CẢO BẢN 蒿 本
Ligusticumsinene Oliv.
Xuất xứ: Bản Kinh
Tên khác: Qủy khanh, Qủy tân (Bản Kinh), Vi hành (Biệt Lục), Cao bạt (Sơn Hải Kinh), Thổ khung, Địa tân, Qủy thần, Nhi khanh, Sơn khuân tuy, Bảo sinh tùng (Hòa Hán Dược Khảo).
Tên khoa học: Ligusticumsinene Oliv.
Học khoa học: Umbeliferae.
Tên gọi: Cảo có nghĩa là lúa, bản là gốc. Vì cây có gốc như lúa nên có tên.
Mô tả: Cây thảo sống lâu năm cao 0,5-1m có khi cao hơn, lá mọc so le, kép 2-3 lần xẻ lông chim, cuống là dài 10-20cm phía dưới ôm lấy thân cây, lá chét hình trứng, mép có răng cưa nhỏ, tán nhỏ mang nhiều hoa nhỏ màu trắng. Quả bế đôi gồm 2 phân quả, mỗi phân quả có 5 sống, chạy dọc giữa các sống có 5 bó libe gỗ. Các sống ngăn cách nhau bởi các rãnh nhỏ. Cây này gọi là Tây khung cảo bản.
Phân biệt: Ngoài cây Tây khung cảo bản được mô tả ở trên ra, người ta còn dùng:
. Cây Hương cảo bản, Bắc cảo bản hay Liêu cảo bản vì cây này có nhiều ở Liêu Ninh (Trung Quốc). Cây Hương cảo bản (Ligusticum jeholense Nak et Kitaga) là cây thảo sống lâu năm, cao khoảng 0,1 - 0,6m, thân rễ ngắn, toàn cây rất thơm, thân thẳng đứng phía dưới, đường kính 3,5mm thường có màu nâu tím, lá 2 lần kép lông chim mép có răng cưa, cuống lá phát triển thành bẹ ôm lấy thân. Hoa tự hình tán kép 6-19 cuống tán, dài ngắn không đều, tán nhỏ mang chừng 20 hoa nhỏ màu trắng. Quả gồm 2 phân quả dính nhau, hình thoi, dài chừng 5mm trên mỗi phân quả có 5 sống dọc, mặc tiếp giáp phẳng.
. Có nhiều nơi dùng vị Xuyên khung (Ligusticum wallichii Franch) để thay thế cho Cảo bản, hai cây này khác nhau. Cần chú ý (Xem: Xuyên khung).
. Cũng có thể dùng cây Cảo bản Nhật Bản (Northosmymium japonicum Miq) là loại thực vật mọc hoang, mùa hè có hoa trắng trổ ra 5 cành.
Địa lý: Còn phải nhập của Trung Quốc.
Thu hái, sơ chế: Chọn thân rễ vào tháng giêng, hai, phơi trong râm cho khô, sau 30 ngày, khi dùng cắt bỏ đầu, rửa sạch, xắt lát, phơi khô.
Phần dùng làm thuốc: Dùng thân rễ gần như hình cầu, đường kính 1-3cm mặt ngoài màu nâu sần sùi, mặt trong màu trắng ngà.
Mô tả dược liệu: Thân rễ Cảo bản khô có hình viên chùy không đều, dài khoảng 6-14cm, vỏ ngoài màu vàng đất hoặc màu vàng nâu phần trên thân rễ to hơn, phủ khít nốt ruỗi sắp thành dạng đầu là dấu vết của rễ, phần đỉnh thì có bộ phận tàn dư của thân, phần dưới thân rễ nhỏ gầy, khoảng giữa cách các vết nhăn dọc đều có các đốt phình lớn. Trên đốt cũng có vết rễ có mùi thơm đặc biệt. Nhiều người cho rằng Cảo bản của Tứ Xuyên sản xuất nổi tiếng hơn sản xuất từ Thiểm Tây, được gọi là Tây khung, củ lớn hơn ngón tay cái, sù sì như củ Xuyên khung, nhưng không phải Xuyên khung như một số hàng dược đã thay thế, mùi vị giống Xuyên khung, đắng, thơm, không mốc mọt là tốt.
Bào chế: Không bào chế gì cả, khi dùng chọn loại chắt không mọt là tốt.
Bảo quản: Cất kín, tránh mốc mọt.
Tính vị: Vị cay, tính ấm không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Quy kinh: Vào kinh Bàng quang (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tác dụng : Tán hàn, giải biểu, khư phong, chỉ thống.
Chủ trị: Trị nhức đầu do phong hàn, đau nhức ở đỉnh đầu, thấp khớp, tiêu chảy, đau bụng do hàn thấp.
Liều dùng: Dùng từ 3-9g.
Kiêng kỵ: Âm hư hỏa vượng, không có phong hàn, thực tà: cấm dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Vị này ghét Lan nhự, sợ Thanh tương tử (Bản Thảo Kinh Sơ).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị đau nhói ở tim đã dùng thuốc hạ lợi rồi nhưng không bớt, dùng bài sau để tan độc: Cảo bản 15g, Thương truật 30g, 2 chén nước sắc còn một chén uống nóng (Hoạt Pháp Cơ Yếu).
+ Gội đầu để trừ gầu khô: Cảo bản, Bạch chỉ 2 vị bằng nhau tán bột xức vào đêm trước khi ngủ, sáng mai chải sạch có thể trộn mỡ bôi trên đó (Tiện Dân Đồ Soán).
+ Trị trẻ em lở ngứa: Cảo bản sắc lấy nước rửa, đồng thời nấu để giặt thêm quần áo (Bảo Ấu Đại Toàn ).
+ Trị hàn tà uất ở kinh Túc thái dương có các triệu chứng đau đầu, nhức ở đỉnh đầu: Cảo bản, Khương hoạt, Tế tân, Xuyên khung, Thông bạch sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị cảm phải sương mù, nên thanh tà ở thượng tiêu: Cảo bản và Mộc hương (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị cảm mạo do phong hàn, nhức đầu ớn lạnh, không ra mồ hôi: Khương hoạt 6g, Độc hoạt 9g, Phòng phong 9g, Cảo bản 9g, Mạn kinh tử 9g, Xuyên khung 4,5g, Cam thảo 3g, sắc uống (Khương Hoạt Phòng Phong Thang - (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị đau nhức ở đỉnh đầu, phong hàn phạm vào não, đau nhức ở đỉnh đầu sau hậu đầu, đến răng má, thấp khớp: Cảo bản, Phòng phong, Bạch chỉ, mỗi thứ 9g, Cam thảo 3g 5 sắc uống sau khi ăn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị ngứa lở ngoài da, gầu ngứa đầu: Cảo bản 15g, đậpm dập, sắc lấy nước rửa nơi lở ngứa của trẻ con (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
. Cảo bản chữa được 100 chứng phong độc, qủy chú chạy vào làm đau bụng, đau do gió lạnh, thông được tiểu tiện, lợi huyết mạch, chữa đầu phong, da mặt sần sùi nám đen (Dược Tính Bản Thảo).
. Cảo bản chữa được nốt da sần sùi ở mặt, đỏ mũi, động kinh (Chư Gia Bản Thảo).
. Cảo bản chửa được chứng đau đầu do thái dương, đau nhức ở đỉnh đầu, vẹo cổ vì gió lạnh cảm vào não, đau suốt chân răng lan ra má (Trân Châu Nang).
. Chữa chứng đầu ở mặt, thân thể da bị nổi nốt, phong thấp tà khí (Dụng Dược Pháp Tượng).
. Cảo bản chữa bệnh ở đốc mạch, đau xuống lưng làm cứng đơ không cúi ngửa được có khi phát ra chứng quyết nữa (Thang Dịch Bản Thảo).
. Cảo bản có vị cay khí ấm, sách Biệt lục nói nó có cả vị đắng vì nó bị hỏa hóa nhưng không độc, có thể nhập vào kinh Thái dương. Nó có tính ấm lại hay thông, vì đắng nên tiết được, nếu cay lắm thì phải tán, khí đi lên nên trị đàn bà bị sán khí, trừng hà, đau vì lạnh âm hộ, đau co rút ở bụng là do kinh thái dương bị phải hàn tà hay thấp khí. Vì phong làm ra các chứng nhức đầu bởi gió nhiều vào kinh thái dương thì vị Cảo bản là vị thuốc qúy để chữa cho kinh đó. Vả lại, các chứng ung thư, lở láy cũng đều vì huyết nhiệt lại bị ủng trệ, bị khí độc len lỏi và sâu trong cơ nhục sinh ra đau nhức, lở thối thì phải nên dùng những vị cay cho tan di, vị đắng, cho tiết độc thì tư nhiên độc phải giải hết và chỗ đọng trệ được tiêu tan hết, khi ấy da thịt mới có thể sinh trường đựợc, nhờ thế nhan sắc theo đó mà xinh đẹp quang nhuận (Bản Thảo Kinh Sơ).
. Cảo bản có vị cay tính ấm, khí thăng tán đi lên chuyên vào kinh Thái dương, Thái âm bị gió lạnh hay khí thấp Cảo bản sơ đạt được những khí ấy. Nó lại thông được kinh huyết bị uất trệ. Công dụng gần như vị Tế tân, Xuyên khung, Khương hoạt, tính nó giải được kết tụ, trừ gió lạnh, chữa nhức đầu. Tuy nhiên, các sách của cổ nhân nên phải cẩn Thận thẩm xét bệnh tình cho chính xác, không phân biệt được hàn nhiệt mà đổ lỗi cho sách thì không nên vậy (Tuỳ Tức Cư Ẩm Thực Phổ).
. Cảo bản là một vị thuốc chữa phong nhất là chữa chứng đau đầu, thường kết hợp với Xuyên khung, Bạch chỉ để giúp thêm sức mạnh (Bách Hợp).
. Cảo bản cảm khí dương của Trời, được vị cay của Đất cho nên khí ấm mà đắng, đắng theo hỏa hóa cho nên khi nó bùng, trị được bệnh nhức ở trên đỉnh đầu. Hễ chứng đau do nhiệt ở trong và bệnh ơn thử mùa xuân mùa hè thì không nên dùng (Dược Phẩm Vựng Yếu).
. Cảo bản tân ôn, tính mạnh, vào kinh Thái dương, kèm thông mạch Đốc, vì vậy nó là thuốc chủ yếu dùng để trị ngoại cảm phong hàn dẫn đến đau nhức vùng đỉnh đầu (Thực Dụng Trung Y Học).
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn