I. Trách Nhiệm Trong Gia Ðình
Trong đời sống của mỗi chúng ta, mọi người đều có những bổn phận cần được hoàn thành. Nếu chúng ta không lơ là, chểnh mảng thì không có gì nguy hiểm; nếu không thì sẽ có những chuyện đáng tiếc xảy ra không thể nào tránh khỏi như : lơ là nhiệm vụ, oán ghét, ấu đả, và xung đột .
Ðể tăng trưởng lòng tử tế, sự cảm thông, lòng từ và sự hòa hợp giữa con người, để có thể sống hạnh phúc, Ðức Phật đã đề ra những trách nhiệm về mặt xã hội cho mọi người nương theo.
Ðức Phật xuất hiện ở Ấn Ðộ và giáo pháp của Ngài đã tồn tại khoảng 2,532 năm. Vài người nói, "Có quá nhiều thay đổi trong thời gian dài đó, và phong tục được thực hành cũng thay đổi theo từng địa phương. Vì vậy vài điều trong giáo pháp của Ðức Phật có vẻ lỗi thời và không thể nào thực tập được."
Ðức Phật không bao giờ có ý kềm hãm con người, và chưa bao giờ Ngài bắt mọi người phải tuân theo lời Ngài mà chưa có sự thể nghiệm hay kiểm chứng. Ngài khuyến khích mọi người hãy đặt câu hỏi về những giáo lý, trong kinh 'Kalama', Ðức Phật nói, "Ðừng tin vào những gì mà mình chỉ nghe nói lại, hay vì đó là tập quán lâu đời, hoặc là nghe rao truyền, hoặc thấy trong kinh điển, hoặc vì đó là bài luận giải rất hay; hãy tự mình suy nghĩ những gì mình nghe được, biết được đây là những điều xấu, có hại, bị chê trách bởi những bậc hiền triết; đây là những điều gây đau khổ cho người, thì lập tức chúng ta từ bỏ chúng. Khi mà chúng ta biết, đây là những điều có lợi ích, đem đến hạnh phúc thì hãy thi hành và thực tập."
Ðức Phật không đề ra những luật lệ nếu chúng không đem lại lợi ích cho con người. Vì thế, để xóa tan nghi ngờ, bạn đọc nên thử hoàn chỉnh những trách nhiệm liên quan đến xã hội để biết được như thế nào mà ta có thể làm lợi ích cho những người thân yêu và những người chung quanh mình.
Trách nhiệm của bậc cha mẹ
Ðức Phật trình bày về nhiệm vụ của cha mẹ đối với con cái như sau; cha mẹ phải khuyên răn con tránh điều ác, khuyến khích con làm việc lành, cho con học chữ hoặc nghề, lo việc hôn nhân cho con và để gia tài lại cho con đúng thời, đúng lúc.
Cha mẹ là những người thầy quan trọng đầu tiên cho con cái. Khi còn nhỏ, con cái sống với cha mẹ và học hỏi nhiều điều nơi cha mẹ và kế đó chúng mới thu thập kiến thức nơi thầy cô giáo.
Khi còn nhỏ dại, sự hiểu biết của chúng chưa trưởng thành. Tâm trí chúng của chúng thường do dự giữa tốt và xấu, và thường dễ nghiêng về những thói quen xấu. Tâm trí của chúng giống như đất sét hay sáp vậy, dễ bị uốn nắn. Và như vậy, muốn được những hình tượng đẹp thì phải nhờ vào 'tay nghề' của thợ đúc tượng. Cũng như vậy, bước đầu huấn luyện con cái rất quan trọng và nương dựa rất nhiều về việc dạy dỗ của cha mẹ.
Trong lúc nầy, cha mẹ hiểu biết sẽ dùng mọi cách thích hợp để răn dạy con cái về những bài học đạo đức cũng như những hiểu biết căn bản. Cha mẹ còn phải quan tâm con cái bằng cách đừng cho con giao du với những thành phần bất hảo để tránh cho con cái mình những ảnh hưởng xấu, có hại.
Những đứa con được nuôi nấng, dạy dỗ tử tế, sẽ là những công dân tốt trong xã hội. Vì vậy cha mẹ cần phải cố gắng sao cho con cái mình nhận được sự dạy dỗ tốt. Có những cha mẹ hiểu biết, dù phận nghèo, vẫn cố gắng hy sinh, cho con ăn học thành tài. Có những bậc cha mẹ làm ăn phi pháp để có tiền lo cho gia đình, nuôi con, nhưng không để con mình tham dự vào việc làm phi pháp của mình. Có bậc cha mẹ, rất tệ, dùng con cái vào việc làm ăn phi pháp của mình. Họ không lo lắng cho con, lại còn hành hạ và lạm dụng chúng thay vì phải thương yêu chúng. Những đứa trẻ bị hành hạ bởi cha mẹ; lúc lớn lên và hiểu biết chúng rất oán ghét cha mẹ chúng. Ðôi lúc chúng tự làm khổ chúng chỉ vì oán ghét sự ác độc nơi cha mẹ. Vì thế, cha mẹ cần phải tránh những hành động tàn ác và làm gương xấu cho con.
Cha mẹ có thể nghĩ rằng những hành động tốt sẽ tự động phát triển khi mà những điều xấu dở bị cấm đoán. Nhưng họ cũng nên biết rằng con cái họ hay do dự khi phải làm những điều tốt.
Thí dụ, có những đứa con tự nó không phải dở, nhưng chúng không thích học hành. Trong trường hợp nầy, cha mẹ cần phải thuyết phục chúng gắng lo học. Cha mẹ nên hết lòng giúp đỡ chúng bằng cách tìm hiểu những yếu điểm của chúng về thân cũng như tâm.
Nếu cha mẹ vì quá thương yêu con cái, để cho con cái mình tự do, muốn làm gì thì làm, mà không một lời răn dạy thì đây không phải là bậc cha mẹ tốt.
Một câu ngạn ngữ Anh nói, "Dẹp cái roi, làm con hư ". Thêm vào đó, con cái có thể trở thành thù địch của cha mẹ. Khi mà chúng không thể kiếm đủ tiền bằng phương tiện chân chánh, vì thiếu hiểu biết, chúng đi theo những kẻ xấu và kiếm tiền một cách phi pháp, hoặc giả chúng có thể phung phí tiền bạc cha mẹ làm ra, hoặc đánh cắp tiền của trong nhà. Trong trường hợp nầy, điều phiền muộn do con cái gây ra có thể kéo theo những phiền toái khác. Ðể tránh gặp phải trường hợp nầy, cha mẹ cần phải hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với con cái.
Cha mẹ cũng đừng quên giảng dạy cho con những hiểu biết về tôn giáo, vì mọi tôn giáo trực tiếp hay gián tiếp đều dũa mài và làm giàu thêm cho con người về mặt đạo đức, hạnh kiểm, tánh tình, v...v...
Hấp thụ giáo lý tôn giáo đối với giới trẻ thật là khó. Cha mẹ nên truyền lại cho con cái gia tài tôn giáo mà họ đang có. Muốn được như vậy, cha mẹ phải là người ngoan đạo sáng suốt, ham học hỏi giáo lý, và biết chọn cho mình một tôn giáo thích hợp để mà thực tập. Ngược lại, cha mẹ sẽ khó mà giải thích tại sao mình theo tôn giáo đó, vì sao họ lại thực tập giáo lý đó, và giáo lý đó đã đem lại lợi ích gì cho cuộc sống hiện tại của họ, v...v... và để noi gương cha mẹ, con cái miễn cưỡng thực hành theo.
Sau đây là một thí dụ cho trường hợp nầy.
Thời Ðức Phật còn tại thế, có một ông trưởng gỉa rất thành tâm, tên là Anathapindika. Con trai ông, Kala, thì không có thích viếng Phật và nghe pháp. Kala không bao giờ nghe lời cha để đi nghe Phật thuyết pháp. Ông trưởng giả mới nghĩ rằng, "Nếu con mình không biết tu tập, thì tương lai nó sẽ phải đi những đường xấu. Hiện nay, không một ai mà không bị ảnh hưởng bởi tiền bạc; vậy ta sẽ thuyết phục nó bằng cách nầy vậy." Nói rồi, ông gọi con trai đến và nói rằng, " Nầy con thân yêu, hãy đến thiền viện, thọ giới và nghe pháp trong một buổi. Khi về, cha sẽ cho con một trăm đồng tiền vàng."
Kala bằng lòng và đi đến thiền viện. Nhưng chàng đâu muốn nghe pháp, nên tìm một chỗ để ngủ và trở về nhà rất sớm. Ông trưởng giả rất vui lòng và bảo người ở dọn bàn cho Kala ăn . Kala bảo phải đưa tiền thưởng trước xong chàng mới ăn, vì sợ cha cho ăn rồi không đưa tiền.
Ngày hôm sau, ông trưởng giả lại nói với con mình rằng, " Con thương, cha sẽ cho con một ngàn đồng tiền vàng nếu con đến viếng Phật và hiểu được một bài kệ. " Như đã giao ước, Kala đến thiền viện và ngồi trước mặt Phật.
Chàng chỉ cần hiểu được một câu kinh là sẽ rời thiền viện tức khắc. Ðức Phật bèn làm cho chàng hiểu sai nghĩa. Kala bèn nghĩ, " Ta sẽ ráng nhớ câu kế tiếp vậy." Thế rồi, chàng ngồi lại và cuối cùng thì nghe trọn vẹn bài pháp, và như vậy Kala đã bước vào ngưỡng cửa đầu tiên của giải thoát với sự thấu hiểu sâu sắc.
Ngày kế tiếp, chàng theo phái đoàn tăng sĩ, dẫn đầu là Ðức Phật đến nhà của mình. Khi thấy Kala cùng Phật và các tăng sĩ đến, ông trưởng giả nhìn con tự nói, "bữa nay thái độ của con ta thật làm ta vui quá.", và ngay khi đó, Kala nghĩ, " Mong rằng cha ta sẽ không đưa tiền thưởng cho ta trước mặt Ðức Phật. Mong rằng cha ta sẽ giấu chuyện ta đi nghe pháp vì tiền thưởng. " Ông trưởng giả mời Phật cùng các tăng sĩ thọ trai. Kala cũng ngồi xuống dùng bữa. Khi Ðức Phật thọ trai xong, ông trưởng giả đặt lên bàn một túi đựng một ngàn đồng tiền vàng trước mặt con trai và nói, "Con thương, con đã học và hiểu được bài kệ, như đã hứa, đây là tiền thưởng của con." Kala rất là mắc cỡ và nói, "Con không cần tiền đâu ", và nhất định từ chối đụng vào tiền đó.
Ông trưởng giả bèn hỏi Phật về thái độ của con mình. Ðức Phật đáp, " Con ông đang bước vào ngưỡng cửa giải thoát, vì thế hắn không muốn lấy tiền của ông đâu. " Mặc dầu ông trưởng giả biết là con mình có thay đổi, nhưng ông muốn Phật xác định điều đó. (Dha, v 178).
Cha mẹ không cần phải ép buộc con cái theo đạo. Chỉ cần nói về đạo và rồi đưa sách cho chúng đọc trong những giờ rảnh rỗi. Chỉ cần như vậy là cha mẹ có thể khiến chúng thích tìm hiểu về tôn giáo.
Khi con cái học kém và không thể học lên cao, thì cha mẹ cần phải cho con một số vốn làm ăn hoặc cho con đi học nghề để có thể tự kiếm sống. Khi mà con cái có một nghề chuyên môn thì chúng sinh sống nơi nào cũng không lo. Tiền của có thể bị mất khi gặp hỏa hoạn, lụt lội, trộm cướp, kẻ thù, hay chính quyền thối nát, hoặc vì con cái ngu si không biết gìn giữ. Vì vậy tốt nhất là dạy cho chúng một nghề, hoặc nhờ vào học vấn mà có thể tự kiếm sống.
Ngày xưa, cha mẹ quyết định sự hôn nhân cho con cái, và người con chỉ vâng lời tuân theo. Ngày nay, tập tục nầy đang dần biến mất. Con cái muốn được tự do lựa chọn người phối ngẫu, và cha mẹ không can dự vào quyết định nầy.
Thật ra, cha mẹ có nhiều kinh nghiệm trong đời sống hôn nhân. Vì thế, họ muốn chọn một người thích hợp cho con họ để con họ sau nầy tránh được những phiền muộn trong hôn nhân, và họ muốn cho con ý kiến của mình.
Vài cặp vợ chồng nghĩ là không phải phận sự của họ săn sóc cha mẹ chồng, hay cha mẹ vợ, bởi vì họ dọn ra ở riêng sau khi thành hôn. Nhưng dù cho họ có ở với cha mẹ chồng / vợ hay không, nếu họ không quên bổn phận của họ đối với cha mẹ, thì lòng tử tế cũng thấm nhuần nơi gia đình và như vậy họ có thể sống chung một cách hạnh phúc.
Cha mẹ chồng / vợ cũng có thể giúp đỡ con dâu hay con rễ tùy theo khả năng của mình. Khi một cặp vợ chồng sống chung với cha mẹ chồng / vợ, họ chỉ cần kính trọng cha mẹ, đừng ganh tỵ, thì sẽ không có chuyện gì . Nếu không, thì sự bực bội, chán ghét và đối đầu là điều sẽ không tránh khỏi.
Con cái khi làm ra tiền, phải nên phụng dưỡng cha mẹ; phải giữ gìn truyền thống của dòng họ, phải hết lòng kính trọng cha mẹ và khi cha mẹ qua đời, con cái phải bố thí và hồi hướng công đức cho cha mẹ.
Tình thương của bậc cha mẹ tốt, thật là vô bờ bến, họ lo lắng cho con cái với tình âu yếm và lo cho con ăn học thành tài. Vì thế, cha mẹ xứng đáng được con cái kính trọng, nhớ ơn, vâng lời và chăm sóc lúc họ già yếu.
Từ khi mang thai đến lúc cho ra đời một đứa trẻ, cha mẹ vui vẻ săn sóc, làm lụng cực nhọc để nuôi con, và hy sinh tất cả vì con. Cha mẹ không bao giờ phàn nàn về việc chăm sóc con mình lúc con còn nhỏ dại. Lúc nào cũng cố gắng lo cho con mình đầy đủ về mặt tinh thần cũng như vật chất. Cha mẹ luôn sẵn sàng hy sinh thân mạng, tiền của, sức khỏe của mình vì con. Tình thương và lòng hy sinh của cha mẹ thật không kể xiết, và khó có thể được đền bù xứng đáng.
Trong thời gian Ðức Phật còn tại thế, có một vị vua ở Ấn Ðộ tên là 'Ajatasattu', có nghĩa là "kẻ thù của cha trước khi được sanh ra", bởi vì khi mẹ của ông đang mang thai ông, bà thèm được uống máu của chồng, tức là cha của ông. Và cha của ông liền lấy dao đâm xuyên qua cánh tay mình để lấy máu đưa cho vợ uống. Một nhà tiên tri trong hoàng cung mới nói rằng, "Ðưá nhỏ sau nầy sẽ giết cha của nó ". Khi nghe như thế, người mẹ có ý định hủy cái bào thai, nhưng chồng bà ngăn lại và nhất định không cho bà thực hiện ý định dù biết rằng mạng sống của ông sẽ bị đe dọa.
Khi Ajatasattu lớn lên, lại hiệp lực với Devadatta, một tăng sĩ có ác tâm. Nghe lời Devadatta xúi dục, Ajatasutta giết cha để chiếm lấy ngôi hoàng đế.
Ajatasutta ra lệnh cho bắt vua cha giam lại,và bỏ đói vua cha cho đến chết.
Cùng lúc, vợ của Ajatasutta vừa cho ra đời một đứa con. Khi Ajatasutta nghe tin mình có đứa con thì tình thương con dào dạt dâng lên trong lòng và Vua liền nghĩ đến vua cha đã chết. Vua nghĩ chắc cha mình cũng thương mình như thế, và rồi Vua đi tìm mẹ để hỏi xem cha mình có thương mình không.
Mẹ vua bảo rằng, " Cha con thương con lắm, cha biết rằng sau nầy con sẽ giết cha, nhưng cha cấm không ai được làm hại con. Lúc nhỏ, con bị chín mé ( y học - một mụt nhọt có mủ sưng lên ở ngón tay hay ngón chân ).
Ngày đó, con đau quá nên ngủ không được, và khóc cả đêm. Cha con mới ôm con vào lòng và ru cho con ngủ. Con đã đặt ngón tay sưng vào miệng cha để cho bớt đau, và rồi con ngủ thiếp đi. Trong lúc đó, mụt nhọt bể, mủ chảy ra, nhưng cha nuốt mủ vào bụng, không dám nhổ ra vì sợ con bị đánh thức."
Khi Ajatasutta nghe mẹ kể xong thì ông rất hối hận về việc mình xử chết vua cha. Từ lúc đó, ông không bao giờ ngủ yên giấc vì toàn gặp ác mộng...
( DA Samannaphala Sutta ).
Con cái khi còn nhỏ, ít khi nào hiểu được tình thương của cha mẹ dành cho mình. Nhưng khi chính những đứa con nầy lớn lên, có gia đình, có con, họ mới hiểu được thế nào là tình thương của bậc cha mẹ. Có những người trẻ nghĩ một cách sai lầm, mình được sanh ra vì dục tính của cha mẹ, và vì vậy cha mẹ phải có bổn phận lo cho mình : bởi thế, đâu cần phải nhớ ơn cha mẹ.
Dù thế nào đi chăng nữa, chúng ta được sanh ra bởi luật tự nhiên hay vì dục tính của cha mẹ, thì chúng ta cũng phải mang ơn hai bậc sanh thành, vì cha mẹ lo lắng cho chúng ta từ lúc sơ sinh cho đến lúc trưởng thành. Nhớ ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, con cái phải giúp đỡ cha mẹ trong công việc nhà, và lo lắng cho cha mẹ khi cha mẹ bệnh hoạn.
Dù không giúp đỡ được cha mẹ bằng vật chất, con cái vẫn có thể lo cho cha mẹ về mặt tâm linh, hoặc là vâng lời, hiếu kính với cha mẹ, để cho cha mẹ có thể sống vui, hạnh phúc trong những ngày còn lại. Trong gia đình mà được như vậy, thì hạnh phúc, an lạc, hài hòa sẽ hiện diện.
Ðể tránh những xung đột và phiền toái trong gia đình, những cặp vợ chồng thích sống riêng, và để cha mẹ sống riêng một nơi khác. Ðiều nầy dường như là rất tốt cho cả đôi bên. Khi cha mẹ còn sức khỏe và có thể tự lo thì không thành vấn đề. Nhưng khi lớn tuổi hơn, thì họ cần sự giúp đỡ của những người khác. Thật là tội nghiệp khi thấy những người già ở một mình, ít bạn, không thân nhân bên cạnh, phải đi chợ một mình. Cho dù những người già có tiền dành dụm để tự lo, họ vẫn không thể nào nhận được sự thương yêu lo lắng do nhân viên xã hội mang lại. Vì vậy, ít nhất phải có một đứa con, trai hoặc gái, dọn về ở chung để săn sóc và an ủi cha mẹ già.
Con cái khi thành tài, thành danh nên giúp đỡ cha mẹ già. Cha mẹ hy sinh, lo lắng, bảo bọc cho con từ lúc sơ sinh cho đến lúc trưởng thành. Họ không mong gì hơn là con họ có chân đứng trong xã hội, và họ rất hãnh diện về điều nầy. Cha mẹ tốt không bao giờ mong đợi con cái trả ơn, hoặc mong hưởng lợi từ tài danh của con mình. Vì thế, con cái không nên do dự, nên sẵn lòng chăm sóc mẹ cha và lo lắng cho họ khi mình có đủ khả năng .
Một vấn đề thường xảy ra trong gia đình đông con. Cha mẹ có khuynh hướng thương đứa con trai hoặc đứa con gái nầy, vì nó làm vừa lòng mình hơn. Trong trường hợp nầy, những đứa con khác sẽ nghĩ rằng cha mẹ thiên vị.
Mặc dù họ có thể không lo lắng cho cha mẹ, nhưng họ vẫn ganh tỵ và ghét cha mẹ. Họ lơ là bổn phận làm con nhưng vẫn ganh ghét anh chị em nào đang giúp đỡ cha mẹ.
Cha mẹ phải chia gia tài cho con cái đúng thời, đúng lúc. Có những trường hợp sau khi chia gia tài xong, thì con cái mạnh ai nấy lo phần mình, bỏ cha mẹ trơ trọi. Vì vậy, cha mẹ cần phải thận trọng trong lúc nầy.
Trường hợp nầy đã xảy ra trong lúc Ðức Phật còn tại thế, có một ông trưởng giả giàu có bốn người con trai. Khi bốn người con trai lấy vợ, ông chia cho mỗi đứa con bốn trăm ngàn đồng tiền vàng để làm vốn. Sau đó ít lâu, vợ ông chết, bốn đứa con sợ rằng cha mình sẽ lấy vợ khác, thì tài sản sẽ phải chia cho những anh em cùng cha khác mẹ. Vì vậy họ bàn với nhau, phải nên chăm sóc lo lắng cho ông hết sức tốt đẹp, và rồi thì họ năn nỉ, khuyến dụ ông chia tất cả gia tài cho họ. Khi thấy các con chăm sóc mình chu đáo, ông trưởng giả đồng ý chia hết toàn bộ gia tài, chỉ để lại cho mình một bộ đồ.
Sau đó, thì ông đến nhà người con lớn để ở, nhưng cũng không bao lâu, người con nghe lời vợ, bảo ông đến nhà người em ở. Cứ thế cho đến lúc ông không ở được với người con nào, ông đành lang thang đi ăn xin sống qua ngày.
Tuổi già sức yếu, phải rày đây mai đó, ông mới tìm đến Ðức Phật xin giúp đỡ. Ðức Phật dạy ông một bài vè đại khái như sau, "Tôi rất vui mừng khi các con tôi ra đời. Tôi chỉ mong chúng thành công, nhưng vì nghe theo vợ, chúng đã đuổi tôi ra khỏi nhà như chó đuổi lợn. Chúng gọi tôi - ' Cha thương yêu, cha thương yêu' nhưng chúng bỏ tôi khi tôi già yếu. Như ngựa già yếu, vô dụng bị chủ bỏ rơi. Một người cha bị con cái bỏ rơi, phải đi ăn xin từng nhà. Cây gậy dẫn đường vẫn có ích hơn những đứa con bỏ rơi cha mẹ. Cây gậy có thể xua đuổi chó và trâu rừng, giúp người già dò đường trong bóng đêm hay tránh những vũng nước. Với cây gậy nầy, người yếu có thể giữ thăng bằng khi sắp té.'
Ông trưởng giả học thuộc và đi xin ăn bằng bài vè đó. Sau đó ông đến pháp hội của Ðức Phật và hát bài nầy, bao người nghe đều bất mãn và họ đòi phải trừng trị những đứa con bất hiếu nầy.
Thời bấy giờ luật xã hội sẽ tử hình những người con không chăm sóc cha mẹ. Vì thế, những đứa con của ông trưởng già quỳ xuống xin cha tha tội cho chúng. Và họ đem cha già về phụng dưỡng hết lòng. Ông trưởng giả sống an vui và cảm ơn Ðức Phật đã dạy ông bài vè ấy. (DhA. v 324)
Bố thí hồi hướng cho cha mẹ đã quá vãng
Con trai cũng như con gái có bổn phận bố thí và hồi hướng công đức cho cha mẹ đã quá vãng. Theo Phật giáo, thần thức của một người sẽ tiếp tục tái sinh cho đến lúc họ không còn ái nhiễm. Những người có chánh kiến, tin tưởng vào kết quả của những hành động thiện, trong lời nói, việc làm và ý nghĩ, sẽ được tái sinh trong cảnh giới trời hay người sau khi chết. Nơi đây, họ sẽ hưởng thụ những quả tốt lành mà họ đã gieo trong kiếp sống trước.
Những người chuyên làm ác sẽ phải tái sinh làm thú hay ngạ quỷ; đây là những cảnh giới thấp mà nơi đó họ sẽ phải lãnh chịu những hậu quả mà họ đã gây ra. Người gian ác, không bao giờ làm việc thiện sẽ tái sinh trong địa ngục.
Chuyện kể rằng có một người kia không bao giờ biết làm điều lành, khi anh ta chết bị đày xuống địa ngục, bị Diêm Vương tra vấn. Anh ta là kẻ bất hiếu đối với cha mẹ, không biết kính trọng những bậc tu hành, không biết săn sóc hiếu kính người già trong gia đình. Diêm Vương hỏi anh ta rằng, "Nầy anh, tại sao trong cuộc sống, anh không chịu làm lành, lánh dữ, để bị xuống đây vậy ? " Anh ta đáp, " Ðâu có ai cho tôi biết là chết sẽ bị phán xét như thế nầy đâu. Nếu được báo trước thì tôi đã thay đổi làm lành lánh dữ rồi."
Diêm Vương nói, " Chẳng lẽ anh không thấy các sứ giả mà ta gửi đến ? "
Anh thanh niên đáp, " Tôi thật chẳng thấy sứ giả nào hết."
Diêm Vương phán, " Tại vì anh không chịu để ý nên mới không thấy thôi. Sứ giả đầu tiên là đứa bé mới sinh ra đời. Sứ giả thứ hai là một ông già tám chín chục tuổi. Sứ giả thứ ba là người bệnh nằm rên rỉ, kêu la. Sứ giả thứ tư là một kẻ ác bị chính quyền bắt tội và tra tấn. Và sứ giả thứ năm là thần chết. Khi thấy những hiện tượng nầy, tại sao anh không lo làm lành, lánh dữ. Nếu bây giờ anh kể cho Ta nghe được một việc thiện anh đã làm lúc còn sống, thì Ta tức khắc sẽ đưa anh ra khỏi chỗ nầy. " (M.iii. 180)
Và vì khi còn sống anh ta chưa làm một việc thiện nhỏ nhặt nào, thế nên cuối cùng thì anh phải đi chịu tội nơi địa ngục.
Nếu một người thân qua đời bị đọa vào đường ngạ quỷ là vì trước khi chết họ không biết buông xả, còn bám víu rất nhiều nơi người và vật. Ngạ quỷ luôn đói khát. Ðức Phật có nói, "Ngạ quỷ hay đứng chờ ngoài bờ tường, ngã tư hay cổng nhà của họ để trông chờ thân nhân bố thí và hồi hướng công đức cho họ, đặng họ có thể nương theo công đức hồi hướng đó mà thoát kiếp ngạ quỷ. Khi một người qua đời, những người còn sống khóc lóc, kêu gào. Những việc nầy không ích lợi gì cho thân nhân đã chết. Tốt nhất là thân nhân hãy bố thí, cúng dường và hồi hướng cho người quá cố như sau, "Ðây là công đức bố thí, cúng dường của thân nhân chúng tôi. Mong là thân nhân chúng tôi được hưởng lợi ích qua sự cúng dường nầy." Cho dù thân nhân có đang ở cõi không tốt, nhân nơi đây mà có thể rời khỏi thế giới thấp để bước qua một thế giới khác tốt hơn. (Khuđakapatha, Tirokutha Sutta).
Ðức Phật có nói, như nước mưa từ vùng cao chảy xuống vùng thấp, những gì chúng ta làm và hồi hướng ở cõi nầy thì ở cõi thấp hơn những ngạ quỷ cũng được lợi ích. Tôi đoán biết tại sao người Phật tử khi cúng dường hồi hướng, thường đổ nước từ tách nầy sang tách khác. Nước lọc đã được tẩy trùng, thì trong, sạch, mát và có thể tuôn chảy khắp nơi. Cũng vậy, người cúng dường phải có được một tâm trí trong sạch, không ích kỷ, không tham, sân, si v..v..
trong lúc họ đang hồi hướng cho thân nhân họ.
Khi tâm trí trong sạch và rộng lượng, một lòng chỉ cầu mong cho thân nhân thoát khổ, và vì vậy, sự hồi hướng đó sẽ mang lợi ích rất nhiều cho kẻ quá vãng. Cho dù thân nhân không bị đọa vào đường của ngạ quỷ, thì công việc hồi hướng cũng không phải hoàn toàn vô ích. Người cúng dường vẫn được năm điều lợi ích sau đây.
Người cúng dường được nhiều người thương mến, người tốt và giàu sang sẽ đến với họ, họ được khen ngợi là người rộng lượng, trong đám đông họ được mọi người kính nể, và cuối cùng sau khi chết, họ chỉ tái sanh trong cõi người, hoặc là cõi trời mà thôi. Vì thế, mọi người nên thực hành bố thí, cúng dường và hồi hướng công đức cho người thân đã quá vãng.
(Còn tiếp)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn