Thận. Hàng ngày Can nhờ hơi mẹ (Thận) để khoan hòa thư thái, nhưng vì một lý do nào đó thiếu chất tân dịch nuôi dưỡng thì Can trở nên khô ráo và đòi Thận thủy cứu giúp. Nếu như mẹ (Thận) không đáp ứng đầy đủ, kịp thời, thì Can biến thành cấp táo; mà cấp thì Hỏa động, khí nghịch lên. Can khí nghịch thì làm ra chứng ụa mửa, bức bối trong tim. Chứng ụa mửa tuy không đến nỗi nguy vong nhưng ụa mửa mãi cũng là tổn thương chân khí. Khí tổn thương thì Can huyết càng suy kiệt thêm.
Xét về thuốc thì bài “Tứ vật” (gồm Xuyên khung, Đương qui, Thục địa, Bạch thược) chính là phương thang đúng nhất và hiệu nghiệm nhất để trị các chứng bệnh phụ nữ thời kỳ “ố trở” nhờ sinh huyết, bổ Can, giúp cho Can khỏi bị khô ráo. Nhưng nếu chỉ sinh huyết mà thiếu phần sinh khí thì tình trạng ụa mửa vẫn không thể dứt vì khí ở Tỳ vị suy yếu. Vả lại, ụa mửa nhiều thì chân khí hư mà khí hư thì dù có uống thang “Tứ vật” để bổ huyết cũng khó sinh được huyết. Cho nên, trong phần bổ Can huyết ắt phải thêm phần “kiện Tỳ khai Vị” để bổ khí. Khí vượng thì “khí năng sinh huyết” nhờ đó mà thai phụ hết ụa mửa và cái thai cũng được tu dưỡng tốt tươi.
Nếu có ai ngờ rằng “khí đã nghịch mà sao còn dùng thuốc bổ khí chẳng hóa ra đổ dầu vào lửa chăng?” Bởi không biết người mang thai bị “ố trở” là bởi Can huyết táo làm cho khí nghịch mà nghịch ở đây là do “nội hư” chứ không phải do “ngoại tà” sinh nghịch. Nội hư sinh nghịch mà được bổ khí thì chứng nghịch thành thuận, huống chi bổ khí tròng phần bổ huyết thì lấy âm huyết để chế ngự dương khí tất nhiên chứng thượng nghịch tự tiêu.
Phương thuốc trọ chứng “ố trở” này có tên là “THUẬN CAN ÍCH KHÍ THANG”, gồm các vị:
Nhân sâm 35g
Đương qui 35g (rửa rượu)
Thục địa 18g
Bạch truật 12g (sao hoàng thổ)
Bạch thược 12g (rửa rượu)
Mạch môn đông 12g(khứ tâm)
Phục kinh 08g
Sa nhân nhục 04 (sao, giã nát)
Tử tô tử 04g (sao, giã nát)
Thần khúc 04g (sao)
Trần bì 02g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang bệnh đã nhẹ, uống 2 thang ổn định, uống 3 thang bệnh khởi hoàn toàn.
Phương thuốc này bình Can để Can khí không nghịch lên, bổ Thận để giúp Can huyết đầy mà hết khô. Phàm những chứng “ố trở” trong khi mang thai đều nên dùng thang thuận Can ích Khí này mà uống, rất hay, ai uống cũng khỏi cả. Công hiệu của nó còn hay hơn thang “Tứ vật”.
NHÂM THẦN KHẨU CAN YẾT THỐNG
(Có thai khô miệng, đau cuống họng)
Khi mang thai 3-4 tháng, đàn bà có người tự nhiên thấy miệng lưỡi khô nháp, cổ họng đau, không có chút nước bọt để thấm nhuận trong khi cái thai lại chuyển động không yên. Nếu nặng hơn, âm đạo còn ra huyết như hành kinh. Có người cho là “Hỏa động” chứ ai biết do “Thủy suy”.
Phải biết rằng bào thai nào cũng từ “tinh và huyết” cha mẹ kết hợp lại mà thành nhưng nếu không nhờ “Thận thủy” chăm bón đầy đủ thì cái thai sẽ động. Có người hỏi “Thận thủy làm sao động được thai?” Bởi vì Thận có “Thận hỏa” và “Thận thủy”. Một khi Thận thủy bất túc thì “Thận hỏa” sẽ hữu dư, vương lên làm thai động. Muốn thai yên tất phải bổ “Thủy” để chế ngay nước cam lồ kềm chân “Hỏa” cho nên cần bổ “Phế kim” trước (“Kim” sinh “Thủy”, quan hệ mẫu tử). Khi “Kim” sinh “Thuỷ” thì để đè nén cáo “Hỏa” xuống, lại còn gia chút ít dược phẩm thanh nhiệt thì cái thai không có lý gì mà không yên. Phương thuốc này có tên: “NHUẬN TÁO AN THAI THANG”.
Thục địa 30g
Sơn thù nhục 18g
Mạch môn đông 18g
Sinh địa 12g
Ngũ vị tử 08g
A giao (sao chín) 08g
Hoàng cầm 08 (tẩm rượu, sao)
Ích mẫu thảo 08g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang dứt bệnh nóng ráo. Uống 4 thang cái thai yên, uống liên tiếp 10 thang cái thai yên định như bàn thạch.
Phương thuốc này chuyên điều bổ phần chân tinh cho Thận kiêm bổ cả Phế. Như đã nói, bổ Phế cũng là nhằm bổ Thận thủy để chế Hỏa, giúp thai yên.
NHÂM THẦN THỔ TẢ PHÚC THỐNG
(Khi mang thai, đau bụng vừa thổ vừa tả)
Đàn bà có người khi mang thai bị đau bụng dữ dội lại còn ói mửa và ỉa chảy làm cho cái thai máy động không yên. Nhiều người cho là “nhiệt”nhưng không biết do “Tỳ vị hư hàn thái quá”.
Phải biết rằng nguyên khí ở Tỳ vị mà hư suy thì bào thai vô cực, có thể xảy ra bằng huyết và hư thai. Lại còn trên “thổ” (ói mửa), dưới “tả” (lỏng lỵ), thì cái khí Tỳ vị càng hư thêm. Lẽ ra, khi Tỳ vị cực hư, bào thai khó mà giữ được nhưng nhờ Thận mạnh nên thai chưa đến nỗi trụy hạ. Tại sao? Bởi vì giây bào thai, dưới buộc chặt vào Thận khí, trên thì thông với mạch Tím; hễ Thận mạnh thì dù bị chứng “thổ tả” cũng không hại được bào thai. Vả chẳng, Thận khí kiên cố thì Thận át đem “Thiếu hỏa” của mình, mà sinh trưởng cho Tỳ. Còn Tâm khí thư thái thì Tâm ắt đem “Quân hỏa” của mình viện trợ cho Vị. Do đó, Tỳ Vị tuy có bị hư nhưng chưa đến nổi tuyệt làm ảnh hưởng đến thai nhi.
Vậy muốn giữ vững bào thai tất phải bổ Tỳ Vị. Nhưng nếu chỉ bổ Tỳ Vị không thôi thì cũng chậm phần sinh trưởng, cho nên cần bổ thêm hỏa cho Tâm và Thận (vì Hỏa sinh Thổ) thì cả hai cùng vượng mà bảo vệ bào thai. Phương thuốc này dùng “VIÊN THỔ CỐ THAI THANG” với công thức như sau:
Nhân sâm 35g
Bạch truật 70g (sao hoàng thổ)
Hoài sơn 35g (sao)
Sơn thù nhục 35g (sao chín)
Câu kỷ tử 12g
Thổ ty tử 12g (tẩm rượu, sao)
Đỗ trọng 12g (sao đen)
Tục đoạn 12g
Chích cam thảo 03g
Sa nhân 02g (sao, giã nát)
Chế phụ tử 02g
Nhục quế 02g (cạo bỏ vỏ thô, giả nát).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống hết 1 thang dứt chứng di tả, uống 2 thang các bệnh tiêu trừ hết cả.
- Bàn luận: Phương thuốc này nhằm cứu Tỳ Vị thổ 8/1, trợ Tâm Thận hỏa 2/10 là bởi Tỳ Vị thổ muốn tuyệt nên phải cứu trước. Và lại, người mang thai tuyệt đối cấm dùng Phụ tử, Nhục quế vò sợ hại cho bào thai. Ở đây, vạn bất đắc dĩ phải dùng Quế, Phụ, nhưng chỉ dùng giới hạn rất ít là để dẫn Hỏa chứ không nhằm tráng Hỏa nên không hại gì. Nếu như đoán lầm là “thai nhiệt” mà dùng Hoàng cầm để thanh nhiệt làm mát thai là lầm lẫn rất lớn.
NHÂM THẦN THIẾU PHÚC THỐNG
(Khi mang thai đau vùng bụng dưới)
Khi mang thai bỗng thấy đau vùng bụng dưới, làm cho cái thai bị động và muốn trụy hạ (đẻ non, hư thai). Người ta cho là “mạch Đái vô lực” chứ không biết rằng do cả hai tạng “Tỳ Thận đều khuy tổn”.
Đành rằng bào thai buộc chặt vào mạch Đái nhưng mạch Đái có quan hệ mật thiết với Tỳ và Thận. Một khi Tỳ Thận khuy tổn thì bào thai không biết nhờ vào đâu để bảo toàn sinh lực. Phải biết rằng Thận là gốc ở Tiên Thiên, Tỳ là gốc ở Hậu Thiên; dẫu khác xa vị trí và chức năng nhưng Tỳ không có cái “Khí” của “Tiên Thiên Thận” Thì Tỳ không thể hóa, còn Thận mà không có cái “Khí” của “Hậu Thiên Tỳ” thì Thận cũng không thể sanh. Vậy, muốn bổ cả Tiên Thiên Thận lẫn Hậu Thiên Tỳ, không có phương thuốc nào hay hơn bài “AN ĐIỆN NHỊ THIÊN THANG”.
Nhân sâm 35g
Bạch truật 35g (sao hoàng thổ)
Thục địa 35g
Bạch biển đậu 18g (sao, bỏ vỏ, giã đập)
Hoài sơn 18g (sao)
Sơn thù nhục 18g (sao chín)
Đỗ trọng 12g (sao đen)
Câu kỷ tử 08g
Chích cam thảo 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang hết đau bụng, uống 2 thang cái thai yên.
- Bàn luận: Phần lớn chứng động thai xảy ra do Tỳ và Thận bị khuy tổn. Nếu không bội dụng Sâm, Truật, Thục địa là thuốc chuyên bổ âm đương thì khó vãn hồi sự yên ổn cho bài thai. Có người sợ dùng Sâm, Truật và nếu có dùng thì cũng chỉ đùng ít rồi chờ đợi thời gian để thu công thì thật khó mà toại nguyện. Phương thuốc này hay chính ở chỗ dám xài Sâm, Truật mà lại xài nhiều.
NHÂN THẦN PHÙ THŨNG
(Khi mang thai phát phù thũng)
Phụ nữ mang thai khoảng 4-5 tháng bỗng thấy tay chân, cơ thể nhức mỏi, ăn uống không biết ngon. Tiếp theo sau là hai chân sưng phù rồi dần đần phù lên cả đầu mặt và toàn thân. Người ta cho là “Thấp khí” nhưng ít ai biết do “Tỳ khí” và “Phế khí” lưỡng hư.
Phải biết rằng trong khi mang thai phải chú trọng đến việc kiện Tỳ bổ Phế làm căn bản. Bởi vì bào thai không có “Khí” thì không sinh, không có “Huyết” thì không thành, mà Tỳ là đầu mối của huyết. Tỳ khỏe thì huyết vượng mà bảo dưỡng cái thai. Phế chủ về “Khí”. Phế thịnh thì “Khí” vượng mà bổ ích cho con (Tỳ). Một khi Phế Tỳ có bệnh, không làm việc, sẽ làm ăn uống khó tiêu, tinh chất ăn vào không vận hóa hết thì tụ lại thành “Thấp” mà sinh chứng trũng trướng.
Pháp trị hay nhất là bổ Tỳ huyết và Phế khí, không cần thứ Thấp mà Thấp tự nhiên trừ được. Phương thuốc này có tên là “GIA GIẢM BỔ TRUNG ÍCH KHÍ THANG”
Phục linh 35g
Nhân sâm 18g
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Sinh Hoàng kỳ 12g
Đương qui 12g (rửa rượu)
Sài hồ 04g
Cam thảo 01g
Thăng ma 01g
Trần bì 01g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 4 thang khỏi bệnh, 10 thang không tái phát.
- Bàn luận: Bậc thánh y lập ra phương “Bổ trung ích khí” là nhằm thăng đề cái khí của Tỳ Phế nhưng chẳng lẽ chỉ chuyên bổ khí thôi sao? Không phải vậy, “huyết không có khí thì không sinh”, cho nên bổ khí mới sinh huyết. Kìa xem bài “Đương qui bổ huyết thang” lấy vị Hoàng kỳ làm “Quân” thì đủ biết cái công hiệu “bổ khí để sinh huyết” là gì.
Bệnh phù thũng trong khi mang thai là Thấp khí nhân lúc Tỳ Phế hư mà xâm lấn. Nếu dùng phương đại bổ huyết ngay thì ngu vì “âm” đang tháng thế (như nước đã đầy mà còn chế nước vào). Cho nên dùng dược phẩm bổ khí thêm chút ít thuốc lợi Thấp thì thăng đề mà Thấp thủy cũng dễ tiêu tan, tức khắc huyết theo đó mà sinh ra.
Trong phương thang này trọng dụng Phục linh tới 35g là lấy lợi Thấp làm chủ vị. Hơn nữa, dùng Phục linh trong thuốc bổ khí, tuy nói là thấm Thấp nhưng kỳ thực là để kiện Tỳ thanh Phế. Cần nhớ rằng các thuốc khá dùng trị Thấp phần nhiều bị háo khí, chỉ có Phục linh thì không, lại còn hợp dụng với Sâm, Truật để trị Thấp thì rất tuyệt, vì phân bổ nhiều hơn phần thấm lợi.
Cho nên, trọng dụng Phục linh để trị Thấp tức là để bổ khí vậy.
NHÂM THẦN, YÊU PHÚC ĐÔNG,
HÃN, KHÁT, TÁO CUỒNG
(Khi mang thai vừa đau bụng, đau lưng, ra mồ hôi, khát nước, nóng uất phát cuồng)
Trong khi mang thai có người ra mồ hôi nhiều, khát nước muốn uống rất nhiều nước lạnh, trong nội tạng lại uất nóng muốn phát cuồng, đau bụng, đau lưng còn bào thai thì như muốn trụt ra. Người ta cho là “hỏa cực thịnh” nhưng không biết “Hỏa” ở kinh nào dấy lên. Đó là “Vị hỏa” đang đốt cháy, nung nấu nước ở bào thai làm cho khô cạn khiến thai mất phần dinh dưỡng, cho nên thai động không yên.
Ôi! Vị là bể chứa cơm nước, là kinh có nhiều khí, nhiều huyết để phân bố khắp ngũ tạng lục phủ, giống như vạn vật đều nhờ Thổ khí (đất) để sống và tăng trưởng. Thổ khí tốt tươi thì vạn vật sống khỏe, thổ khí khô cằn thì vạn vật èo uột và phải chết. Nhưng Thổ khí tốt là nhờ Hỏa khí trợ lực mà sinh ra. Vị, thuộc Thổ, tiêu hóa được là nhờ Hỏa khí mà biến thành chất tinh ba, bổ dưỡng.
Nói rằng Thổ phải nhờ có Hỏa, nhưng nay Vị Hỏa thịnh quá nung đốt Thận Thủy làm cho Thận thủy khô kiệt di hại đến sức khỏe thì tính sao đây? Nội Kinh nói: “Nhị Dương chỉ bệnh phát Tâm Tỳ”, nghĩa là hai kinh Dương có bệnh là do Tâm hỏa và Tỳ thổ phát ra. “Nhị Dương” kinh chỉ “Thủ dương minh Đại trường” và “Túc dương minh Vị”. Tuy nhiên, nghĩa lý của câu này chỉ nói đến Vị kinh, không liên can gì tới Đại trường kinh.
Phép trị ắt phải “thêm nước, bớt lửa” để cho chân Thủy được vượng thì cái thế “mãnh Hỏa” tự nhiên bình hòa. Một khi Hỏa đã bình thì chứng cuồng táo cũng tự nhiên yên định. Phương thuốc này có tên là “TÚC PHÂN AN THAI THANG”
Sinh địa 35g (tẩm rượu, sao)
Thanh hao 18g (dùng lá, hoa 1 thứ thôi)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Phục linh 12g
Nhân sâm 12g
Trị mẫu 12g (cạo sạch lông)
Thiên hoa phấn 12g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang bệnh cuồng yên tĩnh. Uống 3 thang chứng Hỏa vượng tiêu tan mà cái thai cũng yên bình như bàn thạch.
Bàn luận: Dược liệu trong phương thang này có phần nặng, người ta cho là mạnh quá không dám dùng nhiều. Chẳng biết rằng trong khi mang thai mà gặp Hỏa cực vượng, nếu không dùng đại tễ để “chữa lửa” thì làm sao dập tắt được đám cháy? Nếu Hỏa không lui thì bệnh cuồng không hết, mà bệnh cuồng không hết thì cái thai làm sao yên? Và chăng, trong phương thuốc này toàn những vị “thâm nước”, thuần tính chất “cam hàn” (ngọt lạnh), không có tính “khổ hàn” (đắng lạnh) thì không phải lo bị phản ứng phụ.
NHÂN THẦN TỬ HUYỀN, HIẾP THỐNG
(Khi mang thai, cái thai găng tức làm đau hai bên hông)
Trong khi mang thai, có người vẫn ấp ủ trong lòng sự phẫn nộ, bội bực làm cho cái thai bị động chòi đạp không yên, hai bên hông cảm thấy căng tức đau nhức như dây cung kéo thẳng. Người ta cho bệnh “Tử huyền” (cái thai găng cứng), mà chẳng biết rằng đó là do “Can khí uất bất thông”.
Phải biết rằng việc nuôi thai rất cần sự chăm lo của Thận thủy nhưng Thận thủy mà thiếu Can huyết tương trợ thì cô độc, khó phần chống đỡ. Như vậy, việc nuôi thai ắt phải có cả hai nhân tố Can huyết hợp lực với Thận thủy. Nay Can khí bị uất nhiệt bế tắc thì Can huyết thiếu thốn ít đi, khiến cho bào thai mất phần tưới bón nên mới nhoi lên, làm găng tức hau bên hông. Đó là vị “uất khí”, chớ vội lầm là do bào thai nó nhoi lên rồi dùng những dược phẩm “thanh tiết” cho cái thai, không đúng đâu.
Phép trị phải cởi mở cái “uất kết” cho Can khí, thanh bổ cái “táo nhiệt” cho can huyết thì chứng “Tử huyền” tự nhiên yên định. Hãy dùng phương “GIẢI UẤT THANG” sau đây:
Bạch thược 35g (tẩm rượu, sao)
Đường qui thân 35g (rửa rượu)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Phục kinh 12g
Sơn chi tử 12g (sao, giã nát)
Bạc hà diệp 08g (bỏ vô sau)
Nhân sâm 04g
Chỉ xác 02g (sao)
Sa nhân nhục 02g (giã nát).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang, chứng tức giận giải trừ. Uống 2 thang chứng “Tử huyền” yên tĩnh. Uống 3 thang mọi chuyện bình hòa. Sau đó, bỏ vị Sơn chi tử, nấu uống thêm mấy thang nữa thì bệnh không còn tái phát.
Bàn luận: Đây là thánh được để trị chứng Can khí uất. Một khi Can khí đã bình, Can uất đã giải thì “Can mộc” không còn khắc “Tỳ thổ” nữa (Can khắc Mộc) thì Tâm hỏa hết vọng động. Trong phương dược này còn có thêm thuốc kiện Tỳ, khai Vị để giúp cho ăn uống được. Từ đó không còn phải lo Tỳ Thận bị khô ráo hay sợ bệnh “Tử huyền” quấy nhiễu.
NHÂM THẦN TỬ MINH, YÊU THỐNG
(Khi mang thai, con trong bụng khóc, lưng đau)
Khi mang thai đã được 7-8 tháng, bỗng nhiên đứa trẻ trong bụng khóc mà sau thắt lưng cứ đau râm ran. Người ta cho rằng do “thai nhiệt”, nào ai biết đó là do “Phế khí hư” (thiếu hơi thở).
Ôi! Đứa trẻ trong bào thai hoàn toàn nhờ vào hơi thở của mẹ để mà hóa sinh, hễ mẹ thở ra thì con cũng thở ra, mẹ hít vào thì con cũng hít vào, chưa từng có một hơi thở nào mà mẹ với con tách biệt hay gián đoạn. Nay đến thời kỳ thai nhi được 7-8 tháng mà hơi thở của mẹ bỗng hụt hẫng khiến cho đứa trẻ đang mạnh trở nên yếu mệt theo thì tất nhiên phải bức bách, khocs lên trong bụng. Bệnh này gọi là “Tử minh” do khí hư (con khóc trong bụng vì thiếu hơi thở)
Phép trị nên đại bổ khí cho mẹ tức là thêm khí cho con. Một khi hơi thở của mẹ với con hòa nhịp thì bệnh “Tử minh” không còn nữa. Phương thuốc này dùng “PHÙ KHÍ CHỈ ĐỀ THANG” theo công thức sau đây:
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng kỳ 35g
Mạch môn đông 35g ( khử tâm)
Đương qui 18g (rửa rượu)
Thiên hoa phấn 04g
Cam thảo 04g
Quất hồng bì 02g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang ngưng tiếng khóc. Uống 2 thang mọi chuyện ổn định.
Bàn luận: Phương thuốc này dùng Sâm, Kỳ, Mạch môn là để bổ Phế khí. Một khi Phế khí vượng thì khí ở bào thai cũng vượng theo. Đó là ý nghĩa “bổ mẫu” để “cứu tử” vậy.
NHÂM THẦN TIỂU TIỆN HẠ HUYẾT,
TỨC DANH THAI LẬU
(Khi mang thai đi tiểu ra máu, tức chứng Thai lậu)
Khi mang thai không thấy dấu hiệu thai động, bụng không đau, thế mà lại thấy ra máu ra theo đường tiểu. Người ta bảo là “huyết hư, thai lậu” nhưng không biết rằng do “dương khí bất túc” làm ảnh hương đến kinh mạch nên huyết chảy ra.
Ôi! Huyết để mát thai những huyết trong thai phải nhờ có khí bảo vệ. Nếu khí đã hư thì huyết mất nơi nương tựa trở thành táo cấp, sinh ra nhiệt tà. Khí hư bị hãm lại không đi lên được tất phải đi xuống. Khí đi xuống thì huyết cũng bị kéo theo đi xuống cho nên máu chảy ra theo đường tiểu.
Phép trị nên “bổ cái huyết bất túc” mà “tả cái hỏa hữu dư” thì huyết tự nhiên đình chỉ. Phương thuốc này có tên là “TRỢ KHÍ BỔ LẬU THANG”:
Nhân sâm 35g
Bạch thược 18g (sao rượu)
Sinh địa 12g (tẩm rượu, sao)
Hoàng cầm 12g (tẩm rượu, sao đen)
Tục đoạn 08g
Ích mẫu thảo 04g
Cam thảo 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang, huyết ngưng. Uống 2 thang, bệnh thai lậu không còn tái phát.
Bàn luận: Phương thuốc này dùng Nhân sâm để bổ dương khí. Khí vượng thì huyết không còn chảy cần. Dùng Hoàng cầm là để tiết “Âm hỏa”, hỏa tiết đi thì nhiệt huyết yên ổn, không còn cái cớ bị bức bách để manh động. Khí và Huyết đã hòa hiệp thì Huyết qui kinh, lấy gì để mà tiết lậu nữa!
NHÂM THẦN ĐIỆT TỔN
(Khi mang thai té ngã bị thương)
Khi mang thai có người lỡ chân té ngã làm thương bào thau rồi chuyển đau trong bụng, tình thế cái thai như muốn trụt ra. Người ta cho là bệnh “ngoại thương” nhưng không biết rằng đó là bệnh “nội thương”.
Nói chung, người mang thai khỏe mạnh thì thai nhi cũng khỏe mạnh, dẫu có té ngã mà chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm thì chắc bào thai vẫn được vô sự. Nay chỉ vì té ngã mà thai không yên, phải nghĩ đến nguyên nhân do khí huyết suy yếu trước rồi. Đừng cho là bệnh ngoại thương rồi dùng thuật trật đả xoa bóp, nắn bó, chẳng những không công hiệu mà còn có thể làm hư thai.
Phép trị chỉ nên đại bổ khí huyết, trong đó phần bổ huyết nhiều hơn phần bổ khí, lại thêm một chút được vị hành huyết để tán cái ứ huyết là đủ. Phương thang này gọi là “CỨU TỔN AN THAI THANG”.
Đương qui 35g (tẩm rượu, sao)
Sinh địa 35g (tẩm rượu, sao)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Bạch thược 12g (sao rượu)
Tô mộc 12g (chè nhỏ)
Cam thảo 04g
Nhân sâm 04g
Nhũ hương 04g
Một dược 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang hết đau nhức. Uống 2 thang cái yên, không còn dấu hiệu trụy hạ, bất tất phải uống tới 3 thang.
Bàn luận: Phương thuốc này rất thần hiệu ở chỗ vừa đánh tan được ở huyết mà không làm hại tới bào thai, bổ khí bổ huyết mà không bị ngưng trệ, khí huyết luân chuyển hài hòa. Nói chung, bài thuốc này dùng cho người không có thai mà té ngã bị thương đau nhức, vẫn hay lắm.
NHÂM THẦN ĐA NỘ, ĐỌA THAI
(Khi mang thai tức giận quá, hư thai)
Đàn bà mang thai, bất luận là thai mới vừa tượng hình hay thai đã lớn, mà hay hư thai là do “Can khí uất kết”. Có người bào là “khí huyết suy yếu quá” nhưng không biết rằng vì “tính nóng nảy, hay tức giận” làm cho can hỏa động quá mức mà bức hại cái thai.
Ôi! Can vốn tàng huyết, tuy thuộc Mộc, nhưng Can lại giữ chức vị “Tướng hỏa” nên rất hay manh động. Vừa tàng huyết lại vừa có tính nóng nên thường xâm phạm đến tinh khí của bào thai. Một khi tinh khí bị tổn thương, mất khả năng nuôi dưỡng bào thai thì chỗ dựa không còn, bào thai phải trụy hạ là điều đương nhiên. Đúng như Nội Kinh nói: “Tráng hỏa thực khí”, nghĩa là “Hỏa” mạnh quá thì làm tiêu tán cái khí.
Phép trị nên “bình Can hỏa”, hoại lợi cho cái khí ở lưng, rốn, để khí sinh ra huyết rồi dùng huyết tưới mát cho hỏa thì tự nhiên cái thai được yên. Phương thuốc này gọi là “LỢI KHÍ TIẾT HỎA PHƯƠNG”.
Bạch truật 35g (sao hoàng thổ)
Lão thục địa 18g (chọn thứ nấu kỹ)
Bạch thược 18g (sao rượu)
Nhân sâm 12g
Khiếm thực 12g (sao)
Đương qui 12g (rửa rượu)
Hoàng cầm 08g (tẩm rượu, sao)
Cam thảo 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền 6-7 thang là cái thai được yên ổn.
Bàn luận: Phương thuốc này mang danh là lợi khí mà thực là nhằm bổ khí. Nhưng bổ khí mà thiếu phần tiết hỏa thì hỏa không thể bình, thành ra hại khí. Vì vậy mới gia thêm Hoàng cầm ở trong thuốc bổ khí để tiết hỏa. Lại có Thục địa, Đương qui, Bạch thược là thuốc mát gan, làm mạnh chân Thủy. thế thì huyết không khô ráo mà khí được điều hòa, nóng giận tiêu tan, hỏa tự nhiên bình, không phải lợi khí mà khí tự lợi, vậy mới hay.
NHÂM THẦN TRÚNG ÁC KHÍ, THAI ĐỘNG
(Khi mang thai trúng ác khí làm động thai)
Đàn bà trong lúc mang thai hay khạc nhổ nhiều đàm rồi bỗng gặp phải luồng khí lạnh hay luồng hơi uế tạp nồng nặc làm cho đau bụng và cái thai cứ chòi đạp không yên. Người ta cho là bệnh “Tử huyền” nhưng ít ai biết đó là chứng “trúng khí độc” khiến cho thai động không yên.
Phàm trong thiên nhiên có nhiều loại khí, có thứ tốt gọi là “thanh khí”, có thứ xấu gọi là “tà khí”. Nếu gặp tà khí, thai dễ bị cảm nhiễm. Cho nên, đàn bà có thai nên xa lánh những nơi hang động, đền đài hoang phế, miếu cổ, thung lũng u tịch hoặc vào những chỗ đông người, đền chùa có thắp nhiều hương khói, đèn nhang. Vả chăng, người có thai thường hay lắm đàm dãi khiến cho đầu mặt dễ bị xâm xoàng, thậm chí nhìn không thật, nói không đúng. Cổ ngữ có câu: “Quái bệnh đa sinh ư đàm”, nghĩa là những bệnh kỳ quái sinh ra phần nhiều do đàm. Thật là chí lý!.
Phép trị, theo lẽ tự nhiên phải chủ tâm vào chuyện “khứ đàm”, nhưng trị đàm nhiều tất phải háo khí. Khí mà hư thì đàm càng khó tiêu, cái thai càng máy động. Vậy phải bổ khí để sinh huyết, nhờ huyết để hóa đàm, trong đó gia thêm chút ít được vị để thanh đàm nữa thì khí đầy đủ mà đàm cũng tiêu hóa đi. Phương thuốc này gọi là “TIỂU ÁC AN THAI THANG”.
Đương qui 25g (rửa rượu)
Bạch thược 35g (sao rượu)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Phục kinh 18g
Nhân sâm 12g
Thiên hoa phấn 12g
Cam thảo 04g
Tô diệp 04g
Trầm hương 04g
Trần bì 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bàn luận: Phương thuốc này chỉ nhằm đại bổ khí huyết, nghĩa là cứ “bổ chính” thì tự nhiên “khu tà”. Nếu dùng loại kim thạch để khử đàm mau chóng thì càng làm cho chính khí hao tổn. Làm nghề y phải cẩn thận lắm mới được.
TIỂU SẢN (Sanh thiếu tháng, đẻ non)
Phụ nữ mang thai, có người sợ lạnh hoặc do lạnh tác động mạnh làm đau bụng rồi hư thai, đẻ non. Người ta bảo là “hạ bộ hàn lãnh quá” chứ không mấy ai biết đó là vì “chân khí hư” mà không giữ được bào thai.
Ôi! Bào thai hình thành được là nhờ có chân hỏa, tức chân khí của “Tiên thiên”. Nhờ khí mà thành thai, mà giữ được thai cũng nhờ có khí. Hễ khí vượng thì thai khỏe mạnh, khí suy thì thai hư. Nếu như thai mỗi ngày một lớn còn khí mỗi ngày một yếu kém, lại còn bị gió lạnh bên ngoài xâm nhập vào, thì hỏa khí bên trong càng suy yếu hơn. Hỏa khí đã suy yếu thì cái thai mất chỗ nương tựa, trưởng dưỡng, cho nên phần đông bị hư và đẻ non.
Ngay lúc đau bụng đang xảy ra, hãy cấp thời dùng Nhân sâm, Can khương để vừa bổ khí vừa khử hàn thì hết đau bụng, thai yên. Đừng câu nệ rằng người có thai thường cấm dùng những loại thuốc đó để đến nỗi hư thai, cứu vẫn không kịp. Phương thuốc này có tên là “HOÀNG KỲ BỔ KHÍ THANG”.
Sinh Hoàng kỳ 70g
Đương qui 35g (rửa rượu)
Nhục quế 02g (cạo bỏ vỏ thô, giã đập).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền 4 thang, bào thai yên định.
Bệnh này nếu nhận định là “Hàn” rồi dùng những dược vị cay nóng, khô táo, hoàn toàn không nghĩ tới bổ khi bổ huyết thì e rằng dẫn tới vong Dương, biến ra nguy chứng.
ĐẠI TIỆN CAN KẾT, TIỂU SẢN (Táo bón, đẻ non)
Đàn bà mang thai có người trong mình nóng như lửa, miệng khát nước, buồn bực, lưỡi lở loét, môi nứt nẻ, táo bón nhiều ngày không đi tiêu được rồi bỗng sau đó đau bụng đẻ non. Người ta bảo do “thực hỏa ở đại trường” chứ không biết rằng do “huyết nhiệt” làm hủy hoại cái thai.
Ôi! Thai vốn nhờ huyết để trưởng dưỡng, huyết ôn hòa thì thai lớn mạnh, còn huyết nóng quá thì bị hao mòn. Nếu âm huyết mà hư tức là trong huyết có hỏa, còn dương khí hư tức là dương khí sinh hỏa nhiệt. Dương hỏa và Âm hỏa, hai cái hỏa hiệp nhau, nung đốt thì bào thai bị bức bách, dù cố gắng nằm yên không muốn trụy hạ cũng không được.
Phép trị nên vừa “thanh” cái hỏa trong bào thai vừa bổ thủy bổ tinh cho Thận thì mọi chuyện sẽ yên. Phương thuốc này có tên là “GIA GIẢM TỨ VẬT THANG”.
Dương qui 35g (tẩm rượu, sao)
Thục địa 18g
Sinh Bạch thược 12g
Hoài sơn 12g (sao)
Mẫu đơn bì 12g
Sơn thù nhục 08g (sao chín)
Sơn chi tử 04g (sao, giã nát)
Xuyên khung 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống được 4-5 thang khỏi hoàn toàn.
Bàn luận: Hỏa ở đây là “hư hỏa” chứ không phải “thực hỏa”, vì thế nên “thanh” chứ không nên tả “tả”; vả lại “thanh” hỏa trong phần thuốc bổ thì không làm cho hỏa gia tăng mà còn giúp cho đường đại tiện thêm thông lợi. quả là một bài thuốc hay.
ĐẠI NỘ, TIỂU SẢN (Giận quá đẻ non)
Đàn bà mang thai, có người sau cơn tức giận cực điểm, hốt nhiên đau bụng thổ ra huyết rồi đẻ non hay hư thai. Sau khi hư thai rồi vẫn đau bụng liên miên không dứt. Người ta cho là vì “hỏa cường nộ chưa lui” chứ ai biết rằng do “huyết không qui kính” mà ra.
Ôi! Chức năng của Can là tàng huyết, mà huyết thuộc âm, trong khi tính của Can lại rất cấp táo. Khi nóng giận lên, huyết không thể chứa ở đây bào thai để thông với Tâm Thận khiến cho bào thai mất nguồn nuôi dưỡng của Thủy Hỏa (Thận thủy và Tâm hỏa), bốc chạy càn lên trên gây chứng thổ huyết đằng miệng, bởi thế mới hư thai, đẻ non.
Còn như thai hư mà vẫn đau bụng là vì mất sự trở lực của Tâm Thận rồi, Can khí có muốn về với Tân thì Tâm cũng không cho, về với Thận thì Thận cũng không nhận; vì thế huyết động không yên nên chứng đau bụng kéo dài.
Phép trị nên dẫn cả “Can khí” lẫn “Can huyết” cùng về với Can, bởi vì chỉ dẫn Can huyết mà quên Can khí thì khí nghịch lên làm sao can huyết trở về một mình được. Phương thuốc này mang tên “DẪN KHÍ QUI HUYẾT THANG”.
Bạch thược 18g (tẩm rượu, sao)
Đương qui 18g (rửa rượu)
Bạch truật 12g (sao hoàng thổ)
Mẫu đơn bì 12g
Hắc kinh giới 12g
Mạch môn đông 12g
Cam thảo 12g
Cam thảo 04g
Uất kim 04g (tẩm giấm, sao)
Hương phụ 02g
Thán khương 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Phương thuốc này tiếng là để dẫn khí mà thực ra để dẫn huyết. Dẫn huyết cũng là dẫn khí. Khí về với Can, huyết cũng về với Can thì mọi chuyện yên lành.
ĐIỆT SIỂM , TIỂU SẢN (Té ngã, đẻ non)
Đàn bà mang thai có người lỡ chân trợt té làm ảnh hướng đến bào thai rồi sẩy thai, đẻ non và huyết cứ chảy ra những hòn cục tim tím, đầu mặt quay cuồng choáng váng muốn đứt hơi thở. Người ta bảo là do “huyết ứ gây bệnh” chứ có ai biết rằng bởi “huyết thất” (ổ máu) bị thương tổn.
Nên nhớ, huyết thất với bào thai có liên quan với nhau. Té ngã làm đau bào thai tức là làm đau cả huyết thất. Khi bào thai đau mà ra huyết thì đau ít, huyết thất đau mà ra huyết thì đau nhiều. Đau ít thì chỉ đau ở bụng, đau nhiều có thể xung lên tới Tim. Tuy cùng một sự tổn thương nhưng chưa bị tiểu sản hoặc tiểu sản rồi thì cách trị bệnh rất khác nhau.
- Té ngã nhưng cái thai chưa bị tổn thương nặng lắm, chỉ máy động không yên, thì hãy lưu tâm vào chữa trị cái thai, đừng dùng thuốc “khứ huyết” có thể làm hại đến bào thai.
- Té ngã mà bị tiểu sản, tức là cái thai đã trụt ra rồi và huyết cũng đã bị hao tổn nhiều rồi, thì nên tìm cách “tán ứ huyết”, chớ có nặng về phần “phạt khí”. Bởi chẳng biết, khi cái thai bị hư và trụt ra, huyết thoát theo làm cho ổ máu (huyết thất) trống rỗng, chỉ còn lại chân khí mà thôi. Nếu dùng thuốc bừa bãi làm hại chân khí nữa thì bà mẹ thật khó bảo toàn tính mạng.
Phép trị phải bổ khí để sinh huyết. Một khi huyết mới sinh ra thì huyết ứ tự nhiên tiêu tan, không cần “khứ huyết” làm gì. Phương thuốc này gọi là “LÝ KHÍ TÁN Ứ THANG”.
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng Kỳ 35g
Đương qui 18g (rửa rượu)
Mẫu đơn bì 12g
Phục linh 06g
Hồng hoa 04g
Thán khương 02g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang chỉ huyết, uống 2 thang hết cái chứng quay cuồng chóng mặt, uống 3 thang hoàn toàn yên định.
Bàn luận: Phương thuốc này dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ để bổ khí. Khí vượng thì huyết có thể thu nhiếp (ngưng chảy). Dùng Đương qui, Mẫu đơn bì để sanh huyết. Huyết mới sinh ra thì ứ huyết khó mà tồn tại. Dùng Hồng hoa, Thán khương (gừng khô sao đen) để hoạt huyết. Huyết lưu hành thì chứng chóng mặt quay cuồng phải yêu; lại thêm Phục linh để lợi thủy. Thủy mà lợi thì huyết tự nhiên trở về với kinh của nó.
HÀNH PHÒNG TIỂU SẢN (Giao hợp, đẻ non)
Đàn bà mang thai, nhất là những tháng đầu tiên, nếu tử cung không đủ sức bảo vệ bào thai thì thường xảy ra “tiểu sản” (đẻ non, hư thai) và còn bị băng huyết không ngừng. Người ta cho là “hỏa động cực độ” chứ không biết rằng do “khí thoát”.
Nói chung , người đàn bà có thai và trưởng dưỡng được là nhờ Thận thủy tưới mát không ngừng. Nếu nguồn sống từ Thận thủy bị gián đoạn hay thiếu thốn thì Tướng hỏa sẽ sôi sục lên. Một khi “Hỏa” bốc mà còn ham phòng dục thì hỏa động lên rồi tinh tiết ra làm cho Thận thủy khô cạn. Thận thủy cạn kiệt thì Tướng hỏa càng bốc như con ngựa lồng. Thế là Thủy Hỏa giao tranh, bào thai không còn chỗ nương tựa nên phải trụt ra, tức là đẻ non hay hư thai. Nhưng khi thai đã trụt ra rồi mà Hỏa hãy còn làm dữ chưa dập tắt ngay được cho nên huyết theo cái hỏa đó chảy ra thành “băng”, cái thế thật là cấp bách.
Phải biết rằng huyết làm băng gốc bởi khí hư, còn hỏa thịnh là do Thận thủy kém. Như vậy chứng “Hỏa động” làm băng huyết là thuộc “tiêu” (ngọn), còn chứng “Khí thoát” làm hư thai thuộc “bản” (gốc). Nếu điều trị chỉ lo cầm huyết (ngọn) mà không nghĩ tới cố định cho chân khí (gốc) thì khó mà thành công vi khí bị tán không thể thu hồi ngay được. Nếu khi không có cơ thu hồi thì huyết làm sao sanh ra?
Phép trị phải đại bổ khí chăm lo phần gốc. Bổ phần gốc cũng là gián tiếp bổ phần ngọn giúp giải trừ tình trạng Thận thủy khô cạn, giống như việc trồng cây, không ai tưới nước trên lá bao giờ. Phương thuốc này có tên là “CỐ KHÍ ĐIỀN KINH THANG”.
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng kỳ 35g
Thục địa 35g
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Đương qui 18g(rửa rượu)
Tam thất (tán mịn) 12g (hòa nước thuốc uống)
Hắc kinh giới 08g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang huyết chỉ (cầm máu), uống 2 thang cơ thể bình yên, uống 4 thang khỏi bệnh hoàn toàn.
Bàn luận: Phương thuốc này hay ở chỗ không cần “thanh hỏa”, chỉ lo bổ khí và bổ tính, cho nên công hiệu như thần. Dùng những dược phẩm ôn thuật để trị đại nhiệt, người ta sợ là tăng thêm nhiệt, nhưng không biết rằng cái nhiệt này là “hư nhiệt” do khí hư sinh ra, chỉ cần “bổ hư” để “tả hỏa” tức là trị gốc thì bệnh còn chỗ nào thưa hở để mà quấy nhiễu chứ!
HUYẾT HƯ NAN SẢN (Thiếu máu khó sanh)
Đàn bà đến kỳ sinh nở, đau bụng đôi ba ngày mà vẫn chưa sanh con được. Người ta bảo do “khí suy” không rặn nổi nhưng ai biết bởi trong bào thai ít huyết mà huyết lại đặc quánh khiến cho cái thai khó trở mình chui ra.
Ôi! Cái thai lớn lên được là nhờ có tinh khí ở Thận và lục phủ, ngũ tạng, chăm lo. Huyết mà vượng thì dễ sanh, huyết khô thay thiếu thì khó sanh. Cho nên, theo y lý, trước khi sanh nên uống thuốc bổ huyết. Tuy nhiên, cũng theo y lý, nếu bổ huyết mà huyết chưa thể sanh ra kịp trong hồi khẩn cấp thì phải dùng thuốc bổ khí (vì khí sinh huyết). Nhưng nếu chỉ thuần bổ khí thì e rằng khí vượng hơn huyết (dương thịnh hơn âm), tức là “khí hữu dư” còn “huyết bất túc”, ắt sẽ có hại vì lệch cán cân thăng bằng.
Pháp trị nên “khí huyết đồng trị”, bổ cả khí lẫn huyết. Một khi huyết được dồi dào, chân khí sung mãn làm lực thúc đẩy, tất thị đứa bé trong bào thai tự nhiên chuyển mình thoát ra nhanh chóng. Phương thuốc này có tên là “TỐNG TỬ ĐƠN”.
Sinh Hoàng kỳ 35g
Đương qui 35g (rửa rượu)
Mạch môn đông 35g (khứ tâm)
Thục địa 18g
Xuyên khung 12g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang sanh con dễ dàng mà không có cái nạn sanh ngang, đẻ ngược.
Bàn luận: Trong phương này chỉ có Hoàng kỳ là vị thuốc bổ khí, còn những kia đều là thuốc bổ huyết. Huyết vượng thì khí được trưởng dưỡng, khí vượng thì huyết lưu thông được điều hòa. Khí huyết tràn đầy giúp cho thai nhi trơn tru dễ sanh, giống như thuyền ra khỏi bến, có nước đỡ dưới lưng thì thuyền lướt sóng dễ dàng, bằng gặp hồi trước cạn thì dù có dùng nhiều nhân lực cũng khó mà đẩy thuyền ra khỏi vũng lầy.
GIAO CỐ BẤT KHAI, NAN SẢN
(Xương chậu không mở, khó sanh)
Đàn bà có người đến giờ phút sanh con mà xương vẫn còn khép chặt, không mở hết, khiến cho thai nhi xoay đầu ra tới âm môn rồi dừng lại đó, tình thế thật nguy nan. Người ta bảo “bọc nước ối” vỡ trước khiến cho âm môn khô cạn, thai nhi không còn đâu chất trơn ướt để chui ra. Ai biết đó là do “giao cốt bất khai” (xương chậu không mở).
Thông thường, trước khi sanh độ vài tuần lễ, xương chậu của bà mẹ bắt đầu mở rộng dần dần cho tới ngày sanh là mở rộng hết mực. Vì lý do nào đó, như tuổi lớn hay có bệnh, xương chậu mở quá hẹp hoặc không mở ra thì việc sinh con sẽ gặp chướng ngại, sinh tử khôn lường.
Sở dĩ xương chậu mở ra hay khép lại được là nhờ có khí và huyết làm chủ. Nếu huyết vượng mà khí suy thì dù thai nhi có quay đầu xuống, cái cửa giao cốt cũng chẳng mở ra. Khí vượng mà huyết suy thì dù cửa giao cốt có mở ra, thai nhi cũng khó xoay đầu xuống.
Muốn cần có khí để mở giao cốt, cần có huyết để giúp thai nhi trở mình chui ra, ắt phải dùng đến thuốc đại bổ khí huyết, trong đó gia thêm vị thuốc khai cốt là đúng lắm. Như vậy, bất tất phải dùng thuốc “thôi sanh” mà tự nhiên đứa bé cũng sinh nhanh chóng, mẹ con đều được vuông tròn. Phương thuốc này có tên là “GIÁNG TỬ THANG”.
Đương qui 35g
Tạc mộc chi 35g
Nhân sâm 18g
Xuyên khung 18g
Xuyên ngưu tất 12g
Hồng hoa 04 (sao).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống chỉ 1 thang ắt là giao cốt mở ra, nghe răng rắc như tiếng mối gặm gỗ nhưng chẳng đau đớn gì. Thế là đứa trẻ sanh liền.
Bàn luận: Phương này dùng Nhân sâm để bổ khí; Khung, Qui để bổ huyết; Hồng hoa để hoạt huyết; Ngưu tất để dẫn thai nhi xuống âm môn; dùng Tạc mộ chi để mở giao cốt cho rộng cửa. Tuy nhiên, phải chờ khi nào cái thai quay đầu xuống âm môn rồi mới uống thuốc, không nên dùng sớm.
KHÍ NGHỊCH, NAN SẢN(Hơi thở nghịch, khó sanh)
Khi đi sanh, có người chờ chực trên bàn đẻ vài ba ngày mà cái thai vẫn không quay đầu xuống âm môn, uống thuốc “thôi sanh” (thúc đẻ) cũng chẳng thấy công hiệu gì. Người ta cho là “giao cốt” không mở chứ ai biết bởi “khí nghịch” chẳng thuận hành.
Phải biết rằng, nếu do giao cốt không mở thì đầu đứa bé phải nằm tại cửa sản môn mới đúng. Còn như đầu đứa bé chưa xoay đúng chiều, đúng chỗ sản môn, chính do khí nghịch không thuận hành làm cho đứa bé khó xoay mình để sanh ra.
Nói chung, khi đi sanh, chớ vội lên bàn đẻ sớm mà cũng chẳng có gì phải lo toan sợ sệt. Chưa sanh thì chờ đợi với tinh thần bình thản. Nếu sợ hãi thì tinh thần khiếp nhược, mà khiếp nhược thì khí lực đi xuống thay vì phải đi cho đầy trướng. Cái thai xuống được sản môn là nhờ khí đun đẩy, bây giờ vì đầy trướng ngăn lắp đường đi nên khí nghịch, khó lưu hành. Thế là cái thai cũng bị bất động, không xuống được.
Phép trị ắt phải bổ khí, lợi khí. Phương thuốc này gọi là “THƯ KHÍ THANG”.
Nhân sâm 35g
Đương qui 35g (rửa rượu)
Xuyên khung 8g
Bạch thược 18g (rửa rượu)
Tử tô ngạnh 12g
Ngưu tất 12g
Trần bì 04g
Sài hồ 03g
Thông bạc (củ hành) 07 củ.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang, khí nghịch chuyển thành thuận, từu trên chuyển xuống dưới, đứa bé tức khắc sanh ra.
Bàn luận: Phương này dùng thuốc lợi khí mà chính thật là bổ khí. Bởi lẽ khí nghịch là khí hư, mà khí hư là vì sợ hãi. Bổ khí thì sự sợ hãi không còn, khí đi nghịch tự nhiên chuyển xuôi, khi xuôi thì cái thai cũng theo đó mà quay đầu xuống sản môn để chui ra. Chẳng cần thuốc “thôi sanh” hay “khai cốt” chỉ thêm đa sự.
CƯỚC THỦ TIÊN HẠ (Chân, tay ra trước)
Lúc đẻ, có khi đứa bé không sanh thuận chiều, tức là đầu ra trước, mà tay hay chân lại ra trước. Người ta bảo “hoành sanh đảo sản”, tức là sanh ngang đẻ ngược rất nguy khốn, mà không biết cái thuật chuyển nghịch thành thuận, chuyển nguy thành an.
Phải biết rằng, khi còn ở trong bào thai, tay chân đứa bé cuộn tròn như con rắn. Nếu là con trai thì mặt đứa bé hướng về lưng mẹ, chia sương sống ra phía bụng mẹ, cho nên bụng bà mẹ cong tròn mà thon gọn. Nếu thai là con gái thì mặt thai nhi hướng ra phía bụng, còn lương thì áp vào lưng mẹ, cho nên bụng bà mẹ to bè khó coi. Đến ngày tháng sắp sanh, đầu đứa bé tự xoay chiều dần xuống sản môn, đó là điều kỳ diệu của tạo hóa, sức người không thể làm được. Tuy nói thế vẫn phải có sức người tham dự, mà lực chính yếu ấy là khí huyết. Hễ khí huyết thiếu thì sức bà mẹ yếu và cái thai cũng yếu. Cái thai mà yếu thì lấy sức đâu để xoay đầu xuống? Cho nên tới giờ sanh sẽ thấy cái tay hay chân thò ra trước, đó cũng là chuyện thường tình.
Muốn cho thai nhi sanh thuận, cần tinh thần bình tĩnh, chớ náo loạn làm cho bà mẹ sợ hãi. Trước hết, dùng cây kim sát trùng cẩn thận, châm nhẹ vào tay và chân đứa bé. Vì đau, tay chân thai nhi sẽ co lại, rút vào. Liền sau đó cho uống ngay thang thuốc “CHUYỂN THIÊN THANG” để sanh khí huyết, giúp cho sức đun đẩy chuyển nghịch thành thuận, chuyển nguy thành an, lo gì đầu đứa trẻ không xoay đúng sản môn mà chui ra theo lẽ tự nhiên. Bài thuốc “CHUYỂN THIÊN THANG” gồm có các vị:
Nhân sâm 70g
Đương qui 70g (rửa rượu)
Xuyên khung 35g
Xuyên ngưu tất 12g
Thăng ma 03g
Chế Phụ tử 01g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang, đứa bé xoay đầu, lại uống thêm 1 thang nữa tự nhiên xuôi xuống mà sanh ra.
Bàn luận: Phương thuốc này hay ở chỗ dùng Nhân sâm đại tể để bổ khí: Khung, Qui để bổ huyết, điều này ai cũng biết. Nhưng dùng Thăng ma, Ngưu tất thì e rằng nhiều người chưa biết được cái hay đó. Nghĩa là đứa trẻ đang ở tư thế nằm ngang hay nằm nghiêng, nếu không dùng cách nâng bào thai lên thì đầu nó khó xoay; dù có xoay rồi mà không có sức kéo xuôi thì mình đứa bé cũng khó xuống. Bởi vậy, dùng Thăng ma một chút là để nâng thai lên; dùng Ngưu tất để kéo thai xuống; lại dùng Phụ tử là có ý muốn cho tất cả kinh mạch đều thông đạt, khí huyết hưng thịnh sẽ sinh con nhanh chóng.
TỬ TỬ PHÚC TRUNG (Cái thai chết trong bụng)
Đàn bà tới lúc sanh, có người bọc nước ối đã vỡ 6-7 ngày rồi mà vẫn lặng yên không thấy dấu hiệu sanh đẻ chút nào. Người ta cho là chứng “nan sản” (khó sanh) nhưng ai biết “cái thai đã chết trong bụng” từ lâu.
Thấy thuốc giàu kinh nghiệm thì chuyện tiên đoán đứa bé chết trong bụng mẹ hay chết ở sản môn không mấy khó khăn. Có hai điều phân biệt:
- Đứa bé chết ở sản môn thì tất nhiên đầu nó bất động, dù lấy tay sờ nắn cũng chẳng hề phản ứng. Nếu đứa trẻ còn sống, lấy tay giật nhẹ tóc nó hay sờ vào da đầu là nó cựa quậy, thụt vào trong ngay.
- Nếu cái thai đã chết trong bụng mẹ, trước hết không thấy chuyển bụng đẻ, thai lặng yên, sắc mặt bà mẹ vẫn tươi tỉnh. Còn như thai đã chết trong bụng mà sắc mặt bà mẹ ám đen hay thâm đen thì tính mạng bà mẹ cũng đang nguy kịch, e khó cứu sống.
Phép trị phải dùng thuốc trục thai để cứu mẹ nhưng nếu dùng dược phẩm bá đạo hạ tiết thì cũng gặp chí nguy. Bởi lẽ 6-7 ngày chờ chực sanh sản, hẳn là sức khỏe bà mẹ có phần sút giảm, rất cần thuốc bồi bổ. Một khi khí huyết bà mẹ vượng lên thì cái từ thai tự nhiên trôi ra khỏi sản môn. Phương thuốc này có tên là “LIỆU NHI TÁN”
Nhân sâm 35g
Đương qui 70g(rửa rượu)
Ngưu tất 18g
Quỷ cữu 12g (nghiền nát)
Nhũ hương 08g (ép hết dầu).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống chỉ 1 thang thì cái tử thai xuống mà người mẹ được sống.
Phàm sanh đẻ thì bà mẹ phải khỏe mạnh, nhờ đó cái thai mới xoay chuyển thuận chiều, áp đầu vào cửa sản môn. Vì bà mẹ thiếu sức, đứa bé chẳng biết lấy sức đâu để mà chuyển mình, lại còn dùng thuốc “thôi sanh” khiến cho khí huyết đứa bé thêm hao tổn, dần dà mòn hơi mà chết. Lỗi này một phần do thầy thuốc tầm thường giết nó.
Thế nên, những phụ nữ hay có chứng “nan sản” tránh dùng thuốc “thôi sanh”, chỉ nên bổ khí huyết để thêm sức cho bà mẹ và bảo toàn sinh mệnh cho thai nhi. “Cứu bản cũng là giải pháp thôi sanh”, như vậy mới giỏi.
TỬ TỬ SẢN MÔN (Cái thai chết ở sản môn)
Đàn bà đến ngày sinh nở mà thai không ra được vì giao cốt (xương chậu) không mở, đầu đứa bé nằm tại sản môn một thời gian rồi chết. Lúc này phải lo cứu ngay bà mẹ, nếu không rất nguy đến tính mạng. Nhưng cái tử thai án lấp sản môn thì làm sao đây?
Phàm cái thai đã chết ở sản môn thì phải dùng thuốc công trục, tống xuất tử thai ra càng nhanh càng tốt. Muốn trục thai mà không hại đến sinh mạng bà mẹ tất phải bổ huyết để sanh thủy, bổ khí để sanh huyết. Khi khí huyết đều vượng thì cái tử thai tự chui ra khỏi sản môn mà tánh mạng bà mẹ không bị đe dọa. Bằng dùng thuốc giáng hạ để trục thai, chưa chắc cái thai đã ra mà hơi thở của bà mẹ đã thoát nước rồi, sống làm sao được.
Sơn này (tên tác giả) thấy vô số trạng chứng như thế và đã đích thân dùng phương thang “Cứu mẫu đơn” cứu sống rất nhiều người. Nay ghi lại bài thuốc “CỨU MẪU ĐƠN” ra đây:
Nhân sâm 35g
Đương qui 70g (rửa rượu)
Xuyên khung 35g
Ích mẫu thảo 35g
Hắc kính giới 12g
Xích thạch chi 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Chỉ uống 1 thang là cái tử thai chui ra.
Bàn luận: Phương thuốc này dùng Đương qui, Xuyên khung để bổ huyết; Nhân sâm để bổ khí. Khí huyết cùng vượng thì trên dưới thăng giáng thuận hòa, sức tống trục tử thai mau chóng; huống chi còn có Ích mẫu thảo hay hạ được tử thai; Xích thạch chi hay trừ ứ huyết. Kết quả đúng như ý muốn.
HẬU SẢN, BÀO Y BẤT HẠ
(Sanh rồi, nhau thai không xuống)
Có một số phụ nữ, tuy đã sanh đứa bé ra rồi mà cái nhau vẫn còn nằm trong bụng không ra theo, làm cho sản phụ cảm thấy khó chịu, nóng uất, đôi khi đầu cổ quay cuồng tối tăm mặt mũi. Người ta cho là “cuống nhau dị tật” nhưng đó là bởi “máu ít mà khô cạn” khiến cho cái nhau dính chặt ở trong tử cung.
Nếu ai thấy cái nhau không xuống mà vội sợ nó xung lên tim là lầm. Chỉ sợ nó không xuống thì ứ huyết sẽ làm ra bệnh “huyết vựng”, tức triệu chưng xây xẩm mặt mày, chứ không xung lên tim đâu.
Phép trị nên đại bổ khí huyết để khí sinh huyết. Huyết đủ thì nhuận hoạt, sẽ tống xuất cái nhau ra ngoài và nhờ đó ứ huyết cũng ra theo. Phương thuốc này có tên là “TỐNG BÀO THANG”
Đương qui 70g (rửa rượu)
Ích mẫu thảo 35g
Nhũ hương 35g
Một dược 35g
Xuyên khung 18g
Hắc kinh giới 12g.
Sắc uống ngày 1 thang. Trước khi uống, nên hòa thêm 02g chánh Xạ hương vào nước thuốc, khuấy đều rồi uống hết một lần. Uống xong trong giây lát, cái nhau ra liền. Thật là thần hiệu.
- Bàn luận: Phương thuốc này dùng Khung, Qui để bổ khí huyết; Kinh giới để để dẫn huyết về kinh; dùng Ích mẫu, Nhũ hương, Một dược để trục ứ huyết mà đẩy cái nhau ra. Khi huyết mới sinh ra rồi thì huyết cũ khó đình tích lại. Hơn nữa, thanh khí đã thượng thăng thì trọc khí và huyết ứ tự nhiên giáng xuống thì còn lo gì máu ứ động lại nữa.
Tóm lại, nhau thai vốn không tự vào thai mà sống, chỉ tựa vào mẹ để nương thân. Nay cái thai ra rồi mà cái nhau còn ở lại là vì khí sức của cuống nhau vẫn còn có sinh khí, chưa đoạn lìa, thì dẫu ở đó cũng không thối nát. Nếu không thối nát thì cứ bổ khí bổ huyết tự nhiên nó sẽ trôi ra.
Lại có sản phụ sanh con đã 5-6 ngày rồi mà cái nhau vẫn nằm trong bụng, dùng hàng trăm kế vẫn không kiến hiệu, đặc biệt sức khỏe bà mẹ vẫn như thường.
Trường hợp này, dựa vào lý mà nói, nếu ứ huyết còn trong bụng thì bà mẹ ắt phải xây xẩm quay cuồng, phát sốt, run rẩy như có ma nhập. Nay bà mẹ vẫn yên ổn như thường thì rõ ràng trong bụng không còn ứ huyết, chỉ còn một mình cái nhau mà thôi. Nhưng cái nhau không ra là do thanh khí bị hãm ở dưới còn trọc khí lại ngăn cản ở trên, không giáng được.
Muốn khai thông bế tắc, “thanh thăng trọc giáng”, cần nên bổ khí để giúp thanh khí bốc lên trên. Một khi thanh khí có đường đi lên thì tự nhiên trọc khí giáng xuống, cái nhau sẽ theo ra. Phương này có tên là “GIA VỊ BỔ TRUNG ÍCH KHÍ THANG”.
Nhân sâm 12g
Sinh Hoàng kỳ 70g
Đương qui 18g
Bạch truật 05 (sao hoàng thổ)
Lai bặc tử 03 (sao, giã nát)
Sài hồ 02g
Chích cam thảo 02g
Thăng ma 03g
Trần bì 02g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang cái nhau ra ngay.
Phương thuốc này vốn bổ khí, không phải thuốc công trục, vậy mà đẩy cái nhau ra được là tại làm sao? Bởi chẳng biết “trọc khí” không giáng xuống là vì “thanh khí” không thăng lên. Dùng thuốc thăng đề là có dụng ý “giải phóng” bế tắc cho thanh khí đi lên; đồng thời gián tiếp “dọn đường” cho trọc khí đi xuống, bất tất phải dùng tới phép công trục. Huống chi còn có Lai bặc tử để trừ trọc khí thì công hiệu càng nhanh chóng hơn.
HẬU SẢN, KHÍ HƯ HUYẾT VỰNG
(Sanh rồi, khí suy chóng mặt)
Đàn bà có người vừa sanh con xong hốt nhiên hoa mắt tối sầm, ghê sợ muốn ụa mửa, thần trí hoang mang không còn định tâm được nữa. Người ta cho là “ác huyết chạy vào tim” nhưng có ai biết do “khí lực cực hư muốn thoát”.
Phải hiểu rằng, sản phụ mới sanh thường bị mất máu nhiều, huyết hải bị cạn kiệt. Trước kia máu ở tim dùng để tưới mát cho thai nhi, nay thai ra thì máu cũng theo ra, làm cho cơ tim thiếu máu không đủ cung cấp cho não. Đây là hệ quả dẫn tới hiện tượng hoa mắt, chóng mặt, biến thành chứng “huyết vựng”.
Phép trị ắt nên đại bổ cả “Khí” và “Huyết”, trong đó chú trọng việc bổ khí, vì “bổ khí để sanh huyết” nhanh hơn là “bổ huyết để sinh huyết”. Phương thuốc này có tên là “BỔ KHÍ GIẢI VỰNG THANG”.
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng kỳ 35g
Đương qui 35g
Hắc kinh giới 12g
Thán khương 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang hết triệu chứng chóng mặt xây xẩm, uống 2 thang tâm trí yên định, uống 3 thang huyết mới sinh ra, uống 4 thang huyết đầy đủ, chứng vựng không còn tái phát.
HẬU SẢN, TRƯỜNG HẠ (Sanh rồi, ruột sa xuống)
Sau khi sanh con mà sa ruột là một chứng nguy. Người ta cho là “âm đạo không đóng kín”, có ai biết là bởi “khí lực suy yếu, bị hãm ở dưới” không thu hồi lại được.
Theo lẽ thường, triệu chứng sa ruột là vì “khí hư”. Muốn kéo ruột lên thì phải dùng thuốc thăng đề hay thuốc bổ khí. Nhiều người sợ rằng sản phụ mới sanh không dám dùng thuốc bổ khí vì lo ứ huyết còn ở trong cũng đi theo lên xung vào tim nguy hiểm. Vậy thì dùng phương pháp nào đây? Thế là bế tắc!
Trong chỗ y thuật, không chỉ có suy lý mà quên cái ý của phép thăng đề. Khí hạ hãm tức là khí đã hư suy. Khí hư thì cứ cho bổ khí. Khí vượng thì sức khỏe hồi phục, thanh khí dựa vào đó mà thăng lên, còn trọc khí tự nhiên giáng xuống. Huyết ứ là thứ trọng trọc, chẳng những không lên theo mà còn trôi xuống nhanh chóng hơn nữa. Thế là một công đôi ba việc. Phương thuốc này dùng “BỔ KHÍ THĂNG TRƯỜNG THANG”.
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng kỳ 35g
Đương qui 35g (rửa rượu)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Xuyên khung 18g (rửa rượu)
Thăng ma 02g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang ruột lên.
- Bàn luận: Phương thuốc này thuần bổ khí, không nghĩ gì tới việc đưa ruột lên mà ruột vẫn kéo lên vị trí cũ. Đặc biệt, ở đây dùng vị Thăng ma rất ít, có người cho là không đủ thăng đề. Há chẳng biết Thăng mà dùng ít thì nó thăng khí, còn dùng nhiều thì nó thắng huyết. Sản phụ vừa sanh xong ắt còn ứ huyết, dùng nhiều Thăng ma thì huyết sẽ lên theo, đó mới là chuyện sai lầm lớn.
Ngoài ra, còn một phương pháp ngoại trị chứng sa ruột rất hay. Dùng 49 hạt Ty Ma Nhân, tức hạt thầu dầu tía, giã cho nát nhừ rồi nắn thành cái bánh, vạch tóc đặt thuốc vào giữ đỉnh đầu (tức chỗ huyệt Bách hội, ấn tay thấy một hơi lõm xuống). Trong chốc lát ruột sẽ kéo lên. Sau đó phải lấy thuốc ra ngay và lau rửa cho sạch chỗ đặt thuốc. Nếu để lâu sợ sinh chứng ói ra máu.
HẬU SẢN, THIẾU PHÚC ĐÔNG
(Sanh rồi, đau bụng dưới)
Sản phụ sanh con xong có người đau bụng dưới, trong bụng kết lại thành cục quặn đau không chịu nổi, lấy tay ấn vào càng đau dữ. Người ta cho là chứng “Nhi chẩm thống”. tức đau chỗ đứa bé gối đầu, nhưng ai biết rằng bởi “huyết ứ tích đọng” làm đau mà người hay kêu là “đau cục máu nhà con”.
Nếu bảo rằng đau do “nhi chẩm”, nơi đứa bé gối đầu, vậy lúc đứa bé còn nằm trong bào thai tại sao nó gối lên mà không đau, nay sanh ra rồi không còn gối nữa lại đau? Lời chẩn đoán trên rõ ràng không đủ thuyết phục. Vậy thì do đâu mà đau? Vì huyết ứ không tan, kết lại thành hòn cục gây đau.
Nên biết rằng, sản phụ mà khỏe mạnh thì huyết hữu dư, có thể dùng thuốc phá huyết để trục ứ hẳn là không phương hại chi. Tuy nhiên, huyết thông thì ứ huyết mới tan, nếu không lo bổ huyết mà lo phá huyết thì em rằng không tránh khỏi sự tiêu hao sức khỏe. Chỉ bằng, trong phương pháp bổ huyết có thêm phương pháp hành huyết trục ứ, chẳng những khí huyết đầy đủ mà ứ huyết cũng nhân đó tiêu tán đi. Thật là nhất cử lưỡng tiện.
Phương thuốc này có tên là “TÁN KẾT ĐỊNH THÔNG THANG”.
Đương qui 35g (rửa rượu)
Xuyên khung 18g (rửa rượu)
Ích mẫu thảo 12g
Mẫu đơn bì 08g
Sơn tra phiến 12g (sao cháy)
Hắc kinh giới 08g
Nhũ hương 04g (ép bỏ dầu)
Đào nhân 03g (sao, giã nát).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang hết đau mà ứ huyết tan hết, bất tất phải uống thêm.
- Bàn luận: Phương thuốc này trục huyết ứ trong phần bổ huyết, làm tiêu huyết hòn cục trong phần sinh huyết. Thần diệu ở chỗ không dùng thuốc trị đau mà tự nhiên hết đau.
Còn kẻ nào hễ thấy đau nơi vùng “nhi chẩm” rồi cho dùng ngay những vị Diên hồ, Tô mộc, Bồ hoàng, Ngũ linh chi để trục cái huyết cục đi mà không nói gì đến bổ huyết thì không thể hiểu nổi kẻ ấy học hành tới đâu.
HẬU SẢN, HUYẾT BĂNG (Sanh rồi, băng huyết)
Sản phụ có người sau khi sanh con chừng nửa tháng bỗng bị băng huyết, máu tuông xối xả, làm cho mặt mày thất sắc, tối tăm quay cuồng, mắt nhìn thấy những hình tướng quỉ quái ghê sợ. Người ta cho là “ác huyết xung tâm” chứ mấy ai biết đó là hậu quả do “giao hợp quá sớm”, không biết gìn giữ nơi phòng the.
Nên nhớ rằng sau khi sanh một hai tháng đầu là thời gian sản phụ còn yếu, khí huyết chưa thật sự phục hồi, những tổn thương ở tử cung chưa lành hẳn. Trong giai đoạn này mà người đàn bà ham thích tình dục, giao hợp sớm, ắt sinh chứng băng huyết không ngừng. Đây là hậu quả chẳng những do âm đạo tử cung bị chấn động mãnh liệt mà còn di hại đến cả hai kinh Tâm Thận. Bệnh rất nguy!
Phép trị, nếu như cho thuốc chỉ sáp hay thăng đề cũng đều không thể cầm máu, cứu được sanh mạng. Chỉ nên dùng thuốc đại bổ khí huyết để phục hồi nguyên dương thì mọi việc yên ngay. Phương thuốc này có tên là “CỨU BẠI CẦU SINH THANG”.
Nhân sâm 70g
Đương qui 70g (rửa rượu)
Bạch truật 70g (sao hoàng thổ)
Thục địa 35g
Sơn thù nhục 18g (sao chín)
Hoài sơn 18g (sao)
Sinh táo nhân 18g
Chế phụ tử 03g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang tinh thần yên định, 2 thang hết quay cuồng xây xẩm, 3 thang huyết ngưng hết làm băng, uống luôn 10 thang sẽ mừng như được tái sinh.
- Bàn luận: Phương thuốc này chuyên bổ khí để phục hoạt nguyên dương, dù có phi việt ra ngoài cũng phải quay về. “Dương” trở về thì “Khí” cũng trở về. Khí đầy đủ thì huyết mới sẽ sinh ra khiến cho huyết băng không có chỗ để hành nữa. Thế là chuyện cầm huyết chỉ huyết tự nhiên có hiệu nghiệm.
HẬU SẢN, Ố HÀN THÂN ĐẢN
(Sanh rồi, lạnh run người)
Sản phụ có người sanh xong bỗng phát nóng, phát lạnh run rẩy, cổ khô, khát nước. Người ta cho là “sản hậu bị thương hàn” chứ có ai biết do “khí huyết đều hư”, chính khí suy không chống nổi với tà khí bên ngoài mà sinh bệnh.
Nói chung, chính khí sung mãn thì tà khí dù mạnh tới đâu cũng khó mà xâm nhập vào cơ thể gây bệnh. Hãy nhìn xem những ai thường bị cảm mạo, sổ mũi, hắt hơi, ho hen, lúc nóng lúc lạnh đều do chính khí suy cả.
Nay sản phụ vốn bị mấy máu nhiều, 8 mạch đều hư, da lông trống trải, không đủ sức để tự bảo vệ thì tà khí thừa cơ càng dễ xâm nhập, dễ bị chứng cảm mạo. Tuy nhiên, vì sức còn yếu, không thể dùng những loại thuốc phát tán được. Bởi vì cái chứng sợ lạnh nói đây là cái lạnh từ nội thân phát ra, cái nóng đây là do sức yếu sinh ra, cơn lạnh run cả tay chân cũng là bởi chân khí hư nhược mà thành.
Vậy cứ trị “nội hàn” thì “ngoại hàn” tự nhiên tiêu tán, cứ trị “nội nhiệt” thì “ngoại nhiệt” giải trừ, cứ “tráng nguyên dương” thì bệnh lạnh run người tự nhiên an định. Phương thuốc này có tên là “THẬP TOÀN ĐẠI BỔ THANG”
Nhân sâm 12g
Bạch truật 12g (sao hoàng thổ)
Phục linh 12g
Thục địa 18g
Đương qui 12g (rửa rượu)
Bạch thược 08g (sao rượu)
Cam thảo 04g
Xuyên khung 04 (rửa rượu)
Sinh Hoàng kỳ 04g
Nhục quế 04g (cạo bỏ vỏ thô)
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang bệnh khỏi hoàn toàn.
- Bàn luận: Phương thuốc này chuyên bổ “hư” cho khí huyết, không nghĩ gì đến chuyện giải tỏa cái “thực” của phong tà gồm nóng, lạnh, run, sốt bên ngoài. Nghĩa là chính khí đầy đủ thì tà khí tự nhiên tiêu tan, giống như ban ngày mặt trời lên thì bóng đêm tự nhiên lui tan mất.
Còn như thấy sản phụ nóng, lạnh mà cho thuốc ngay thuốc phát tán sẽ dễ đưa tới bại vong mau chóng, phải cẩn thận lắm mới được.
HẬU SẢN, KHÍ HUYẾT LƯỠNG HƯ, NHŨ TRẤP BẤT HẠ
(Sanh rồi, khí huyết đều hư, không có sữa)
Sản phụ có người sanh xong tuyệt nhiên không có một giọt sữa tiết ra cho con bú. Người ta cho là “ống mạch sữa bế tắc” chứ ai biết đó là do “khí huyết đều khô cạn”.
Ôi! Sữa mẹ là tinh chất do khí huyết hóa thành, không có khí và huyết thì chẳng bao giờ sinh ra sữa. Trong hai yếu tố đó, khí được coi là quan trọng nhất vì nhờ có khí mà huyết hóa thành sữa nhanh chóng hơn. Sản phụ sau khí sanh xong ắt huyết thất thoát khá nhiều. Như vậy huyết tự hộ vệ cho mình còn chưa đủ thì lấy sức đâu để hóa ra sửa? Cho nên phải nhờ tới “chân khí” trợ lực, giúp cho huyết hành mà hóa thành sữa.
Một khi sanh đẻ mà không có sữa hãy trách cứ vào chỗ “khí suy huyết thiếu”. Khí vượng thì sữa nhiều, khí suy thì sữa ít, khí cạn kiệt thì sữa cũng tắt nguồn, đó là cái lý tất nhiên. Hà cớ gì đi tìm thuốc thông mạch sữa, như tìm tới kẻ đói để xin ăn, tới người mạt vận để vay nợ, liệu có nên chăng?
Phép trị nên bổ khí để sinh huyết, bất tất phải lo chuyện khai thiếu thông mạch sữa. Phương thuốc này có tên là “SANH NHŨ ĐƠN”.
Nhân sâm 35g
Sinh Hoàng kỳ 35g
Đương qui 70g (rửa rượu)
Mạch môn đông 12g (khứ tâm)
Mộc thông 02g
Kiết cánh 02g.
Móng giò heo 02 cái.
Cách làm: Trước hết, đem 2 móng giò heo hơ trên lửa than, cạo bỏ lớp đen bên ngoài, rửa sạch, chặt thành nhiều miếng nhỏ. Bỏ tất cả nguyên liệu vào siêu hay nồi hầm, thêm nước cho ngập thuốc rồi nấu hay hầm chín, ăn cái uống nước.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 2 thang sữa tiết ra như suối chảy.
- Bàn luận: Phương thuốc này chuyên bổ khí huyết để sinh ra sữa. Dùng Sâm, Hoàng kỳ làm quân để bổ khí; Đương qui để bổ huyết, Mạch môn, Kiết cánh nhằm khai thông Phế kinh (vì vú năm ở vùng Phổi hoạt động), móng giò heo là vật bổ dưỡng hữu hình. Thế là đầy đủ.
HẬU SẢN, UẤT KẾT, NHỮ TRẤP BẤT THÔNG
(sanh rồi tức giận, mạch sữa không thông)
Sản phụ có người sanh con xong chợt gặp chuyện trái ý, tức bực, giận hờn, làm cho bầu vú căng đau, mạch sữa bế tắc không thông. Người ta cho là cái “hỏa ở Dương minh Vị kinh nóng quá” chứ có ai biết tại vì “Can khí uất kết” mà ra.
Ôi! Vị (dạ dày) thuộc kinh Dương minh. Vị còn là “Phủ” chứa nhiều khí và nhiều huyết. Việc tiết ra sữa là do Dương minh Vị kinh đảm trách. Sản phụ sau khi sanh rồi, tuy huyết có thiếu nhưng khí chưa suy lắm, thì căn cứ vào đâu để nói mạch sữa bế tắc là Dương minh Vị hỏa gây ra? Á chẳng biết máu ở Vị Thổ phải nhờ có máu ở Can Mộc thông hòa với nhau thì mới hóa thành sữa. Nay bầu vú của sản phụ căn lên làm đau, không phải vì thiếu sữa, mà chính vì Can Mộc với Vị Thổ kết tập không hành thì dù có hóa thành sữa cũng không được. Rõ ràng là chứng “Can khí uất”.
Phép trị nên thông hòa cái khí ở Can Mộc thật nhiều để cho huyết ở Dương minh Vị được luân chuyển dễ dàng, mạch sữa tự nhiên thông, bất tất lo toan chuyện thông mạch sữa. Phương thuốc này là “THÔNG CAN SINH NHŨ THANG”
Bạch thược 18g (sao giấm)
Đương qui 18g (rửa rượu)
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Mạch môn đông 18 (khứ tâm)
Thục địa 12g
Thông thảo 04g
Sài hồ 04g
Chích viễn chí 04g
Cam thảo 01g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang mạch sữa thông, bất tất phải uống thê,. Thật là thần diệu!
HẬU SẢN, CAN NUY (Sanh rồi, gan yếu sa xuống)
Sản phụ có người sanh trong âm hộ sa xuống một vật giống như miếng lụa đỏ, hình dáng có sừng hoặc như 2 nhánh. Người ta cho là “tử cung lòi ra” chứ không biết vật đó do “Can nuy”, nghĩa là lá gan quá yếu mà lòi ra.
Câu hỏi đặt ra: Sanh rồi làm sao có thể biến thành bệnh “dương nuy” được? Há chẳng biết trong thời gian bà mẹ mang thai mà làm lụng vất cả quá, mệt nhọc quá, lại còn hay bực tức vì những chuyện trái ý, để đến nổi Can bị suy yếu thường trực. Khi sanh con, cái thai ra thì màng mỡ của gan cũng theo huyết mà ra khỏi sản môn tới 6-7 cm.
Phép trị nên đại bổ khí huyết và gia thêm chút ít dược phẩm để thăng đề. Một khi khí huyết của gan được vượng thì tự nhiên cái màng mỡ sẽ rút vào. Phương thuốc này có tên là “THU MÔ THANG”.
Sinh Hoàng kỳ 35g
Nhân sâm 18g
Bạch truật 18g (sao hoàng thổ)
Bạch thược 18g (sao rượu hơi cháy)
Đương qui 12g (rửa rượu)
Thăng ma 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang màng mỡ gan thu vào tức khắc.
- Bàn luận: Phương thuốc này dùng vị Bạch thược, có người cho rằng dùng thế là sai vì sách nói: “Sản hậu cấm dùng Bạch thược” hàm ý bảo Bạch thược phạt mất căn nguyên sinh khí, có hại.
Riêng Sơn (chỉ tác giả) này cho là nên dùng. Phải biết rằng “Can tàng huyết” , huyết có bệnh là tại Can hư. Can hư thì càng phải dùng Bạch thược; vả lại dùng trong thuốc đại bổ thì tính chua của Bạch thược giảm đi nhiều rồi, chẳng hại gì tới khí huyết cả. Huống chi màng mỡ mà trụt xuống cần phải nhờ đến sức “toan thu” của Bạch thược để giúp cho Thăng ma thăng đề khí huyết lên nhanh chóng hơn. Vậy là không còn e dè Bạch thược nữa.
HẬU SẢN, NHỤC TUYẾN XUẤT
(Sanh rồi, mạch Đái lòi ra)
Sản phụ sanh, có người vừa sanh con xong thì thấy ở chỗ sản môn lòi ra một sợ dây thịt dài khoảng 5-10 cm, hễ đụng vào thì đau buốt muốn chết. Người ta cho là “bào thai sa xuống” chứ không biết do “dây mạch Đái hư yếu mà tụt ra”.
Ôi! Bình thường dây mạch Đái buộc vòng quanh rốn, nơi mạch Nhân ở đàng trước bụng và mạch Đốc ở sau long. Nếu hai mạch Nhâm Đốc cùng khỏe mạnh thì mạch Đái được bền chặt, còn như suy yếu thì mạch Đái lỏng lẻo mà trụt xuống.
Sản phụ sanh xong vốn mất nhiều máu. Máu thiếu thì lấy gì nuôi mạch Nhâm, mạch Đốc. Khi mạch Nhâm, Đốc cùng yếu thì lấy sức đâu chu toàn cho mạch Đái, do đó nhân lúc rặn để mà theo máu trụt ra ngoài sản môn.
Phép trị nên dùng thuốc bồi bổ Nhâm mạch, Đốc mạch với phương được “LƯỠNG THU THANG”.
Nhân sâm 35g
Bạch truật 70g (sao hoàng thổ)
Xuyên khung 105g (rửa rượu)
Thục địa 70g
Hoài sơn 35g (sao)
Khiếm thực 18g (sao)
Bạch biển đậu 18g (sao, bỏ vỏ, giã nát)
Đỗ trọng 18g (sao đen)
Sơn thù nhục 15g (sao chín)
Ba kích nhục 12g ( tẩm nước muối sao)
Bạch quả 10 hạt (bỏ vỏ, giã nát).
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 1 thang, sợi dây thịt rút vô phân nữa. Uống 2 thang thu vào toàn bộ.
- Bàn luận: Phương thuốc này chuyên bồi bổ cho mạch Nhâm, mạch Đốc và còn bồi bổ luôn cho lưng, rốn. Nếu chỉ lo cho Nhâm, Đốc mà quên bổ lưng, rốn thì mạch Đái không dựa vào đâu để mà thăng đề. Thế là cả 3 mạch đều mạnh như nhau, sợ gì cái chuyện sa ruột, sa dây chằng.
4. VÔ SINH (Sterility)
Vô sinh là một chứng bệnh thuộc phạm vi sinh lý giữa hai người nam nữ trưởng thành đã chung sống với nhau trên hai năm và thường xuyên giao hợp trong điều kiện tự nhiên mà người phụ nữ vẫn không thu thại. Điều này kể cả trường hợp các cặp vợ chồng kết hôn muộn và người phụ nữ vẫn còn kinh nguyệt.
Hệ sinh dục của nữ giới phát triển mạnh nhất từ 22-30 tuổi và bắt đầu giảm dần theo thời gian. Sau 35 tuổi, khả năng tình dục cũng như thụ thai ở nữ giới xuống thấp hơn 30%, sau 45 tuổi rất ít người còn có hy vọng sinh con.
Phân loại theo giới tính:
Vô sinh có nhiều nhân tố, trong đó nam giới là một yếu tố không thể xem nhẹ. Như vậy, việc phân loại nguyên nhân giới tính cần đặt ra vấn đề vô sinh do nam giới.
Vô sinh do năm giới thường liên quan đến ba nguyên nhân:
- Thứ nhất, người nam vốn mắc một chứng bệnh làm triệt tiêu tinh trùng (như bệnh quai bị -parotitis- chẳng hạn) dẫn tới hệ quả phụ nữ không thể thụ thai, gọi là vô sinh nam giới.
- Thứ hai, chất lượng tinh trùng của người nam quá thấp hoặc quá yếu khiến cho trứng thụ tinh không phát triển thành bào thai được, gọi là bệnh bất dục nam giới.
- Thứ ba, giao hợp gián đoạn hoặc chưa thỏa đáng do người nam chủ động bằng cách không cho phóng tinh. Một vài trường hợp phụ nữ có khả năng thụ thai nhưng xác suất rất thấp.
Phân loại theo điều kiện:
Có hai yếu tố chính gây vô sinh ở phụ nữ:
- Vô sinh bẩm sinh: Gồm những phụ nữ đã từng giao hợp với một hay hai người đàn ông trưởng thành trở lên nhưng chưa hề thụ thai lần nào. Trường hợp này, y văn cổ truyền gọi là bệnh “vô tử” (không con) hay “toàn bất sản” (hoàn toàn không có chửa và đẻ).
- Vô sinh gián đoạn: Gồm những phụ nữ đã từng mang thai nhưng thai nhi không phát dục, sẩy thai lúc mới tượng hình, đẻ non, có thai ngoài tử cung và tiếp sau đó ngưng hẳn việc thụ thai mặc dù giao hợp bình thường.
Từ nhận định trên, các nhà nghiên cứu đưa ra hai kết luận: Nếu vô sinh tuyệt đối, do vợ hoặc chồng mất khả năng sinh lý, khuyết tật về sinh dục thì mất hoàn toàn khả năng có con. Nếu vô sinh tương đối, do vợ hoặc chồng suy yếu khả năng sinh dục, được chữa trị thành công thì có khả năng thụ thai và sinh đẻ.
Vô sinh bởi phụ nữ:
Theo thống kê mới nhất ở ba khu vực Nhật Bản, Âu Châu và Mỹ Châu, các nhà khoa học ghi nhận vô sinh ở phụ nữ luôn luôn cao hơn nam giới.
- Ở Nhật, tỷ lệ phụ nữ có chồng nhưng vô sinh chiếm 75%, trong đó vô sinh do tử cung và trứng rụng chiếm 20%, do ống dẫn trứng chiếm 40-44%.
- Ở Châu Âu và Châu Mỹ, tỷ lệ phụ nữ có chồng nhưng vô sinh chiếm 60-7-%, trong đó do cổ tử cung chiếm 20%, do tuyến nội tiết chiếm 15 – 25% và do ống dẫn trứng chiếm tới 40-50%,
Trước nguy cơ bóng dáng trẻ em càng ít đi, thế giới đã lên tiếng cảnh báo, đề xuất nhiều sáng kiến điều trị chứng vô sinh ở phụ nữ. Tuy nhiên, phương pháp điều trị bệnh vô sinh cũng giống như các bệnh khác, trước hết là tìm nguyên nhân gây bệnh bằng ý thức khoa học. Tránh đặt sự tin cậy vào phép lạ, tà thuật, dược thảo kỳ bí hoặc thầy thuốc thiếu kỹ năng chuyên môn, vừa lãng phí thời gian tiền bạc vừa có thể gây rối loạn hệ thống sinh lý rất khó cho việc điều trị chính qui. Sau đây là một số kinh nghiệm Đông y qua chẩn đoán và điều trị bệnh vô sinh, chủ yếu tập trung vào phụ nữ.
Chẩn trị theo Đông Y
a. Vô sinh do nam giới:
Bài 1:
- Nguyên nhân: Đàn ông giao hợp không xuất (phóng) tinh.
- Biện chứng Đông y: Không xuất tinh là trạng chứng sinh dụng không hoàn hảo ở nam giới trong khi giao hợp với người nữ mà không phóng tinh đúng vào giai đoạn cực khoái. Người bệnh cảm thấy ngực sườn bứt rứt, bụng dưới trướng đầy, ợ hơi khó thỏ, tình chí u uất, chất lưỡi tối, mạch đi Huyền. Đây là chứng Can khí uất, tinh khiếu bế tắc không thông lợi.
- Pháp trị: Sơ can lý khí, khai khiếu thông tinh.
- Bài thuốc: “Cố thị thông khiếu chủng ngọc thang” của Cố Bảo Quần, Y sư thuộc Trung Y Học Viện Nam Kinh, Trung Quốc.
- Công thức:
Sài hồ 10g
Bạch thược 10g
Thạch xương bồ 10g
Uất kim 10g
Lưu hành tử 10g
Đào nhân 10g
Xuyên luyện tử (sao) 10g
Trà diệp 10g
Lục nhất tán 10g
Hồng hoa 06g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2:
- Nguyên nhân: Sinh ký yếu, tinh dịch không đủ tinh trùng.
- Biện chứng Đông y: Thận hư tủy kiệt.
- Pháp trị: Tăng tinh ích tủy.
- Bài thuốc: “Năm tử bất dục phương” của Vạn Như Thẩm, Y sư thuộc Viện Nghiên Cứu Trung Y, Trung Quốc.
- Công thức:
Thỏ ty tử 15g
Ngũ vị tử 15g
Phúc bồn tử 15g
Xa tiên tử 15g
Câu kỷ tử 15g
Nữ trinh tử 15g
Sa uyển tử 15g
Tử hà xa 15g
Hoàng tinh 15g
Hà thủ ô (chế) 15g
Tang phiêu tiêu 15g
Đương qui 15g
Lộc giác giao 15g
Nhục thung dung 15g.
Sắc uống ngày 1 thang. Có thể tán thành bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2-3 lần, mỗi lần 1 hoàn.
Bài 3:
- Nguyên nhân: Đàn ông tinh dịch thiếu tinh trùng.
- Biện chứng Đông y: Thận âm suy, tinh kém.
- Pháp trị: Tư âm bổ Thận, ích tủy sinh tinh.
- Bài thuốc: “Ích tinh lưu lân hoàn” của Bành Tĩnh Sơn, Y sư Trung Y Học viện tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc.
- Công thức:
Thục địa 30g
Thỏ ty tử 30g
Câu kỷ tử 30g
Phá cố chỉ 30g
Phúc bồn tử 25g
Ba kích thiên 25g
Phục kinh 30g
Hồ đào nhân 15g
Phỉ tử (sao) 15g
Ngũ vị tử 10g
Xa tiền tử 10g
Nhục quế 10g
Chánh trầm hương 10g
Lộc nhung 05g.
- Cách làm: Tán bột mịn luyện với mật ông làm hoàn tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín pha chút muối nhạt.
s
Bài 4:
- Nguyên nhân: Dương nuy, tảo tiết, tinh trùng ít hoặc dị dạng, không có tinh trùng.
- Biện chứng Đông y: Dương suy, tinh kém.
- Pháp trị: Phù dương bổ hư, ích thận tăng tinh.
- Bài thuốc: “Lý thị dục tự thang” của Lý Đức Nhai, Y sư thuộc Trung Y Viện khu Sùng Văn thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc.
- Công thức:
Hà thủ ô 25g
Oài sơn (sao) 25g
Tiên mao 15g
Dâm dương hoắc 15g
Thỏ ty tử 15g
Thục địa 15g
Ba kích nhục 15g
Ngũ vị tử 15g
Lộc giác sương 15g
Đông quỳ tử 15g
Phúc bồn tử 15g
Nhục thung dung 15g
Thục phụ tử 06g
Hải mã (sấy chín) 06g
Cửu hương trùng 04g.
- Cách làm: Sắc uống 1 thang. Tiện nhất là đem tán bột, luyện mật ong làm hoàn, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhau nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn.
- Gia giảm:
.Có hiện tượng nội nhiệt âm hư, bỏ Phụ tử, gia thêm Tri mẫu 10g, Hoàng bá 10g.
.Có triệu chứng hư hàn, lạnh tay chân, gia Nhục quế 06g, Tiểu hồi hương 06g, Khương hoàng 06g.
.Đầu mặt choáng váng, gia thêm Cầu kỷ từ 15g. Tang thầm tử 15g.
.Lưng đùi tê mỏi, gia thêm Tục đoạn 15g, Đỗ trọng 15g, Cẩu tích 15g.
.Mệt mỏi, ăn kém, gia thêm Hoàng kỳ 15g, Hoàng tinh 15g, Đảng sâm 15g, Bạch truật (sao) 12g.
.Ngoại thận (hòn đái) vừa đau vừa trệ xuống, gia thêm Quất hạch 15g, Lê chi hạch 12g, Xuyên luyện tử 10g.
.Hồi hộp không ngủ được, gia Bá tử nhân 12g, chích Viễn chí nhục 12g, Hắc táo nhân 15g.
.Hậu nhiên bất túc, cần tăng liều lượng các vị bổ khí kiện Tỳ như Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật một cách thích đáng.
Bài 5:
- Nguyên nhân: Tinh dịch không có tinh trùng.
- Biện chứng Đông y: Tỳ thận khí hư.
- Pháp trị: Bổ Thận trợ dương, sinh tinh tủy.
- Bài thuốc: “Chủng tử đan” của Trương Hải Sâm thuộc Viện nghiên cứu Trung Y trỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
- Công thức:
Tử hà xa 30g
Câu kỷ tử 30g
Tiên mao 20g
Hồ lô ba 20g
Dâm dương hoắc 20g
Ba kích nhục 20g
Nhục thung dung 15g
Hải cẩu thận (sấy) 15g
Lộc nhung 15g
Hải long 03 con
Dương thận 01 đôi.
- Cách làm:
.Muốn dùng thuốc thang, mỗi thang chỉ dùng Hải long 1 con, Tử hà xa 3g, Hải cẩu thận 1.5g. Lộc nhung 2g. Bốn vị này tán bột để riêng. Khi nào sắc xong, pha vào nước thuốc mà uống. Riêng Dương thận, mỗi ngày hầm chín 1 quả, ăn cái uống nước.
.Muốn dùng thuốc tể, tán thuốc thành bột mịn luyện với mật ong làm hoàn, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn.
- Gia giảm:
.Vì cần điều bổ lâu ngày, nên gia thêm Bạch truật, Sa nhân để bổ ích cho Hậu thiên Tỳ Vị nhằm trợ lực cho Tiên thiên Thận dương.
. Nếu Thận âm Thận dương đều hư, dùng thuốc lâu ngày có hiện tượng táo nhiệt, nên gia thêm các vị Thục địa, Thiên môn đông, qui bản để tư bổ Thận âm.
Bài 6:
- Nguyên nhân: Tinh dịch không có tinh trùng.
- Biện chứng Đông y: Dương hư, tinh kém, Tỳ Thận lưỡng suy.
- Pháp trị: Bổ khí kiện Tỳ, ích Thận, bồi tinh tủy.
- Bài thuốc: “Lý thị điền tinh chủng tử hoàn” của Lý Hưng Bồi, Y sư thuộc Trung Y Học Viện tỉnh Tân Cương, Trung Quốc.
- Công thức:
Hoàng kỳ 120g
Kiết lâm sâm 120g
Thục địa 120g
Hoài sơn dược 120g
Bạch truật (sao) 100g
Phá cố chỉ 90g
Nhục thung dung 90g
Cầu kỷ tử 90g
Tiên mao 90g
Dâm dương hoắc 90g
Ba kích nhục 90g
Hồ lô ba 90g
Phỉ thái tử 90g
Sơn thù nhục 90g
Cầu kỷ tử 90g
Cẩu tích 90g
Lộc giác giao 90g
Tục đoạn 60g
Hoài ngưu tất 60g
Đỗ trọng 60g
Cam thảo 60g
Sa nhân nhục 05g.
- Cách làm: Các vị tán bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín. Bài này có thể ngâm rượu uống, tuy nhiên không thích hợp cho người có chứng cao huyết áp.
Bài 7:
- Nguyên nhân: Đàn ông tinh dịch không có tinh trùng.
- Biện chứng Đông y: Thận khí tiên thiên hao tổn, Tỳ khí hậu thiên bạc nhược, Can mất tác dụng thúc đẩy sinh sản tinh trùng.
- Pháp trị: Bổ Tỳ, ích Thận, bình Can.
- Bài thuốc: “Tứ quân Bát vị hợp tể gia vị”
- Công thức:
Thục địa 50g
Đương qui 30g
Câu kỷ tử 25g
Nhân sâm 20g
Phục linh 15g
Bạch truật 15g
Phụ tử 10g
Trạch tả 10g
Mẫu đơn bì 10g
Hoài sơn 10g
Bạch thược 10g
Sài hồ 10g
Cam thảo 05g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Nguyễn Vĩnh Thiệu, 30 tuổi, kết hôn hơn 2 năm chưa có con. Hai vợ chồng đi khám và làm một số xét nghiệm sinh lý ở một bệnh viện, được thông báo là vợ bình thường, riêng chồng thì tinh dịch không có tinh trùng. Sau khi về nhà, Thiệu đã cố gắng tìm thầy tìm thuốc điều trị nhưng mất cả 2-3 năm trời vẫn không thấy kết quả, lưng đau âm ỉ, chân yếu mỏi, ngoài ra không có triệu chứng gì bất thường.
Xét nghiệm tinh dịch, ước lượng 2ml, màu trắng như sửa, soi vào kinh hiển vi không thấy một con tinh trùng nào, rất nhiều lecithin, mạch đi Trầm Tế Hoãn. Biện chứng Đông y nói: Thận là tiên thiên, Tỳ là hậu thiên. Tinh chất tiên thiên (thận) sung mãn là nhờ tinh chất hậu thiên (tỳ vị) cung cấp dồi dào, tức là đồ ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, tinh túy của đồ ăn hậu thiên (Tỳ vị) cũng cần có sự trợ duyên của khí thiên nhiên, tức mệnh môn tướng hỏa (thận), rồi cùng chuyển vào Can Đởm nung nấu cho chín thì mới hóa thành chất sống, tức tinh trùng. Cho uống tiếp 15 thang nữa, vị chi 36 thang, tinh trùng tăng lên hơn 70,000,000 (bảy mươi triệu con), đạt 80% dung lượng tinh trùng cần có để sinh con. Quả nhiên, năm sau vợ mang thai và hạ sinh một con gái.
b. Vô sinh do nữ giới
Vô sinh nữ giới chỉ những phụ nữ ở tuổi trưởng thành đã kết hôn hoặc thường xuyên giao hợp với đàn ông mạnh khỏe về sinh lý trong điều kiện tự nhiên mà không có dấu hiệu thụ thai suốt 2-3 năm liền thì được coi là chứng “vô sinh” hay “không thụ thai”.
Vô sinh có nhiều nguyên nhân:
- Do âm đạo bị bệnh: Cơ quan sinh dục dị dạng, âm đạo có khuyết tật, âm đạo và màng trinh bị bít, âm đạo bị viêm.
- Do cổ tử cung bị bệnh: Ống cổ tử cung dị thường, cổ tử cung bị viêm mãn tính, niêm dịch cổ tử cung tiết xuất quá đặc, quá thấp hoặc quá nhiều.
- Do tử cung bị bệnh: Tử cung dị hình bẩm sinh, tử cung phát triển không tốt, u bướu tử cung, màng trong tử cung có u nang (cyst).
- Do ấn dẫn trứng bị bệnh: ống dẫn trứng phát triển không hoàn chỉnh có khối u, hẹp, bít kín, viêm mãn tính, tích nước, viêm do bệnh lao, u nang.
- Do buồng trứng bị bệnh: Tuyến sinh dục phát triển không đầy đủ, buồng trứng đa nang, u nang, suy chức năng Hoàng thể.
- Do hỗn loạn giữ trục vùng đồi thị não-tuyến yên-ống dẫn trứng: Gây trở ngại việc rụng trứng và tắt kinh, hội chứng vô kinh tiết sữa (amenorrhea-galactorrhea syndrome).
- Sẩy thai do thói quen: Do tử cung dị hình, xoang tử cung bị dính, nội tiết tố progesterone cung cấp không đủ, tính di truyền, tính miễn dịch kháng tinh trùng, kháng trứng.
- Do tính dục: Âm đạo co giật, không đạt tới ngưỡng khoái cảm, thù ghét tình dục, ức chế tình dục.
Sau đây là một số bài thuốc kinh nghiệm của Đông y trị chứng vô sinh ở phụ nữ có đối chứng lập phương:
Bài 1:
- Triệu chứng: Có chồng nhiều năm không thụ thai, bụng dưới gò đau, gặp nóng thì dễ chịu, gặp lạnh đau nhiều, hành kinh muộn, sắc kinh tối, có hòn cục, mặt sạm, chất lưỡi tối có điểm ứ huyết.
- Biện chứng Đông y: Do hàn thấp ứ huyết nghẽn trệ bào cung.
- Pháp trị: Sơ tán hàn thấp, làm ấm bào cung, hành khí hoạt huyết, hóa ứ giảm đau.
- Bài thuốc: “Noãn cung định thống thang” của Lưu Phụng Ngũ, danh y nổi tiếng thuốc
- Công thức:
Quách hạch 10g
Tiểu hồi 10g
Diên hồ sách 10g
Xuyên luyện tử 10g
Ô dược 10g
Lệ chi hạch 10g
Hồ lô ba 10g
Ngũ linh chi 10g
Hương phụ chế 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 2:
- Triệu chứng: Phụ nữ kết hôn đã lâu không thụ thai, lưng đùi tê mỏi, kinh nguyệt ra ít, chất loãng sắc nhạt, vẻ mặt úa vàng, đầu choáng mắt hoa.
- Biện pháp đông y: Do khí huyết bất túc, thận kinh khuy tổn.
- Pháp trị: Dưỡng huyết ích khí, tăng tinh bổ Thận.
- Bài thuốc: “Ngô thị dục cung cẩm” của Ngô Y, y sư thuộc Trung y viện tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
-Công thức:
Thai bàn 30g
Hoàng tinh 15g
Sơn thù nhục 15g
Dâm dương hoắc 15g
Nhục thung dung 15g
Ba kích nhục 15g.
Cách làm: Thai bàn là loại thai nhi mới vừa tượng hình do kỹ thuật nạo thai thu hồi, đem sấy khô. Thuốc sắc lên xong mới bỏ thai bàn vào khuấy tan đều mà uống. Phương này dùng cho những phụ nữ có tử cung quá nhỏ, sau khi sạch kinh 3 ngày mới sử dụng. Kiêng ăn đồ sống, lạnh, tắm lạnh, giặt quần áo bằng nước lạnh.
Bài 3:
- Triệu chứng: Gồm các triệu chứng ở bài số 2 kiêm chứng vú căng trướng mỗi khi hành kinh, kinh ra sớm muộn rất bất thường, đắng miệng, dễ nổi giận.
- Biện chứng Đông y: Thận khuy, huyết hư kiêm Can uất khí trệ.
- Pháp trị: Bổ Thận điều Can dưỡng huyết.
- Bài thuốc:
a. Nếu thiên về Thận hư: “Trương thị điều kinh chủng ngọc thang” của Trương Kiệt Anh, Y sư thuốc Trung y viện Thái Châu tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
b. Nếu thiên về huyết hư, Can uất: “Vương thị Can uất thận hư phương” của Vương Dụ Dân, Y sư thuộc Trung y viện Thái An tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
- Công thức:
a. Thỏ ty từ 10g
Tử hà xa 10g
Dâm dương hoắc 15g
Toàn đương qui 10g
Bạch thược 10g
Ích mẫu thảo (hạt) 10g
Phúc bồn tử 10g
Tiên mao 10g
Hoài ngư tất 10g
Xích thược 10g
Chế hương phụ 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
b. Sài hồ 10g
Chế bán hạ 10g
Đảng sâm 15g
Thục địa 20g
Xuyên khung 06g
Đương qui 10g
Trạch tả 10g
Chích cam thảo 06g
Hoàng cầm 10g
Bạch thược 10g
Sơn thù nhục 10g
Xuyên ngưu tất 10g
Đại tạo 3 quả
Sinh khương 03 lát.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 4:
- Triệu chứng: Gồm các triệu chứng ở bài 2 kiêm chứng hành kinh đau lưng, đau bụng, lượng kinh ít, có hòn cục, chất lưỡi tía tối.
- Biện chứng Đông y: Thận hư, huyết ứ.
- Pháp trị: Hành khí hoạt huyệt, bổ ích Thận dương.
- Bài thuốc: “Chúc thị bất dựng phương” của Chúc Trạm Dư, thuộc Trung y viện Hiệp Hòa Bắc Kinh thuộc Viện Đại Học y khoa Trung Quốc.
- Công thức:
Ích mẫu thảo 20g
Quảng mộc hương 10g
Khương hoạt 10g
Thổ ty từ 10g
Câu kỷ tử 10g
Đương qui 10g
Bạch thược 10g
Ngũ vị tử 10g
Xa tiền tử 10g
Phúc bồn tử 10g.
Sắc uống cách nhật. Sau khí sạch kinh, cách 1 ngày sắc uống 1 thang.
- Gia giảm:
.Lâu năm không thụ thai, gia Tử hà xa 3g, Lộc giác sương 15g, Nữ trinh tử 15g, Sa uyển tử 10g, Sinh địa 15g, Thục địa 15g.
.Kinh nguyệt quá ít hoặc rối loạn không đúng kỳ, màu kinh đen, thay Ích mẫu thảo bằng Cao ích mẫu 50g.
.Nếu ống dẫn trứng hẹp, bít kín, gia Xuyên sơn giáp 12g, Vương bất lưu hành 15g, Thạch xương bồ 12g.
.Do tử cung cấu tạo không hoàn chỉnh, gia Hà thủ ô 15g, Tiên mao 15g, Dâm dương hoắc 15g, Hoàng tinh 14g, Nhục thung dung 15g.
Bài 5:
- Triệu chứng: Gồm các triệu chứng ở bài 2 kèm chứng chán ăn, tinh thần mệt mỏi, hồi hộp, sắc mặt nhợt nhạt, mạch đi Trầm Huyền.
- Biện chứng Đông y: Huyết hư, tinh kém, Tỳ vị suy yếu.
- Pháp trị: Dưỡng huyết hoạt huyết, điều kinh ích tinh, kiện Tỳ ích khí.
- Bài thuốc: “Điều kinh chủng ngọc thang” của Trường Chung Tuyền, Y sư Giám đốc Trung y viện tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.
- Công thức:
Đảng sâm 12g
Bạch thược 15g
Ô dược 12g
Thục địa 15g
Phục kinh 15g
Trần bì 12g
Cam thảo 08g
Xuyên khung 12g
Đương qui 15g
Chỉ xác 12g
Mộc hương 10g
Bạch truật 15g
Hương phụ 15g
Xa tiền tử 12g.
Khi thấy kinh nguyệt hãy sắc uống ngày 1 thang, liền trong 4 ngày. Tính từ ngày có kinh đến 15 ngày sau lại uống tiếp 4 thang nữa, mỗi thang 2 lượt tức 8 thang, tháng nào cũng làm y như vậy thì kết quả thụ thai khá cao. Nhớ dùng siêu đất để nấu thuốc, đổ nước vừa đủ, nước đầu đun lấy 1 chén, nước thì đun lấy nửa chén, hiệp chung lại rồi chia làm 3 lần uống trong ngày.
- Gia giảm:
.Huyết hư có nhiệt, kinh nguyệt có sớm từ 5 ngày trở lên, gia Hoàng cầm 12g, Hoàng bá 12g.
.Kinh nguyệt quá kỳ hoặc sắc kinh nhợt là có hàn tính, gia Ngô thù du 12g, Qua quế 10g.
.Đau bụng, gia Diên hồ sách 15g.
.Cơ thể quá mập, gia chế Bán hạ 12g, Sơn tra 15g.
.Bạch đới, huyết trắng nhiều, gia Khiếm thực 15g, Thương truật 15g.
Bài 6:
- Triệu chứng: Phụ nữ kết hôn lâu ngày không thụ thai, thể trạng mập, mặt nhợt, hành kinh lượng ít, sắc huyết tối, hành kinh muộn hoặc bế kinh, bụng dưới sợ lạnh ưa nóng, mỏi mệt, đau lưng, thờ ơ giao hợp.
- Biện chứng Đông y: Thận dương hư suy.
- Pháp trị: Bổ Thận mạch dương.
- Bài thuốc: “La thị bất bài noãn kinh nghiệm phương” của LA Nguyên Khải, Y sư thuộc Trung y học viện tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc.
- Công thức:
Thỏ ty tử 20g
Đảng sâm 20g
Thục địa 20g
Câu kỷ tử 15g
Ba kích nhục 15g
Đương qui 12g
Dâm dương hoắc 12g
Phụ tử 06g
Chích cam thảo 06g.
Sau khi sạch kinh, sắc uống liên tục 10 thang, có thể thúc đẩy trứng rụng.
Bài 7:
- Triệu chứng: Gồm các triệu chứng ở bài 6 kiêm chứng tinh thần mỏi mệt, đại tiện nhão hoặc bụng dưới có hòn cục, chất lưỡi tía tối, kinh ra có hòn cục.
- Biện chứng Đông y: Tỳ Thận dương hư, ứ và trọc cấu kết.
- Pháp trị: Bổ Thận kiện Tỳ ôn dương hóa ứ.
- Bài thuốc: “Trợ dương ức kháng thang” của Hạ Quế Thành, Y sư thuộc Trung y học viện Nam Kinh, Trung Quốc”
- Công thức:
Hoàng kỳ 15g
Đảng sâm 10g
Lộc giác sương 10g
Đan sâm 10g
Xích thược 10g
Phục linh 10g
Xuyên tục đoạn 10g
Sơn tra phiến 10g.
Sắc uống kể từ ngày rụng trứng, mỗi ngày 1 thang, sắc lấy 2 nước hòa chung chia làm 2 lần uống. Tiếp tục uống cho tới khi thấy hành kinh thì ngưng.
- Gia giảm:
.Kiêm chứng thấp nhiệt, bụng dưới đau, bạch đới ra nhiều màu vàng trắng, gia Bại thương thảo 15g, Ý dĩ nhân 15g, Ngũ kinh chi 10g.
.Kiêm chứng Tỳ vị yếu, bụng đầy trướng, đại tiện nhão hoặc lỏng, gia Bạch truật (sao) 10g, Sa nhân 05g, Bào can khương 05g.
Bài 8:
- Triệu chứng: Đầu chóng tai ù, lượng kinh rất ít hoặc bế kinh.
- Biện chứng Đông y: Đương hư tinh tổn.
- Pháp trị: Nếu thiên về Dương hư để ôn bổ Tỳ Thận, tán hàn điều kinh, trợ dương thúc đẩy thụ thai (bài 8a). Nếu thiên về Tinh tổn thì bổ Thận dưỡng bào, điều hòa Xung Nhâm, ôn kinh tán hàn (bài 8b).
- Bài thuốc:
8a. “Lưu thị bất dung chứng hiệu phương” của Lưu Thụy Đường, Y sư thuộc Trung y viện Hà Tây tỉnh Thiên Tân, Trung Quốc.
8b. “Vương thị xúc dung hoàn” của Vương Kỳ Phi, Y sư thuốc Sở nguên cứu Trung y tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
- Công thức:
8a. Ích mẫu thảo 150g
Đương qui 120g
Thục địa 60g
Bạch truật 60g
Bạch biển đậu 60g
Ngô thù du 60g
Phụ tử 60g
Bạch thược 60g
Sơn dược 50g
Nhục quế 60g
Đan sâm 60g
Phục linh 40g
Diên hồ sách 30g
Xuyên khung 15g
Mộc hương 15g
Chế hậu phác 10g
Chích cam thảo 10g
Sa nhân nhục 10g
Sài hồ 10g
Ngư tất 10g.
- Cách dùng: Tán bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 12g. Ngày nhau nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn lúc đói với nước chín hoặc rượu nhạt. Khi dùng toa này nên kiêng giao hợp ít lâu, ăn uống ấm, kiêng đồ ăn sống, lạnh.
8b. Lộc thai 60g
Thục địa 60g
Ma tước noãn 60g
Tử hà xa 60g
Cẩu kỷ tử 50g
La bặc tử 60g.
- Cách dùng: Tán bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, mỗi hoàn nặng 13g. Sau khi sạch kinh, mỗi ngày nhai nuốt 1 lần vào buổi tối, mỗi lần 2 hoàn, liên tiếp 5 ngày. Theo kinh nghiệm, không quá 3 tháng sẽ có kết quả.
Bài 9:
- Triệu chứng: Không thụ thai, hành kinh trồi sụt không đúng kỳ, sắc kinh đen có hòn cục, lúc kinh hành bong tướng đau, mỏi lưng, vú căng nhức, sườn đau xóc, chất lưỡi tía tối.
- Biện chứng Đông y: Can uất huyết trệ.
- Pháp trị: Thư Can giải uất thông lach, thúc đẩy thụ thai.
- Bài thuốc: “Ngô thị sơ Can thông lạc trợ dương thang” của Ngô Hy, Y sư thuộc Trung y học viện tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
- Công thức:
Lô lộ thông 20g
Xuyên sơn giáp (chế) 20g
Hương phụ 15g
Xuyên luyện tử 15g
Vương bất lưu hành 15g
Sinh Bồ hoàng 15g
Thanh bì 10g
Sài hồ 10g
Uất kim 10g
Chỉ xác 06g.
Sau khí sạch kinh 4 ngày, sắc uống ngày 1 thang, sắc lấy 2 nước uống sáng và chiều, liên tục 6 thang thì ngưng. Không quá 3 tháng có thể thụ thai.
Bài 10:
- Triệu chứng: Gồm các triệu chứng ở bài 9 kiêm chứng Tâm phiền khát nước, sắc kinh đỏ tươi, đới hạ đặt dính màu vàng, có mùi hôi, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡng vàng, mạch đi Huyền hoặc Huyền Sác.
- Biện chứng Đông y: Can uất huyết nhiệt.
- Pháp trị: Thanh nhiệt khử ứ, điều kinh hòa huyết.
- Bài thuốc: “Vương thị Can uất huyết nhiệt thang” của Vương Dụ Dân, Y sư thuộc Trung y viện Thái An tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
- Công thức:
Đào nhân 10g
Xuyên khung 10g
Sinh địa 20g
Sài hồ 10g
Mẫu đơn bì 12g
Kim ngân hoa 12g
Hương phụ 10g
Hồng hoa 10g
Bạch thược 12g
Đương qui 12g
Hoàng cầm 10g
Mộc hương 06g
Thổ phục linh 20g
Cam thảo 06g.
Sắc uống thang 1 thang.
Bài 11:
- Triệu chứng: Không thụ thai kiêm choáng váng đầu, ù tai, hồi hộp mất ngủ, long đùi tê mỏi, phiền táo nóng uất, miệng khô, hành kinh đúng kỳ hoặc tới sớm, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch đi Huyền Tế Sác.
- Biện chứng Đông y: Âm hư hỏa vượng. Tâm Can mất điều hòa.
- Pháp trị: Tư âm giáng hỏa, điều kinh yên thần.
- Bài thuốc: “Tư âm ức kháng thang” của Hạ Quế Thành. Y sư thuốc Trung y học viện Nam Kinh, Trung Quốc.
- Công thức:
Đương qui (sao) 10g
Bạch thược 10g
Xích thược 10g
Hoài sơn dược 10g
Mẫu đơn bì 10g
Thục địa 10g
Câu đằng 15g
Cam thảo 06g.
Sau khi sạch kinh mới bắt đầu uống thuốc, ngày 1 thang, sắc lấy 2 lần nước chia uống 2 lần sáng và tối. Chờ khi trứng rụng, gia thêm Tục đoạn 10g, Thỏ ty tử 10g, Lộc giác phiến 10g, uống thêm 7 thang nữa.
Thời gian dùng thuốc cần ngưng giao hợp vai tháng, đề phòng cảm cúm.
- Gia giảm:
.Kiêm thấp nhiệt có chứng đau bụng, đới hạ lượng nhiều, sắc vàng lẫn trắng, gia Bại tương thảo 15g, Ý dĩ nhân 15g, Bích ngọc tán 10g.
.Kiêm Tỳ vị hư yếu có chứng đại tiễn nhão, bụng trướng, trung tiện (địt) nhiều, bỏ Đương qui, Thục địa, gia thêm Bạch truật (sao) 10g, Sa nhân 3g.
.Kiêm chứng Tâm Can uất hỏa, bầu vú trường đau, ưu uất không giải, ngực bức bối khó thở, gia Sài hồ (sao) 06g, Hắc Chi tử 10g, Hợp hoan bì 10g, Lục ngạc mai 03g.
Bài 12:
- Triệu chứng: Có chồng lâu ngày không thụ thai, thể trạng béo mập, kinh nguyệt đúng kỳ, miệng thường ứa nhiều đàm dãi hoặc hay giọng nhổ ói đàm dãi.
- Biện chứng Đông y: Khí uất đàm kết.
- Pháp trị: Hóa đàm khai khiếu, hóa đàm tiêu ứ.
- Bài thuốc: “Chu thị sơn giáp bối kim tán” của Chu Tăng Bá, Y sư thuộc Trung y học việc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
- Công thức:
Triết bối mẫu 60g
Sinh Xuyên sơn giáp 60g
Kê nội kim 30g.
Cách làm: Tán bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 muỗng cà phê vung, sáng và tối. Khí uống thuốc nên dùng thêm dầu nóng có chất cay thơm bôi vào vùng bụng dưới để giúp việc hành khí hóa đàm hiệu quả hơn.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn