18:03 ICT Thứ bảy, 14/06/2025

Danh mục nội dung

Liên hệ

Trang nhất » Tin Tức » Thông Tin Y Học

Liên hệ

Chữa Trĩ bằng Tây và Đông Y

Thứ bảy - 10/12/2011 07:56
Bệnh Trĩ là một bệnh khó chịu cho rất nhiều người, trong đó có những người thân của tôi cũng mắc phải, có lẽ vì lý do đó mà tôi giới thiệu bài thuốc chữa đầu tiên là bài thuốc “chữa Trĩ”

BẠN ĐÃ BIẾT GÌ VỀ BỆNH TRĨ?

Bệnh trĩ, một bệnh của mạch máu tĩnh mạch. Bệnh tĩnh mạch là một bệnh ở mô, thường là do chất lượng kém của mô tĩnh mạch. Bệnh tĩnh mạch, biểu hiện như là trĩ hoặc suy tĩnh mạch ở chân (nổi gân xanh), là những bệnh thông thường nhất.

Khi các mạch máu tĩnh mạch bị ứ máu thì thành tĩnh mạch bị giãn ra. Những tĩnh mạch bị giãn ra như vậy ở hậu môn thì được gọi là trĩ (cũng còn gọi là dom).

Khi trĩ phát triển to hơn và sưng phồng lên ở hậu môn, chúng có thể lòi ra ngoài hậu môn và khi ta sờ nó có cảm giác mềm mềm (giai đoạn nặng).

Hình ảnh về búi trĩ

Cả nam lẫn nữ đều có thể bị trĩ nhất là từ 30 đến 60 tuổi. Cứ 2 người trên 50 tuổi thì có một người bị trĩ (ít nhất 1 lần trong một đời người).

Các triệu chứng ra sao?

Có 3 cấp độ trĩ:

Độ nhẹ: Búi trĩ lúc khởi đầu hình thành do các tĩnh mạch bị giãn ra và ứ đầy máu, chúng vẫn còn nằm bên trong hậu môn.

Nếu bạn thấy có triệu chứng chảy máu ngay sau khi tống xuất phân thì đó là triệu chứng của trĩ độ nhẹ.

Độ vừa: Búi trĩ sẽ dần dần lớn ra cho đến khi chúng “sa xuống” hoặc lòi ra ngoài hậu môn khi đi tiêu nhưng “co lên” sau đó một cách tự nhiên khi hết cố rặn.

Ngoài việc chảy máu, bệnh nhân có cảm giác ngứa và nóng, khó chịu ở hậu môn, cảm giác đi tiêu không hoàn toàn. Hậu môn bị sưng đỏ lên.

Độ nặng: Búi trĩ lúc nào cũng sa xuống nằm ngoài hậu môn và cần phải dùng tay đẩy vào mới trở lại bên trong được.

Búi trĩ lúc này bị sưng phồng lên, gây đau và dễ dàng chảy máu, nhất là khi phân cứng.

Bệnh nhân có thể không cảm thấy thoải mái khi ngồi, thậm chí bị chảy máu khi ngồi.

Tại sao lại bị trĩ?

Người ta không biết rõ nguyên nhân chính xác của trĩ. Nó có thể có liên quan đến:

- Táo bón: Việc cố gắng khi rặn để tống phân ra có thể tạo một sức ép lên các tĩnh mạch bị giãn và dẫn đến trĩ.

- Thói quen ăn uống không tốt: Thường có liên quan đến việc ăn ít chất xơ, rau quả.

- Di truyền: Gia đình, dòng họ có nhiều người bị trĩ.

- Thai kỳ, sinh đẻ: Sức ép quá mạnh do kích thước và trọng lượng của bào thai có thể làm trầm trọng thêm bệnh trĩ.

Tôi nên làm gì?

Tùy vào việc chẩn đoán bệnh trĩ của bạn, việc điều trị có thể sẽ gồm có:

Các biện pháp bảo tồn: Chế độ ăn uống có nhiều chất xơ, rau quả, ngũ cốc, trái cây…

Điều trị tại chỗ: Dùng thuốc mỡ, pommad thoa tại chỗ hoặc tọa dược.

Điều trị bằng thuốc uống: Uống Ginkor fortlàm hết các triệu chứng do cơn trĩ cấp (như là chảy máu, đau, sưng nóng, đỏ, ngứa ngáy và khó chịu ở hậu môn) và giúp ngăn ngừa tái phát.

Can thiệp phẫu thuật: Nếu các biện pháp kia thất bại.

BỆNH TRĨ: NHỮNG ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT…

BS. Trần Ngọc Anh

“Ai đau khổ vì bệnh trĩ” là tiếng thông dụng trong dân gian để chỉ một trường hợp bệnh vừa gây đau đớn lẫn khó chịu cho những ai mắc phải.

Sơ lược về bệnh trĩ

Trĩ là bệnh dãn phình tĩnh mạch ở hậu môn – trực tràng, biểu hiện rất đa dạng như búi trĩ xơ hóa, trĩ ngoại có huyết khối, trĩ nội có huyết khối.

Trĩ ngoại nằm ngoài hậu môn dễ thấy còn trĩ nội nằm sâu trong hậu môn không thấy được, chỉ khi sa xuống, lòi ra mới thấy được.

Bệnh trĩ thường gặp ở những người bị táo bón kinh niên hoặc đứng lâu, ngồi nhiều làm máu huyết ít lưu thông. Triệu chứng thường gặp là nặng bụng dưới, đi cầu đau và vài giọt máu tươi rỉ ra. Lúc đầu thỉnh thoảng, về sau ra thường hơn gây đau đớn, đi lại khó khăn, ngồi không yên. Không điều trị, trĩ gây ra nhiều biến chứng đau đớn và nguy hiểm như trĩ sa, trĩ bị tắc nghẽn có nguy cơ viêm tĩnh mạch – huyết khối, viêm hậu môn -trực tràng.

Các phương thuốc thường dùng điều trị trĩ

Việc điều trị bệnh trĩ thường bao gồm các nhóm thuốc hỗ trợ tĩnh mạch bằng đường tổng quát với liều cao, thuốc điều trị tại chỗ và thuốc giúp cho sự chuyển vận phân được dễ dàng.

- Nhóm thuốc trợ lực mạnh, bảo vệ mao mạch, cải thiện tuần hoàn tĩnh mạch

Đây thường là các flavonoid vi tinh thể hóa chứa diosmin và hesperdin để làm giảm các trường hợp suy tuần hoàn tĩnh mạch, mao mạch cùng các triệu chứng cơ năng và lâm sàng liên quan đến bệnh lý tĩnh mạch – hậu môn, suy giảm trương lực tĩnh mạch bạch huyết. Ngoài ra cao Ginkgo biloba cũng thường được dùng kết hợp với vitamin P. Liều điều trị thường là 2 tuần.

- Nhóm thuốc điều trị tại chỗ

Thường được dùng dưới dạng tọa dược như Preparatin H, Pommade, kem thoa tại chỗ. Hoạt chất thường là corticoid chống viêm các dẫn chất không corticoid trợ lực mạch, bảo vệ mao mạch kết hợp với thuốc tê dùng điều trị các cơn đau, ngứa, sưng viêm, sung huyết. Ngoài ra trong các trường hợp nứt hậu môn, viêm hậu môn – đại trực tràng, người ta có thể kết hợp với việc thoa kem tạo sẹo và dinh dưỡng da.

Ngoài ra còn có các phương pháp điều trị làm teo trĩ bằng cách tiêm dưới niêm mạc trực tràng ngay trên búi trĩ một dung dịch làm teo trĩ hoặc sử dụng phẫu thuật.

Chế độ ăn uống và những vị thuốc dân gian

Có nhiều nguyên nhân gây ra trĩ trong đó chế độ ăn uống thiếu chất xơ, sinh tố, khoáng vi lượng và dùng nhiều gia vị, chất kích thích dễ dẫn đến táo bón.

- Tăng cường chất xơ và sinh tố

Chất xơ tan được sẽ do các enzym tiêu hóa của tạp khuẩn ruột phân hủy, đó là các polysaccharid trong quá trình chuyển vận ở ruột sẽ giữ lại 20-40 lần trọng lượng nước làm thể tích phân tăng lên và chuyển động dễ dàng. Đó là pectin, chất nhày, alginat (protein từ tảo), hémi – celluloz có trong vỏ bọc các hạt ngũ cốc. Riêng các chất xơ không tan như celluloz & lignin cũng giữ nước gấp 5 lần trọng lượng.

Hàm lượng chất xơ trong một số rau quả

- Đậu trắng:25%- Gạo: 3%

- Bột ngũ cốc:?10,9%?- Dâu tây:6,7%

- Đậu petitpois:?6%- Cam: 1,4%

- Bưởi:?1,2%?- Cà rốt:3,2%

- Măng:?2,4%?- Chuối:?3,4%

- Su lơ:2,6%?- Táo:2%

- Harricotver:?3%- Quả mơ:?2,1%

- Hạn chế các chất kích thích: như gia vị, cà phê, rượu, thuốc lá. Tăng cường các thực phẩm nhuận trường, nhuận gan như a-ti-sô, mật heo, cà tím, rau má, rau đay, đu đủ, khoai lang, mướp, mồng tơi, đậu phộng, đậu nành v.v…

- Cung cấp nước đầy đủ

Khi cơ thể thiếu nước, nước ở khối cặn bã ở ruột bị điều tiết vào cơ thể làm khối cặn bã bị khô đi dẫn đến táo bón. Vì vậy Cần cung cấp lượng nước đầy đủ dưới hình thức uống hoặc canh hoặc dùng nhiều trái cây, tránh nước có chất chát gây bón.

- Vệ sinh tại chỗ

Ngâm mông ngày một lần trong nước lạnh để chống xung huyết.

- Các vị thuốc dân gian

•Rau diếp cá: ăn uống mỗi ngày (trộn dầu giấm, trứng) hoặc sắc nước uống, sắc nước lấy hơi xông rửa.

•Hoa hòe: uống thay trà vì chứa rutin có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của mao mạch hoặc thuốc viên rutin C (kết hợp với vitamin C).

•Khoai lang: trị táo bón bằng cách rửa củ khoai sạch, gọt vỏ, nghiền nát vắt lấy nước uống hoặc ăn củ khoai lang hoặc ăn rau lang luộc mỗi ngày.

•Mướp: chứa chất nhầy trị táo bón.

Ngoài thuốc, các hoạt động thể dục thể thao cũng góp phần điều trị bệnh trĩ.

KHI ĐẠI TIỆN CÓ MÁU TƯƠI

BS. Lê Tuyết Anh

Đại tiện máu tươi là triệu chứng của một số bệnh lý vùng hậu môn trực tràng – đó là hiện tượng có máu chảy ra khi đại tiện và máu có màu đỏ tươi. Số lượng máu chảy ra khi đại tiện có thể ít, chỉ thấm vào giấy vệ sinh hoặc chảy thành tia, thành giọt, kèm theo triệu chứng khác như sốt, đau vùng hậu môn, tùy theo từng bệnh. Đại tiện máu tươi đầu tiên phải kể đến bệnh trĩ, sau đó là Polip trực tràng và đại tràng, viêm, nứt kẽ ống hậu môn, viêm loét đại trực tràng chảy máu…

BỆNH TRĨ

Đây là bệnh rất phổ biến, gặp ở mọi nơi, nhiều nhất ở người lớn tuổi. Ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn bản chất của bệnh trĩ nhờ những công trình nghiên cứu về sự phân bố mạch máu của vùng hậu môn trực tràng. Ống hậu môn là nơi có nhiều mạch máu, tạo thành các búi tĩnh mạch nằm ở lớp dưới niêm mạc, chúng có tính chất cương nên có chức năng của một cái nệm, giữ vai trò khép kín hậu môn. Như vậy trĩ là một trạng thái bình thường, nhưng khi các đám rối tĩnh mạch trĩ này dãn quá mức sẽ tạo thành bệnh trĩ.

Nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ chưa được xác định chính xác.

Nhiều yếu tố được coi như là nguồn gốc phát sinh bệnh trĩ:

+ Tư thế đứng: Trĩ gặp nhiều ở người phải đứng lâu, ngồi nhiều. Khi nghiên cứu về áp lực tĩnh mạch ở bệnh nhân trĩ, người ta thấy ở tư thế nằm áp lực là 25cm H2O – ở tư thế đứng áp lực tăng vọt đến 75cm H2O.

+ Rối loạn đại tiện: như lị và táo bón, bệnh nhân phải rặn nhiều mỗi khi đi đại tiện.

+ Phụ nữ mang thai, sinh đẻ.

+ Có tính chất gia đình.

+ Những khối u ở trực tràng hậu môn, u xơ tử cung… Những u này làm cản trở máu hậu môn trực tràng trở về cũng là những nguyên nhân gây ra bệnh trĩ.

Triệu chứng thường gặp của bệnh trĩ

+ Đại tiện máu đỏ tươi. Đây là triệu chứng sớm nhất và cũng là triệu chứng thường gặp. Lúc đầu chảy máu kín đáo, bệnh nhân tình cờ phát hiện có máu ở giấy vệ sinh hoặc nhìn vào phân thấy một vài tia máu nhỏ dính vào phân rắn, về sau máu chảy thành giọt hoặc phun thành tia như cắt tiết gà. Muộn nữa, cứ mỗi lần đại tiện, ngồi xổm, đi lại nhiều là máu chảy. Kèm theo, bệnh nhân thường xuyên bị táo bón, sau có thể phân mềm vẫn ra máu.

Đau vùng hậu môn, cũng có thể không đau hoặc đau nhẹ. Đau nhiều khi có tắc mạch hoặc nứt hậu môn.

+ Sưng nề vùng hậu môn: Khi có đợt cấp hoặc khi trĩ sa ra ngoài, có thể búi trĩ sưng khá to.

+ Rỉ nước và ngứa vùng hậu môn do viêm ống hậu môn.

Trên đây là những triệu chứng điển hình của bệnh nhân bị bệnh trĩ, nhưng có khi giai đoạn đầu bệnh nhân chỉ có biểu hiện đại tiện máu tươi đơn thuần.

Để chẩn đoán xác định bệnh trĩ cần phải thăm khám trực tràng hậu môn, bằng cách thăm trực tràng và soi ống hậu môn. Qua soi sẽ xác định độ tổn thương của búi trĩ; số lượng búi trĩ, kích thước và vị trí các búi trĩ.

Bệnh trĩ là một bệnh ít nguy hiểm, nhưng gây khó chịu cho người bệnh như đau vùng hậu môn, ngứa hậu môn, rỉ nước vùng hậu môn, đại tiện máu tươi kéo dài dẫn đến tình trạng thiếu máu.

Điều trị bệnh trĩ

+ Chế độ sinh hoạt: Cần hạn chế công việc nặng, tránh ngồi lâu, đứng nhiều, không uống rượu, bia, không dùng các thức ăn dễ gây kích thích như ớt, hạt tiêu và những thức ăn dễ gây tiêu lỏng, nhưng tránh táo bón. Nên ăn những thức ăn làm cho phân mềm, cần vệ sinh giữ sạch vùng hậu môn.

+ Thuốc tại chỗ: Thuốc đạn đặt hậu môn dùng cho các thương tổn nằm trong vùng hậu môn trực tràng. Pomat dùng cho các thương tổn nằm phía rìa hậu môn, Pomat được bôi vào cạnh hoặc đầu ngón tay mang găng, đặt nhẹ vào trong lòng ống hậu môn nơi có thương tổn.

Các thuốc được sử dụng: Proctolog, Proctoglyvenol, Titanorein dạng Pomat hoặc viên đạn.

+ Thuốc toàn thân: Có tác dụng làm bền vững thành mạch như Oaflon, Ginkow procto.

+ Thuốc làm xơ búi trĩ: Được tiêm vào chân các búi trĩ, vào lớp dưới niêm mạc. Các loại thuốc thường dùng:

- Dầu phenol 5%

- Polydocanol.

+ Thắt búi trĩ bằng vòng cao su.

+ Đốt điện: Dùng dao điện một cực, hai cực hay dòng điện trực tiếp, dưới tác dụng của nhiệt, các búi trĩ sẽ đông lại.

+ Liệu pháp lạnh, hiệu pháp quang điện: ít sử dụng.

+ Phẫu thuật: Cắt bỏ búi trĩ khi có tắc mạch, các đám rối tĩnh mạch đã dãn nở lớn, trĩ ngoại.

POLIP TRỰC TRÀNG VÀ ĐẠI TRÀNG

Với bệnh này, bệnh nhân có triệu chứng duy nhất là đại tiện máu tươi với số lượng nhiều, nhiều khi có tình trạng thiếu máu nặng. Đại tiện máu tươi từng đợt, không táo bón cũng chảy máu. Nếu polip có cuống dài và ở thấp gần ống hậu môn, có thể polip sa ra ngoài. Chẩn đoán chính xác bằng soi trực tràng hoặc đại tràng sẽ phát hiện được polip có cuống hay không có cuống, vị trí polip – điều trị bằng cách cắt polip qua nội soi nếu polip có cuống và chưa nghi ngờ ung thư hóa.

VIÊM, NỨT KẼ ỐNG HẬU MÔN

Thường do táo bón, bệnh nhân cố rặn làm cho ống hậu môn sưng, phù nề, đỏ mọng, đôi khi có nứt ống hậu môn. Viêm và nứt kẽ ống hậu môn thường đi kèm với bệnh trĩ.

Triệu chứng điển hình nhất là bệnh nhân rất đau vùng hậu môn, đau thường xuyên khi không đại tiện, máu đỏ tươi thành giọt, đau lưng khi đại tiện, đau nhiều làm cho bệnh nhân không dám ăn, vì ăn nhiều đại tiện nhiều bệnh nhân rất đau.

VIÊM LOÉT ĐẠI TRỰC TRÀNG CHẢY MÁU

Là bệnh tự miễn hiếm gặp ở nước ta. Bệnh nhân đại tiện nhiều lần, lẫn máu tươi, số lượng nhiều, có thể lẫn ít nhầy, nhưng bệnh nhân đau bụng. Chẩn đoán xác định bằng soi trực tràng và đại tràng.

Như vậy, đại tiện máu tươi là triệu chứng của một số bệnh lý vùng hậu môn trực tràng. Khi có biểu hiện triệu chứng này, bệnh nhân cần phải đi khám tại các trung tâm y tế có phương tiện nội soi để chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.

BỆNH TRĨ VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ

BS. Phạm Xuân Hội – BV. Bình Dân TP. HCM

Nguyên nhân

Căn nguyên của bệnh trĩ vẫn còn nhiều bàn cãi. Bệnh trĩ là một biểu hiện bệnh lý có liên quan đến đám rối tĩnh mạch ở vùng hậu môn trực tràng. Khi các đám rối tĩnh mạch này giãn lớn quá mức tì sinh ra trĩ.

Một số người bị viêm đại tràng mãn, táo bón kinh niên, lao động nặng, ngồi, đứng lâu, bị u ở vùng trực tràng, có thai, xơ gan cổ trướng, bị viêm nhiễm vùng hậu môn trực tràng… có thể thấy bệnh trĩ kèm theo.

Bệnh trĩ được phân ra thành trĩ nội và trĩ ngoại.

- Trị nội được chia làm 4 độ:

Độ I: búi trĩ còn nằm trong ống hậu môn.

Độ II: mỗi khi đi cầu búi trĩ sa ra ngoài và sau đó tự tụt lên được vào ống hậu môn.

Độ III: khi búi trĩ sa ra ngoài phải dùng tay đẩy lên mới tụt vào trong ống hậu môn.

Độ IV: búi trĩ thường xuyên lòi ra ngoài hậu môn.

Búi trĩ ở độ III, IV thường phải phẫu thuật.

- Trĩ ngoại: búi trĩ nằm ở ngoài ống hậu môn và được da che phủ.

Một bệnh nhân có thể cùng một lúc bị trị và trị ngoại.

Phương pháp chữa trị

Hiện nay nhiều nước vẫn còn chữa trị bằng những bài thuốc y học dân gian hoặc các loại thuốc tân dược, các thủ thuật và phẫu thuật dựa trên những kiến thức y học được nghiên cứu.

Tuy vậy chỉ có 10% – 15% số người có bệnh trĩ cần được điều trị và trong số bệnh nhân này chỉ có 5% – 10%là phải phẫu thuật.

Thông thường, người bệnh thấy chảy máu khi đại tiện, búi trĩ ló ra ngoài hoặc đau rát, sưng ở vùng hậu môn. Khi gặp các triệu chứng này, người bệnh cần đến gặp các thầy thuốc chuyên khoa để khám bệnh và nếu cần thiếu thì nội soi hậu môn, trực tràng, đại tràng để tìm ra bệnh cho chính xác vì có thể có một số bệnh khác phối hợp như hậu môn như rò, nứt kẽ hậu môn, polype, viêm loét đại trực tràng, ung thư trực tràng hậu môn gây chảy máu.

Nếu bệnh trĩ không gây ra các biến chứng như chảy máu, tác mạch tạo cục máu đông, trĩ sa và làm nghẹt búi trĩ, nhiễm trùng lở loét… thì không cần điều trị. Cần có chế độ sinh hoạt phù hợp như tránh làm việc nặng, ngồi nhiều, tránh táo bón, cữ các chất kích thích như rượu, gia vị… để phòng ngừa các biến chứng của bệnh trĩ.

Cách điều trị cũng tùy thuộc vào loại bệnh trĩ nội hay ngoại và dựa vào mức độ của bệnh. Sau khi khám mới có hướng điều trị cụ thể, rõ ràng như dùng thuốc (thuốc uống, đặt tại chỗ…) hao85c bằng dụng cụ (như tiêm chất xơ, đốt lạnh, thắt túi tĩnh mạch bằng vòng bao su…) hay bằng phẫu thuật để cắt các búi trĩ (dao điện, laser…).

Y học cổ truyền Việt Nam cũng có nhiều bài thuốc chữa bệnh trĩ: thuốc uống dạng nước, bột… hoặc thuốc cao, thuốc bột để bôi… như PG60, khô trĩ tán B, C, chè trĩ, mỡ trĩ, bột ngâm trĩ… Tóm lại, trĩ hay trĩ ngoại đều có chỉ định điều trị khác nhau.

Sau cùng, lựa chọn phương pháp điều trị bằng Đông y hay Tây y tùy thuộc quyết định của người bệnh. Tuy vậy chúng tôi vẫn có lời khuyên: bệnh trĩ cần phải được chẩn đoán chính xác trước khi điều trị hầu tránh những trường hợp có bệnh khác kèm theo như chảy máu u bướu ở vùng hậu môn trực tràng… và khi điều trị cần đến những cơ sở y tế có uy tín, kinh nghiệm và chuyên môn cao để tránh những biến chứng, di chứng đáng tiếc có thể xảy ra về sau như đau, bí tiểu, chảy máu, đại tiện mất tự chủ, s5o gây biến dạng, hẹp hậu môn…

Bệnh trĩ tuy ít gây tử vong nhưng nếu không biết quan tâm phòng ngừa, chữa trị sớm và đúng cách, có thể có nhiều biến chứng và hậu quả là không ít người bệnh tiền mất tật mang, gây tổn hại đến sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc trong gia đình.

DIỀU TRỊ BỆNH TRĨ

Hiện có 3 phương pháp chính chữa trĩ: điều trị bảo tồn ít xâm hại, dùng dụng cụ và phẫu thuật. Việc lựa chọn phương pháp điều trị được dựa trên mức độ bệnh của từng người.

Theo khảo sát mới nhất, hơn 70% người mắc bệnh trĩ là nhân viên văn phòng (ít vận động) hay những người làm việc phải đứng nhiều, người có thói quen sử dụng các chất men, cay. Bệnh nhân thường tìm đến các thầy lang để chữa nên bệnh trầm trọng thêm và có những biến chứng rất khó chữa.

Bác sĩ Dương Phước Hưng, Trưởng khoa Hậu môn học Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM, cho biết, trĩ là bệnh phổ biến, tuy không ảnh hưởng đến sự sống còn nhưng gây khó chịu, giảm chất lượng cuộc sống. Triệu chứng dễ nhận biết nhất của trĩ là đại tiện ra máu đỏ tươi, búi trĩ sa ra ngoài hậu môn. Phần lớn trường hợp có kết quả tốt sau điều trị, nhưng một số ca vẫn có di chứng và biến chứng. Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp điều trị vẫn còn được bàn cãi nhiều.

Hiện nay, các nhà hậu môn học đều công nhận các đám rối tĩnh mạch trĩ là trạng thái sinh lý, giúp tạo nên lớp đệm ở ống hậu môn, kiểm soát sự tự chủ của đại tiện. Phát hiện này đã dẫn đến quan điểm mới về điều trị trĩ: cố gắng bảo tồn lớp đệm. Việc điều trị trĩ được chia làm 3 nhóm chính:

Điều trị bảo tồn ít xâm hại là lựa chọn đầu tiên. Bệnh nhân được khuyên ăn nhiều chất xơ, dùng thuốc tăng cường thành tĩnh mạch, kem bôi tại chỗ hoặc thuốc chống táo bón. Khi điều trị, bệnh nhân nên uống nhiều nước, hạn chế đồ uống có nhiều chất kích thích như cà phê, trà đậm, rượu bia; tránh ăn các chất quá ngọt như chocolate, mứt.

Điều trị bằng phương pháp dùng dụng cụ gồm 3 bước. Đầu tiên là chích xơ. Đây là phương pháp dễ thực hiện, đơn giản và an toàn nhưng phải bác sĩ giàu kinh nghiệm làm thì mới cho kết quả tốt và tránh được các biến chứng. Chích xơ chỉ áp dụng cho trĩ độ 1 và 2.

Bước thứ hai là thắt trĩ bằng vòng cao su, được chỉ định điều trị trĩ nội độ 1 và 2, đôi khi được áp dụng cho cả trĩ nội độ 3 nhưng kết quả hạn chế. Nguyên tắc chính của thắt vòng cao su là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sợi xơ dính vào lớp cơ dưới lớp niêm mạc; do đó sẽ cố định ống hậu môn đúng với nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn.

Bước thứ ba là dùng phương pháp quang đông hồng ngoại nhằm làm cho mô bị đông lại bởi tác động của sức nóng, tạo nên sẹo xơ, làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định trĩ vào ống hậu môn.

Phẫu thuật là giải pháp cuối cùng dùng cho trường hợp bệnh trầm trọng, bao gồm khâu treo trĩ, phẫu thuật Longo, khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler. Với các phương pháp này, bệnh nhân sẽ không có cảm giác bị đau khi bị phẫu thuật.

Theo Thanh Niên

TỪ TÁO BÓN ĐẾN BỆNH TRĨ

Trong cuộc đời ai cũng có ít nhất vài ba lần bị táo bón. Đây chỉ là triệu chứng chứ không phải một bệnh. Táo bón nhẹ và ít thường không nguy hiểm, nhưng nếu kéo dài, nó có thể dẫn đến bệnh trĩ.

Táo bón khiến người bệnh phải rặn mạnh khi đại tiện, làm tăng áp lực trong bụng, cản trở sự lưu thông máu trong các tĩnh mạch ở vùng hậu môn. Nguyên nhân gây táo bón thường là ăn không đủ chất xơ, lười vận động, có thói quen nhịn đại tiện… Sự kiêng khem quá mức hoặc việc uống viên sắt khi mang thai cũng có thể gây táo bón. Nếu không được khắc phục, lâu ngày, các tĩnh mạch bị tổn thương nặng nề, gây nên trĩ.

Khi mắc bệnh trĩ, người bệnh thường có cảm giác ngứa ngáy, đau hậu môn, chảy máu tươi khi đại tiện. Bệnh trĩ được chia làm hai loại: trĩ nội (búi tĩnh mạch nằm trên cơ thắt hậu môn) và trĩ ngoại (búi trĩ tĩnh mạch ở dưới cơ thắt hậu môn và tụt ra ngoài, có thể nhìn thấy bằng mắt thường). Nếu để lâu ngày không điều trị, trĩ nội sẽ tụt xuống và sa ra ngoài, trở thành trĩ ngoại. Bệnh nhân sẽ rất khó chịu do búi trĩ sưng đau, rỉ máu và hay nhiễm trùng khi đi đại tiện.

Chính vì những đặc điểm này, người bị bệnh trĩ cần phải khám ngay từ đầu để có hướng điều trị sớm bằng nội khoa, giúp bảo vệ thành mạch, tăng sức bền của thành mạch, giảm phù nề, xung huyết ở các tĩnh mạch vùng hậu môn; giảm đau đớn cho người bệnh. Không nên để lâu dẫn đến nhiễm trùng, việc điều trị trở nên phức tạp.

Để phòng ngừa bệnh trĩ:, cần có chế độ ăn uống hợp lý, tránh táo bón lâu ngày.

Nên ăn nhiều rau, hoa quả tươi, uống nhiều nước, vận động cơ thể thường xuyên để tăng ngu động ruột. Những người phải làm việc ở tư thế bất lợi (ngồi lâu, đứng nhiều) cần kết hợp nghỉ ngơi, giải lao và vận động hợp lý để ngăn chặn bệnh trĩ. Tập thói quen đi đại tiện ngày 1 lần vào giờ cố định.

Khi thấy hiện tượng táo bón kèm đại tiện ra máu, cần đi khám thầy thuốc nội tiêu hóa để được hướng dẫn chữa trị sớm.

Những người đã bị trĩ cần chú ý vệ sinh để phòng viêm nhiễm, hằng ngày và sau mỗi lần đi đại tiện, phải rửa vùng hậu môn bằng nước muối ấm. Những người bị táo dễ bị nứt hậu môn gây nhiễm trùng nên cũng cần vệ sinh như trên.

BS Nguyễn Văn Thịnh, Sức Khoẻ & Đời Sống

QUAN NIỆM MỚI VỀ ĐIỀU TRỊ TRĨ

Tác giả : PHƯỚC HƯNG

Trĩ là bệnh phổ biến, đứng đầu trong các bệnh vùng hậu môn đến khám ở khoa hậu môn học; Tuy bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân.

Mục tiêu chính của điều trị trĩ là giảm thiểu các triệu chứng gây khó chịu và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân. Một số lớn bệnh nhân có kết quả tốt, tuy nhiên vẫn còn một số trường hợp có các di chứng cũng như các biến chứng sau điều trị. Vì vậy việc chọn lựa phương pháp điều trị hiện vẫn còn gây nhiều bàn cãi…

NHỮNG THAY ĐỔI TRONG ĐIỀU TRỊ TRĨ

Hiện nay với những hiểu biết về sinh bệnh học bệnh trĩ, các nhà hậu môn học công nhận rằng các đám rối tĩnh mạch trĩ là trạng thái sinh lý bình thường, tạo nên lớp đệm ở ống hậu môn, giúp kiểm soát sự tự chủ của đại tiện. Từ phát hiện này, quan niệm mới về điều trị trĩ là cố gắng bảo tồn lớp đệm này, do đó có nhiều thay đổi trong điều trị trĩ.

Các nhà hậu môn học chia điều trị trĩ làm 3 nhóm chính:

ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN, ĐIỀU TRỊ ÍT XÂM HẠI

Là sự lựa chọn ban đầu trong điều trị trĩ

1. Chế độ ăn nhiều chất xơ

Giúp phòng ngừa táo bón và làm giảm triệu chứng của bệnh trĩ. Những người thường đứng lâu, ngồi lâu, không có thói quen đi cầu đúng giờ, làm việc căng thẳng sẽ có nguy cơ cao mắc bệnh trĩ. Vì thế nên tập thể dục và ăn nhiều chất xơ để làm giảm các triệu chứng trĩ.

2. Thuốc tăng cường thành tĩnh mạch

Được y học chứng cứ ghi nhận làm giảm được các triệu chứng trĩ. Sử dụng những thuốc này là chọn lựa đầu tiên trong điều trị trĩ.

3. Thuốc tọa dược và kem bôi tại chỗ

Thường được sử dụng kết hợp với thuốc tăng cường thành tĩnh mạch, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào chứng minh hiệu quả và được y học chứng cứ công nhận.

4. Thuốc chống táo bón

Khi điều trị trĩ, các bác sĩ thường chú ý đến việc điều trị các rối loạn lưu thông ruột như tiêu chảy và táo bón. Nhưng các nhà hậu môn học khuyến cáo rằng khi sử dụng thuốc trị táo bón nên dùng thuốc tạo khối phân, tránh sử dụng thuốc nhuận tràng và thuốc xổ vì sẽ làm tăng triệu chứng trĩ.

CÁC PHƯƠNG PHÁP DÙNG DỤNG CỤ

Có 3 phương pháp điều trị thủ thuật chính, được y học chứng cứ công nhận là chích xơ, thắt trĩ bằng vòng cao su và quang đông bằng tia hồng ngoại. Nguyên lý chung là tạo nên xơ sẹo làm dính lớp dưới niêm mạc vào lớp cơ ở dưới lớp dưới niêm mạc, cố định trĩ vào ống hậu môn và làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ.

Các phương pháp điều trị thủ thuật có chống chỉ định với các trường hợp trĩ nội, trĩ ngoại tắc mạch, nứt hậu môn kèm theo, viêm mủ hậu môn và bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch.

1. Chích xơ

Là phương pháp dễ thực hiện, đơn giản, nhanh chóng và an toàn. Mục đích chính của chích xơ là làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo cơ dính vào lớp cơ dưới lớp niêm mạc, giúp giảm triệu chứng chảy máu.

Chích xơ được chỉ định trong trĩ độ 1 và trĩ độ 2.

Trong kỹ thuật chích xơ cần chú ý một số vấn đề:

- Sử dụng đúng loại kim: Kim dài, có ngạnh chặn ở gần đầu kim để tránh xuyên thấu sâu, nếu có kim gập góc thì rất tốt và dùng ống chích chuyên dùng. Thuốc chích xơ thường dùng hiện nay là dầu phenol và polidocanol.

- Vị trí chích là lớp dưới niêm mạc ở gốc búi trĩ. Khối lượng thuốc bơm khoảng 3-5ml, bơm chậm, trong lúc bơm thuốc nếu thấy chỗ chích đổi màu trắng là đã chích vào lớp thượng bì, ngừng chích ngay vì sẽ gây biến chứng loét hoại tử sau chích.

- Vị trí chích thông thường là ở 4g, 7g và 11g.

- Biến chứng:

+ Chảy máu chỗ chích: nếu phát hiện trong lúc chích, phẫu thuật viên sẽ dùng gạc đè vào, nếu không giảm phải dùng dụng cụ thắt trĩ bằng vòng cao su thắt vùng chảy máu.

+ Chích vào tuyến tiền liệt: trong trường hợp chích quá sâu ở vị trí 11-1g có thể gặp biến chứng bí tiểu, viêm mào tinh và tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt, rò hậu môn âm đạo…

2. Thắt trĩ bằng vòng cao su

Thắt trĩ bằng vòng cao su được chỉ định điều trị trĩ nội độ 1 và 2, một số tác giả áp dụng cho cả trĩ nội độ 3 nhưng kết quả giới hạn.

Nhiều nghiên cứu cho thấy thắt trĩ bằng vòng cao su có hiệu quả tốt hơn chích xơ, quang đông hồng ngoại và đông lạnh. Nguyên tắc chính của thắt vòng cao su là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc, do đó sẽ cố định ống hậu môn đúng với nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn.

Tuy biến chứng sau thắt trĩ rất hiếm gặp nhưng lại là vấn đề làm chùn tay thầy thuốc. Nếu thắt không đúng vị trí thì biến chứng đau dữ dội sẽ xảy ra, cần phải tháo ngay vòng cao su thì mới giúp bệnh nhân giảm đau. Biến chứng chảy máu sau thắt là rất hiếm và khối lượng máu chảy thường không đáng kể. Biến chứng trầm trọng và nguy hiểm nhất là biến chứng nhiễm trùng vùng chậu. Triệu chứng sớm của tình trạng nhiễm trùng là sốt, đau và bí tiểu. Khi bệnh nhân có các triệu chứng này cần phải dùng kháng sinh phổ rộng liều cao, nếu cần phải cắt lọc tại chỗ vùng này. Hai biến chứng cũng có thể gặp là trĩ ngoại tắc mạch và nứt hậu môn với tỷ lệ khoảng 1%.

Vấn đề đặt ra là thắt từng búi trĩ cho một lần thắt hay thắt nhiều búi cùng một lúc có làm tăng biến chứng? Các công trình báo cáo đều đồng thuận là thắt 1, 2 hay 3 búi trong một lần đều cho biến chứng như nhau.

3. Quang đông hồng ngoại

Mục tiêu của phương pháp làm đông là làm cho mô bị đông lại dưới tác động của sức nóng, tạo nên sẹo xơ, làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định trĩ vào ống hậu môn. Với tia Laser, dòng điện cao tần cũng có tác động làm đông như tia hồng ngoại, nhưng sự chính xác về độ sâu xuyên thấu của tác động làm đông của 2 phương pháp này không chính xác bằng tia hồng ngoại với máy quang đông. Sự xuyên thấu mô của tia hồng ngoại được định trước bằng cách điều chỉnh tốc độ của tia và độ hội tụ chính xác trên lớp mô này. Máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng cụ điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hòa nhịp tim.

Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2. Phương pháp có ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả; nhưng có nhược điểm là máy khá đắt và thường phải làm thủ thuật nhiều lần.

PHẪU THUẬT

Với các phát hiện về sinh bệnh học và giải phẫu học, từ thập niên 90 có các phương pháp phẫu thuật mới như khâu treo trĩ, phẫu thuật Longo, khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler. Các phương pháp phẫu thuật mới nói trên dựa vào nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn, giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định mô trĩ vào ống hậu môn. Với các phương pháp phẫu thuật này, vùng phẫu thuật nằm trên cột Morgagni, là vùng không có các tiếp nhận cảm giác, do đó khi phẫu thuật vùng này có lợi điểm là không đau.

ĐÔNG Y CHỮA TRĨ

Rau hẹ – vị thuốc tiện dụng và rẻ tiền

Nếu bị đau răng, có thể lấy 1 nắm hẹ (cả rễ) giã nhuyễn, đặt vào chỗ đau, đặt liên tục cho đến khi khỏi. Còn để chữa chứng ho khò khè ở trẻ nhỏ, dùng lá hẹ cắt nhỏ cho vào bát, hấp trong nồi cơm, lấy nước cốt cho bé uống.

Theo Đông y, hẹ vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Sách Bản thảo thập di viết: “Rau hẹ là ấm nhất, có ích cho người, nên ăn thường xuyên”. Theo sách Lễ ký, củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất thần hiệu. Tác dụng dược lý của hẹ cao nhất là vào mùa xuân. Hẹ kỵ mật o­ng và thịt trâu. Những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt không nên dùng hẹ lâu dài.

Theo Tây y, hẹ có tác dụng tăng tính nhạy cảm với insulin, làm giảm đường huyết, giảm mỡ máu, ngăn ngừa xơ vữa động mạch và bảo vệ tuyến tụy. Chất odorin trong loại rau này là một kháng sinh mạnh giúp chống tụ cầu và các vi khuẩn khác.

Sau đây là một số bài thuốc từ hẹ:

- Chín mé (nhiễm trùng sưng tấy đầu móng tay): Rau hẹ (cả củ và rễ) giã nát, xào với rượu để chườm, bó rồi băng lại. Thay băng nhiều lần.

- Rôm sảy: Rễ hẹ 60 g sắc lấy nước uống.

- Cảm mạo, ho do lạnh: Hẹ 250 g, gừng tươi 25 g, cho thêm ít đường, hấp chín, ăn cái, uống nước.

- Táo bón: Hạt rau hẹ rang vàng, giã nhỏ, hòa nước sôi uống ngày 3 lần. mỗi lần 5 g. Hoặc: Rau hẹ 200 g thái nhỏ, đậu phụ 100 g thái quân cờ, miến 50 g ngâm cắt vụn. Xào khô già với nước tương, muối, mì chính, hành, gừng, dầu vừng, trộn đều, viên làm nhân. Lấy bột mì 500 g nhồi nhuyễn, cán mỏng, bọc nhân làm thành bánh, chưng chín để ăn. Cũng có thể lấy hẹ 200 g cắt đoạn dài, xào với giá đậu xanh.

Để đề phòng táo bón, mỗi buổi sáng có thể giã hẹ lấy nước, uống trước khi ăn sáng.

- Đái dầm, tiêu chảy lâu ngày ở trẻ em: Rễ hẹ tươi 25 g, gạo 50 g. Rễ hẹ vắt lấy nước, cho vào nồi cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.

- Nấc do lạnh: Giã nát hẹ, thêm chút nước rồi lọc lấy nước uống.

- Đau họng: Lá và củ hẹ giã đắp lên cổ, băng lại, nhai củ cải, lá húng chanh và nuốt nước.

- Bế kinh: Hạt rau hẹ 10 g, hạt dành dành 10 g, sắc nước uống ngày 2 lần. Cũng có thể lấy rau hẹ 250 g giã lấy nước, hòa với đường đỏ, đun sôi để uống.

- Di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương. Dùng một trong các bài thuốc sau:

+ Rau hẹ tươi 500 g giã lấy nước, uống ngày 2 lần, uống trong một tuần.

+ Rau hẹ 200 g, tôm nõn 200 g, xào ăn với cơm.

+ Rau hẹ xào gan dê: Rau hẹ 150 g, gan dê 150 g. Món ăn này còn có tác dụng làm sáng mắt.

+ Lươn 500 g lọc bỏ xương, cắt khúc, xào qua, thêm gia vị, gừng, tỏi và nước. Khi nước cạn, cho 300 g rau hẹ cắt khúc, xào thêm 5 phút. Ăn nóng.

+ Hẹ 20 g, gạo 90 g, nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần. Bài này còn dùng chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém, phân sống nát, chân tay lạnh.

+ Hẹ 240 g, hồ đào nhục (quả óc chó) 60 g, xào với dầu vừng và ít muối. Ăn ngày 1 lần lúc đói hoặc vào bữa cơm. Dùng từ 2 tuần đến 1 tháng. Thuốc còn dùng chữa táo bón, đau lưng đau đầu gối, tiểu tiện luôn, nữ giới bị khí hư, lãnh cảm.

+ Hạt hẹ 15 g xào chín, gạo tẻ 50 g, nấu cháo ăn hằng ngày.

+ Rau hẹ, dây tơ hồng xanh, ngũ vị tử, phúc bồn tử, câu kỷ tử, nữ trinh tử lượng bằng nhau, phơi khô tán bột, mỗi lần uống 6 g. Ngày uống 2 lần với nước ấm. Bài thuốc này còn có tác dụng chữa đi tiểu nhiều lần.

+ Rau hẹ 30 g, phúc bồn tử 1,5 g, dây tơ hồng xanh 20 g. Sấy khô, tán bột, làm thành viên. Dùng mỗi lần 3 g, ngày 3 lần.

+ Hạt hẹ 20 g, câu kỷ 30 g, ba kích 15 g, hồng sâm 20 g, lộc nhung lát 10 g, đường phèn 200g, rượu trắng 200 g. Ngâm ít nhất nửa tháng.

- Lên cơn hen: Lá hẹ một nắm giã nát lấy nước uống, hoặc sắc lên để uống.

- Sơn ăn lở loét: Lá hẹ giã nát, đắp lên chỗ tổn thương.

- Chữa ghẻ: Rau hẹ 50 g, rau cần 30 g, 2 thứ giã nát, đắp lên chỗ tổn thương. Ngày làm 2 lần.

- Giun kim: Rễ hẹ giã lấy nước cho uống.

- Thối tai (viêm tai giữa): Lá hẹ 1 nắm rửa kỹ, giã nhuyễn, lấy nước nhỏ vào tai cho đến khi khỏi. Có thể dùng cho trường hợp kiến, muỗi bò vào tai.

- Trĩ sưng đau: Lấy 1 nắm to lá hẹ cho vào nồi đất cùng với nước, dùng lá chuối bịt kín, đun đến khi sôi thì nhấc xuống, chọc một lỗ thủng trên lá chuối cho hơi bay lên để xông trĩ. Khi thấy hết hơi thì đổ ra chậu, ngâm rửa hậu môn. Cũng có thể giã nhuyễn lá hẹ cho vào chậu rồi ngồi lên (để trĩ tiếp xúc trực tiếp với lá hẹ).

- Lòi dom: Lá hẹ 1 nắm giã nhỏ, trộn giấm, đảo nóng, gói trong 2 miếng vải xô sạch, thay nhau chườm và chấm hậu môn.

- Chứng tâm hãn (mồ hôi ra không ngớt, chỉ khu trú ở vùng ngực): Dùng 49 cây hẹ (cả gốc) rửa sạch, cho vào 2 bát nước, sắc còn 1 bát, uống liên tục nhiều ngày cho đến khi khỏi.

- Viêm loét dạ dày thể hàn; đau vùng thượng vị, buồn nôn hoặc nôn do lạnh: Rau hẹ 250 g, gừng tươi 25 g, tất cả thái vụn, giã nát, lọc lấy nước, đổ vào nồi cùng với 250 g sữa bò. Đun nhỏ lửa cho đến khi sôi, uống nóng.

- Tiểu đường: Củ hẹ 150 g, thịt sò 100 g. Nấu chín, nêm gia vị, ăn thường xuyên. Người bị ra mồ hôi trộm (âm hư tự hãn) dùng món này cũng tốt.

- Lỵ amíp: Nấu canh hẹ cá giếc (ngày 1 con), ăn cái, uống nước, dùng trong 1 tuần.

BS Phó Đức Thuần, Sức Khoẻ & Đời Sống

CHỮA TRĨ BẰNG ĐÔNG Y

PGS.TS. Dương Trọng Hiếu

Theo Đông y, trĩ là bệnh phát sinh ngoài giang môn – đa phần bệnh nhân có ứ tích nhiệt thấp, ăn đồ cay nóng nhiều, kéo dài, hoặc do ngồi lâu huyết mạch không lưu thông, hoặc do đại tiện táo. Phụ nữ khi đẻ dùng sức rặn nhiều hoặc người bị lỵ kéo dài, trọc khí ứ, huyết khu trú ở giang môn.

Có lẽ bệnh trĩ xuất hiện quá sớm nên sách cổ cách đây hàng ngàn năm đã nêu phương pháp phòng chữa bệnh này như sau:

Người bệnh có tích thấp nhiệt lâu ngày nên cần phòng tránh thấp và nhiệt. Thấp hại tỳ.
Thấp liên quan đến điều kiện sinh sống làm việc nơi ẩm thấp kéo dài hoặc ăn nhiều chất nhờn béo.
Tỳ là cơ quan có chức năng vận chuyển biến hóa thức ăn. Tỳ thống nhiếp huyết nghĩa là giúp dòng máu lưu thông. Nếu máu thoát ra ngoài mạch là tỳ yếu. Lo nghĩ hại tỳ.
Can có chức năng tàng huyết – uất ức kéo dài sẽ sinh nội nhiệt – nhiệt cũng làm máu dễ chảy ra ngoài, ăn uống các chất cay nóng cũng tăng sinh nhiệt.

Việc búi trĩ hay giang môn sa ra ngoài là do khí hư, tỳ khí hư không có khả năng nâng lên. Nhưng đã nói đến khí không thể không nói đến phế. Phế chủ xuất nhập khí. Phế khí yếu sẽ làm cho ăn uống kém như vậy lại ảnh hưởng đến tỳ khí. Cơ thể muốn khỏe mạnh, các cơ quan hoạt động điều hòa thì khí và huyết của cơ thể phải đủ và lưu thông. Khí lưu thông huyết mới lưu thông. Huyết lưu thông thì khí cũng lưu thông. Người ngồi lâu ở một tư thế, hay bị lỵ mà phải rặn nhiều sẽ làm rối loạn lưu thông khí huyết. Huyết ứ trệ, gây căng dãn mạch vùng môn. Càng ứ lâu lưu thông huyết càng kém và mạch càng dãn có thể vỡ mạch sinh chảy máu đó là trĩ xuất huyết. Phòng bệnh trĩ là luôn giúp cho khí huyết đủ và lưu thông. Công việc phải ngồi xổm nhiều, người lao động khiêng vác nặng mệt nhọc hay thời điểm sinh đẻ, phụ nữ phải rặn nhiều đó là điều kiện thuận lợi để trĩ hình thành hay đã bị trĩ sẽ nặng thêm.

Để điều trị trĩ, Đông y dùng thuốc ngâm bôi và thuốc uống.

+ Thuốc ngâm bôi

Sử dụng thuốc ngâm bôi tốt với trường hợp sau khi đại tiện trĩ bị lòi ra ngoài hậu môn.
Công thức thuốc ngâm bôi theo nguyên tắc làm mềm, làm khô búi trĩ để có thể tự co lên.
Bài 1: Hoàng bá 20g, lá móng 20g, tô mộc 30g, binh lang 10g, sa sàng 20g.
Bài 2: Sa sàng 20g, ngũ bội 20g, tô mộc 30g, hoàng bá 20g, binh lang 10g.
Bài 3: Tô mộc 30g, ngũ bội 20g, hoàng đằng 20g, hoàng liên 10g.
Ngày đun 1 thang. Cách làm: cho 6-7 bát nước (1-2 lít nước) đun sôi liên tục 10-15 phút chắt ra chậu sạch. Sau mỗi lần đại tiện xong rửa sạch hậu môn rồi ngồi ngâm 10-15 phút.
Lấy tay ấn búi trĩ lên, sau đó nằm nghỉ 10-15 phút rồi mới đi lại.

+ Thuốc uống: Tùy thể bệnh có thể dùng một trong các bài thuốc sau:

-Nếu người bệnh đại tiện ra máu đỏ, miệng đắng, nhớt, đó là thấp nhiệt uất tích trường vị.

-Bài thuốc: Địa du 15g, quyển bá 15g, nha đảm tử bọc trong long nhãn 20g, đun nước uống.

- Nếu đại tiện khó, phân có máu không tươi, ngực bụng trướng đầy.

Bài thuốc: Hoàng liên 10g, trần bì 30g, sơn tra 10g, khương truật 10g, bạch đầu ông 20g, hoàng bá 15g, thần khúc 10g, mộc hương 10g, mã sĩ liên 30g, trần bì 10g, ô mai 15g, mạch nha 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nếu người bệnh đau vùng hậu môn.

Bài thuốc: Đương quy 10g, hòe hoa sao 1g, đại hoàng đốt thành than 10g, xuân bì tán 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nếu đại tiện máu đỏ tươi hoặc nhạt, phân không thành khuôn, người mệt, nói nhỏ, bụng trướng, có thể đau bụng, mạch huyền sác vô lực.

Bài thuốc: Hoàng kỳ 20g, táo nhân sao 12g, trắc bá diệp 10g, đương quy 12g, phục linh 10g, đảng sâm 20g. Sắc uống, pha thêm 1 thìa mật o­ng.

- Nếu có biểu hiện uất nhiệt: Hoàng kỳ 30g, thăng ma 10g, đại hoàng sao đen 8g, sài hồ 12g, đảng sâm 15g, bạch truật 15, gừng nướng cháy 10g, địa du thán 10g, bạch cập phấn 6g, cam thảo 10g, xích linh 15g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Người bị trĩ có kim chứng ho, tức ngực khó thở, người mệt mỏi: Mạch môn 12g, hoàng kỳ 20g, đương quy 12g, cát cánh 10g, cát lâm 12g, hoàng cầm 12g, ngũ vị 8g, bạch truật 16g, đan sâm 16g, tử uyển 10g, cam thảo 6g, khoản đông hoa 10g, xích thược 1g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nếu trĩ sa ra ngoài, lưng đau, người bệnh phiền táo không yên, có thể dùng: Tử hoa địa đinh 8g, cúc hoa 8g, kim ngân hoa 12g, xích thược 12g, bán chi liên 10g, thảo hà sa 10g, bồ công anh 12g, cam thảo sống 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chế độ ăn với người bị trĩ là nên kiêng chất cay nóng, giảm chất chua, giảm hoặc bỏ thuốc và rượu, giảm hoạt động tình dục, tránh căng thẳng suy nghĩ nhiều làm khí yếu bệnh tăng.

PGS.TS. Dương Trọng Hiếu

TỰ CHỮA BỆNH TRĨ BẰNG ĐÔNG Y

Do quan niệm “thập nhân cửu trĩ” (mười người thì 9 người bị trĩ) nên kho tàng kinh nghiệm chữa trĩ của Đông Y rất phong phú và hiệu quả. Bạn có thể tham khảo một số bài thuốc và cách thức bấm huyệt để điều trị bệnh này.

Tự bấm huyệt

Các huyệt chủ yếu được chọn là Bách hội, Thượng liêm, Khổng tối, Thừa sơn, Phục lưu.

Huyệt Khổng Tối

Huyệt Thượng Liêm

Huyệt Túc tam lý

Khổng tối là huyệt khích của Thủ thái âm Phế kinh, có vị trí nằm ở gần khuỷu tay, cách cổ tay lên trên 7 thốn (nếu tính từ lằn chỉ cổ tay đến lằn nếp khuỷu là 12 thốn thì huyệt vị này có vị trí bằng 7/12 khoảng cách trên).

Bách hội có vị trí nằm chính giữa đỉnh đầu, giao điểm của đường chính trung và đường nối hai đỉnh vành tai. Theo tài liệu cổ, bách hội là nơi hội tụ của lục phủ ngũ tạng, có tác dụng nâng được dương khí bị hạ hãm.

Túc tam lý là huyệt thuộc kinh Túc dương minh vị, có vị trí nằm ở gần đầu gối, cách hõm ngoài đầu gối ngang một bàn tay khoảng 3 thốn. Khi phối hợp với huyệt Thừa sơn, nó có tác dụng sơ thông trệ khí ở tràng vị (ruột và dạ dày). Cổ nhân cho rằng tràng vị hòa thì nhiệt độc được thanh, bệnh lỵ và trĩ sẽ khỏi.

Thượng liêm là huyệt thuộc kinh Thủ dương minh Đại tràng, nằm dưới đầu ngoài nếp gấp ở khuỷu tay 3 thốn.

Thừa sơn là huyệt thuộc kinh Túc thiếu dương bàng quang, nằm ở bắp chân, chỗ trũng của 2 bắp cơ sinh đôi, khi co bắp chân sẽ hiện rõ khe của cơ sinh đôi này. Theo Đông y, Thừa sơn có tác dụng làm mát huyết, điều hòa khí các phủ, trị trĩ, sa trực tràng.

Dùng thuốc nam đơn giản

Ổi vừa chín tới, gọt bỏ vỏ ăn một ngày vài quả. Bạn kiểm chứng sẽ thấy cái hay của bài thuốc này. Nếu như ăn cả vỏ thì có thể gây táo bón, nhưng nếu gọt vỏ thì có tác dụng như thuốc nhuận tràng.
Rau sam tươi, rửa sạch, giã nát, đắp vào hậu môn, nơi trĩ sưng lòi ra.
Chữa hậu môn sưng đau, lở nứt, lòi dom (sa trực tràng): Chua me đất, rau sam, mỗi thứ một nắm, bồ kết 1 quả giã nhỏ, nấu nước ngâm rửa, 1-2 lần/ngày.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

KINH NGHIỆM CỦA TÁC GIẢ

Tôi có một bài thuốc chữa Trĩ thật là hay, bài thuốc này do anh Minh con của bác Trần Văn Khê tặng cho tôi, bài thuốc đã được dùng chữa cho rất nhiều người khỏi.

Bài thuốc:

1.Xuyên Tần giao 12gr

2.Đào nhân 12gr

3.Bạch truật 16gr

4.Phòng phong 08gr

5.Quy vĩ 12gr

6.Tạo giác (nướng) 12gr

7.Địa du 40gr

8.Kinh giới tuệ (sao đen) 16gr

9.Trạch tả 12gr

10.Binh lang 08gr

11.Thăng ma 12gr

12.Bạch chỉ 12gr

13.Hắc phụ 12gr

14.Chích thảo 12gr

15.Hùynh bá(sao đen) 12gr

Đỗ 3 chén sắc còn 8 phân. Nước thứ hai : đỗ vào 2 chén rưỡi còn 5 phân

Uống khỏang 15 thang bệnh ổn định, 30 thang thì khỏi hẳn. Tùy bệnh nặng hay nhẹ mà uống nhiều hay ít

Tác giả bài viết: BS. Trần Anh Tú

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Đăng nhập thành viên

Thăm dò ý kiến

Cách tổ chức thông tin trên theo bạn là?

Rất thân thiện

Rất đẹp

Hợp lý

Khó sử dụng

Logo Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa
Logo Cơm Chay Dưỡng Sinh Liên Hoa
Các món ăn Liên Hoa quán