Quả hình trứng, màu xanh, nhỏ, mọc lẫn ở giữa lá. Trắc bách diệp không chỉ được trồng làm cảnh mà còn được dùng làm thuốc cầm máu rất tốt. Bộ phận dùng là lá cây phơi khô, dùng sống hay sao cháy.
Theo y học dân tộc, lá Trắc bách diệp vị đắng, tính hơi lạnh, có tác dụng cầm máu, mát huyết, thanh thấp nhiệt ở phần huyết nên được dùng chủ yếu để chữa các chứng bệnh về huyết như thổ huyết, băng huyết, đại tiện ra máu, tiểu tiện ra máu, đi lỵ ra máu... Có thể dùng riêng lá cây sao cháy sắc uống, hoặc kết hợp với các vị thuốc cầm máu khác, liều dùng mỗi ngày 10 – 12g.
Gần đây, các công trình nghiên cứu cũng đã xác nhận: “lá Trắc bách diệp có tác dụng làm co thành mạch máu, làm tăng lượng protrombin toàn phần của máu rõ và mạnh, giảm thời gian Quick, làm tăng khả năng đông máu, rút ngắn thời gian chảy máu. Như vậy có thể kết luận lá trắc bá có tác dụng cầm máu”.
Lá Trắc bách diệp cũng được dùng trong các bệnh xuất huyết, như khái huyết nhẹ và vừa của bệnh nhân lao, chảy máu cam, rong huyết cơ năng tử cung, viêm niêm mạc tử cung và viêm phần phụ có xuất huyết... có hiệu quả cao. Dạng thuốc dùng thuận tiện nhất là thuốc sắc: lá Trắc bách diệp sao vàng đen (không dùng cành), sắc lấy nước đặc, pha thêm nước đường vào cho dễ uống. Liều dùng: người lớn uống mỗi ngày 50 – 70ml dung dịch trên, dùng liên tục từ 5 – 7 ngày. Thường lá Trắc bách diệp được dùng phối hợp với các vị thuốc khác trong các đơn thuốc cầm máu:
Chữa khái huyết do cảm nhiễm phong tà (sốt, ho ra đờm có huyết, miệng khô, mũi ráo...): Lá Trắc bách diệp 20g, lá Ngải cứu tươi 20g, cỏ Nhọ nồi 40g, lá Sen tươi 40g, nước 600ml sắc còn 300ml, người lớn chia uống hai lần trong ngày.
Chữa đại tiện ra máu (viêm trực tràng chảy máu, trĩ): Lá Trắch bách diệp (sao đen) 30g, hoa Kinh giới (sao đen) 30g, Hoa hoè (sao đen) 30g, Chỉ xác (bỏ ruột) 20g; sấy khô các vị thuốc trên rồi tán nhỏ, rây kỹ, cho vào lọ nút kín; người lớn mỗi lần uống 8g với nước đun sôi để nguội.
Nguồn tin: Caythuocquy.info.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn