Cây hồ lô ba.
Lá mọc so le, có 3 lá chét xoan ngược, dài 1 - 3,5 cm, rộng 0,5 - 1,5 cm, mép có răng ở nửa trên. Hoa đơn độc màu vàng, không cuống. Trái hình trụ thẳng hơi cong, dài 10 - 12 cm, rộng 4 - 5 mm, hơi láng, có mỏ nhọn ở đầu, hột nhiều (10 - 12 cm), màu nâu trắng, hơi hình thoi, dẹp, rất cứng, có mùi thơm. Vị đắng, nhày, gây nôn. Cây của vùng ôn đới ở châu Âu và cả ở Bắc Phi và Á châu. Là cây được trồng để làm thức ăn cho gia súc, làm gia vị và làm thuốc. Từ thời cổ xưa, những người dân sống ở vùng bờ biển Địa Trung Hải và Tây Á sử dụng cây này vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Người ta thu hái trái phơi khô, đập lấy hột dùng. Nước ta cũng có trồng thí nghiệm ở vườn thuốc Văn Điển.
Theo các tài liệu nghiên cứu, trong hột Hồ lô ba có chứa protein 26,2%, lipid 5,8%, khoáng 3%, gồm sắt, calci, phosphor, magnesium, kali, natri, kẽm, đồng, mangan, vitamin gồm có vitamin C, acid folic, thiamin, riboflavin, niacin, chất xơ 3% và 44,2% là bột đường. Theo E. Jahns (Ber. d. Chem. Ges., xviii, 2518 - 2523) có chứa cholin, C5H15NO2 và trigonelline, C7H7NO2. Trong hột còn có saponin, chất dầu, flavonoid và chất nhày, 4-hydroxyisoleucin (acid amin kích thích tiết insulin) và galactomannan có tác dụng làm chậm quá trình hấp thu glucose huyết. Theo y học cổ truyền, hột có vị đắng, tính ấm, có tác dụng ôn thận, tán hàn, chỉ thống.
Theo kinh nghiệm dân gian, Hồ lô ba được dùng trị tạng thận hư yếu, đau dạ dày, đau ruột, chân sưng, đi lại khó khăn do ẩm thấp. Các văn bản tìm được trong các ngôi cổ mộ Ai Cập đã mô tả cách nấu nướng hột khi dùng làm thực phẩm và cách chế biến cây để làm thuốc (trị nóng sốt). Hột khô đã được tìm thấy trong mộ của Tutankhamen. Hippocrates đã dùng hột để trị nóng sốt. Người Ai Cập dùng cây làm một trong các hợp chất để xông hương và để ướp xác. Ở Tunisia, hột làm bột pha lẫn nước đường, dùng cho người gầy yếu, đi tả, đau bụng, sốt rét, có thể sắc hột lấy nước uống. Người ta còn dùng bột trộn với dầu ô liu ăn trị ho. Nước sắc hột dùng súc miệng trị đau bụng và còn dùng hột ngâm trong nước hoa hồng làm thuốc nhỏ đau mắt. Người ta cũng dùng Hồ lô ba chữa nhiều bệnh ngoài da như mụn nhọt, áp xe bằng cách dùng bột hột hòa nước làm thuốc đắp. Lấy các ngọn cây có hoa hơ lửa cho bốc hơi rồi đắp nóng và băng lại dùng trị chín mé.
Phụ nữ Ả Rập, từ Libya đến Syria ăn hột Hồ lô ba rang để tăng cân và giúp tạo thân hình thẩm mỹ theo trường phái Ruben (cho đến thế kỷ 19, thân hình phụ nữ được xem là đẹp cần phải phát triển, nẩy nở và đầy đặn, nhất là các phần hông). Hột còn được dùng để làm thuốc kích thích tình dục (cường dương) và chữa ung thư vú. Riêng với các bà mẹ nuôi con bú tại Ethiopia tin rằng ăn hột Hồ lô ba thì sẽ giúp cho sự tăng tiết sữa. Nó còn giúp cho cơ thể sạch sẽ và khỏe mạnh.
Lá Hồ lô ba có mùi thơm, tính mát và có tính tẩy nhẹ. Hột có tác dụng làm nhuận da và làm da dẻ mịn màng nên rất thích hợp cho phụ nữ, nó còn làm dịu da trong các trường hợp bị kích ứng da và làm giảm sưng đau.
Các nghiên cứu
Theo các nghiên cứu, Hồ lô ba được sử dụng từ lâu đời (hàng ngàn năm theo đông y) để làm thuốc hay thực phẩm và không gây ra những phản ứng độc hại nào.
Phòng thí nghiệm nghiên cứu thuốc và kích thích tố, Trường khoa học nhân sinh, Đại học Jawaharlal Nehru, New Delhi, Ấn Độ.
Mức độ đường huyết tùy thuộc chặt chẽ giữa lượng đường sản xuất và sử dụng. Men gan pyruvat kinase và phosphoenolpyruvate carboxykinase (PEPCK), là 2 enzym quan trọng thủy phân và hình thành glucose trong cơ thể tương ứng, quyết định vai trò nội cân bằng glucose, vận chuyển glucose đến cơ xương (GLUT4). Trong trường hợp bệnh tiểu đường, cân bằng bị phá vỡ bởi vì không có insulin - nhân tố chính kiểm soát sự điều khiển này. Những nghiên cứu gần đây, khi cho động vật bị tiểu đường gây bằng alloxan, có mức glucose trên 300 mmol/L uống bột hạt Trigonella (Hồ lô ba), đánh giá thông qua các chỉ số PK và PEPCK ở gan và GLUT4 trong cơ xương chuột. Kết quả những con vật bị bệnh tiểu đường có sự giảm rõ rệt nồng độ glucose huyết. Thay đổi các chỉ số PK và PEPCK - khôi phục một phần khi điều trị bằng Hồ lô ba. Điều trị bằng TSP cũng hiệu chỉnh sự thay đổi phân bố GLUT4 trong cơ xương.
Khoa chất độc và nhân tố y học, Jamia Hamdard, Đại học Hamdard, New Delhi, Ấn Độ.
Cyclophosphamide (CP) là một thuốc kháng ung thư sử dụng rộng rãi mà chất chuyển hóa có độc tính của nó là acrolein và phosphoramide mustard. Những nghiên cứu gần đây, cao chiết Trigonella foenum graecum L. được đánh giá thông qua lipid peroxidation (LPO) và chất chống oxy hóa trong bàng quang chuột thấy có sự thay đổi của tác hại độc tính do CP và l-buthionine-SR-sulfoximine (BSO). Điều trị thảo dược Hồ lô ba, và chế độ ăn uống đúng mức cho thấy không những hiệu quả bảo vệ trên LPO mà còn trên enzym oxy hóa. Bằng chứng là những con vật điều trị CP giảm có ý nghĩa hoạt động glutathione S-transferase (GST), glutathione reductase (GR), glutathione peroxidase (GP) và catalase (CAT), khi so sánh với mẫu đối chứng. Những con vật điều trị bằng CP có mức giảm glutathione (GSH) và sẽ còn giảm nữa nếu có sự gia tăng LPO. Ở những con vật điều trị bằng CP, có thêm chất độc hại là BSO. Trước đó nếu dùng cao chiết thảo dược điều trị, giúp phục hồi tất cả hoạt động của enzym, điều này chứng minh hiệu quả bảo vệ toàn diện trên những chất độc tạo ra từ CP và BSO. Khi điều trị bằng dịch chiết, sự phục hồi của GSH có thể đóng vai trò quan trọng trong sự đảo cực do CP gây ra (reversing CP-induced apoptosis) và gốc tự do trung gian LPO trong bàng quang. Hồ lô ba, ngoài những điều đã biết như hạ đường huyết, kháng viêm, và tác động điều chỉnh hệ miễn dịch, mà còn là thảo dược có thể có nhiều triển vọng trong liệu pháp bổ sung ở những bệnh nhân ung thư dưới sự can thiệp hóa liệu pháp.
Khoa Hóa, Đại học Yonsei, Seoul 120-749, Hàn Quốc.
Lựa chọn phương pháp khả thi cho điều trị tiểu đường không phụ thuộc insulin, như thay đổi chế độ ăn kiêng, giảm glucose huyết bằng đường uống, và insulin, đều có những hạn chế của chúng. Nhiều sản phẩm thiên nhiên và thảo dược được khuyên dùng để điều trị tiểu đường. Xem lại những tài liệu hiện tại về thảo dược thấy rằng tác dụng kháng tiểu đường trên lâm sàng và thí nghiệm đều được sử dụng trong thuốc cổ truyền; xét lại bao quát sản phẩm thiên nhiên phân lập từ thảo dược được báo cáo trong năm 2001 đến 2005. Có nhiều sản phẩm thiên nhiên, như là terpenoid, alkaloid, flavonoid, phenolic, và một vài loại khác, có khả năng trị tiểu đường. Phần lớn, Schulzeines A, B, C, radicamines A và B, 2,5-imino-1,2,5-trideoxy-L-glucitol, beta-homofuconojirimycin, myrciacitrin IV, dehydrotrametenolic acid, corosolic acid (Glucosol), 4-(alpha-rhamnopyranosyl) ellagic acid, và 1,2,3,4,6-pentagalloylglucose cho thấy tác dụng trị tiểu đường có ý nghĩa. Giữa những loài thảo dược thì Khổ qua (Momordica charantia L.), Giáng hương (Pterocarpus marsupium Roxb.) và Hồ lô ba (Trigonella foenum graecum L.) được báo cáo là điều trị tốt cho tiểu đường type 2.
Toàn bộ hột Hồ lô ba có tác dụng hạ đường huyết ở động vật bị tiểu đường nhẹ hay trung bình, nhưng không hiệu quả ở thể nặng (Bailey and Day, 1989). Bailey and Day cho rằng trong hột Hồ lô ba chứa nhiều chất xơ nên làm giảm hấp thu bởi thời gian đi qua ruột trì hoãn nên làm giảm đường huyết. Hột loại bỏ chất béo cũng làm hạ glucose huyết ngang bằng với glucagon nơi chó, cả bình thường và bệnh tiểu đường (Lawrence Review, 1996). Khi cho bệnh nhân tiểu đường uống Trigonelline của Hồ lô ba, thấy nhược điểm là làm giảm tạm thời glucose trong máu, có lẽ do chất chuyển hóa chậm acid nicotinic, thành phần làm tăng đường huyết (Marles and Farnsworth, 1995). Thêm vào đó, tác dụng của hột Hồ lô ba trên glucose, đặc biệt là chất xơ, giảm mức cholesterol và triglycerid về bình thường, ở động vật và người bệnh tiểu đường (Indian Council for Medical Research, 1987).
Ngoài ra, các nghiên cứu gần đây còn chứng minh cây Hồ lô ba còn có tác dụng bảo vệ tế bào gan chống lại các tác nhân gây hại cho gan như rượu, hóa chất, thực phẩm và giúp điều trị sạn thận rất tốt.
Theo một nhà dinh dưỡng học nổi tiếng ở Anh là Lelord Kordel cho rằng chất dầu đặc biệt có trong hột Hồ lô ba đã giúp cơ thể sạch sẽ và làm cho cơ thể có mùi thơm, ở những người thường xuyên uống trà này. Chất dầu thấm sâu vào các đường và các nếp nhăn trên các màng nhày ruột và ngấm vào các tế bào đồng thời làm cho các tuyến nhờn và bã mồ hôi được tẩy sạch, do đó giúp cho các tế bào trở nên trẻ hóa và tinh sạch hơn, hơi thở thơm tho hơn.
Tác dụng trong y học
Chữa tiểu đường: hột Hồ lô ba là một trong số ít dược thảo được WHO và nhiều quốc gia công nhận là có hoạt tính giúp hạ đường huyết. Các nghiên cứu thực hiện trên những người tự nguyện đều ghi nhận tác dụng hạ đường huyết của hột, nhất là ở những bệnh nhân bị tiểu đường type 2. Hột cũng làm giảm được một số triệu chứng của tiểu đường như khát nước, đi tiểu nhiều lần, yếu mệt và sụt cân.
Liều dùng mỗi ngày là uống 2 muỗng cà phê bột hột Hồ lô ba xay mịn, hòa trong nước canh hoặc sữa, hoặc nhai nuốt trọn 2 muỗng hột đã ngâm và uống hết nước, mỗi ngày; cũng có thể đem ngâm hột trong một ly nước lạnh vào buổi tối và sáng dậy uống hết nước trong ly. Chiều thêm 500 ml nước sôi vào, để nguội, uống rồi tối nhai nuốt hột đã ngâm.
Chữa rối loạn tiêu hóa: lá Hồ lô ba được đun nóng và chiên khô trong dầu ăn mỗi ngày vài lá thì sẽ chữa được các bệnh thuộc đường tiêu hóa như đầy hơi, vàng da và yếu gan. Hột có tác dụng chữa đau bụng, ăn không tiêu, lỵ, tiêu chảy.
Giúp ăn ngon miệng: thuốc giúp ăn ngon miệng dưới dạng trà dược (ngâm 1 g lá hay hột trong 240 ml nước lạnh trong 3 giờ, lược và hâm nóng lại, có thể thêm mật ong khi uống).
Chống thiếu máu cho phụ nữ: nấu chín lá Hồ lô ba và ăn có tác dụng giúp tạo máu, ngăn ngừa chứng thiếu máu và hiện tượng chậm phát triển của các thiếu nữ trong giai đoạn tuổi dậy thì nhờ hàm lượng sắt cao có trong thành phần lá.
Chữa sốt: hột tán bột, dùng nước sôi hãm như một loại trà sẽ thu được một dung dịch có hơi nhày, uống mỗi ngày sẽ có tác dụng làm hạ sốt không kém quinin và nhờ đó nó cũng được dùng điều trị sốt rét rất hiệu quả.
Chữa các rối loạn ở dạ dày: dịch chiết từ hột có tác dụng chống viêm ruột và dạ dày. Nhờ chất nhày trong hột có tác dụng tạo thành một lớp màng bảo vệ niêm mạc dạ dày, giúp ngừa được các chứng loét dạ dày và niêm mạc ruột.
Chữa nhiễm khuẩn đường hô hấp: các trường hợp như viêm họng, ho, viêm phổi, viêm xoang, khó thở, nhiều đờm, hột Hồ lô ba có tác dụng thải độc qua sự tăng tiết mồ hôi. Mỗi ngày uống 4 tách trà bột hột Hồ lô ba, các triệu chứng trên sẽ được cải thiện rõ rệt. Có thể thêm vài giọt chanh vào trà để tăng thêm hương vị. Tuy nhiên trong quá trình điều trị một vài ngày, nên hạn chế ăn uống hoặc đưa vào cơ thể quá nhiều thực phẩm, nhằm mục đích thanh lọc cơ thể.
Chữa hơi thở và cơ thể có mùi hôi: do tích tụ nhiều chất độc hoặc các chất cặn bã trong niêm mạc mũi, họng, đường tiêu hóa, đường tiểu và âm đạo gây hơi thở và cơ thể có mùi khó ngửi. Trong trường hợp này dù có sử dụng nước súc miệng hay Listerin cũng không hiệu quả, nhưng uống trà Hồ lô ba sẽ giúp làm sạch và tống đi các chất cặn bã tích tụ trong cơ thể, giúp cơ thể thơm tho, sạch sẽ.
Trị gàu: ngâm 2 muỗng hột trong nước và để qua đêm. Đến sáng hôm sau lấy hột đã ngâm mềm đem nghiền nát thành một khối dẻo rồi bôi lên da đầu, để yên trong 1 giờ rưỡi. Sau đó gội đầu thật sạch, gàu sẽ được điều trị tốt.
Chữa lở loét miệng: nấu nước lá Hồ lô ba ngậm và súc miệng mỗi ngày sẽ chữa được bệnh loét miệng.
Chữa viêm họng: lấy 2 muỗng hột và 1 lít nước, cho vào nồi và đun lửa nhẹ trong vòng 1 giờ rưỡi. Để nguội rồi lọc. Dung dịch này được dùng như nước súc miệng để chữa viêm họng rất tốt. Uống nước này trong 1 tuần sẽ hết viêm họng, viêm lở miệng.
Chữa sưng tấy và phỏng lửa: nghiền lá hay hột rồi đắp như cao dán lên ngay chỗ sưng đau bên trong hoặc bên ngoài hoặc đắp lên chỗ phỏng, nó có tác dụng làm êm dịu, làm mát và lành bệnh.
Chữa huyết trắng ở phụ nữ: cũng bào chế như nước súc miệng rồi rửa âm đạo sẽ chữa bệnh huyết trắng rất tốt, hoặc uống trà hột Hồ lô ba 1 - 2 tháng cũng hết.
Chữa các bệnh ngoài da: dùng bên ngoài trị sưng tấy và áp xe cũng như vấn đề khác của vết thương dưới dạng bột nhão để đắp.
Hột Hồ lô ba còn điều trị bệnh thấp khớp, ho mãn tính và làm tăng tiết sữa. Lá đắp tại chỗ giảm sưng tấy và áp xe cũng như vấn đề khác của vết thương. Nói tóm lại là không thấy báo cáo độc tính khi dùng cây này.
Cách dùng: thường hấp chín rồi ăn cũng được. Xay thành bột mịn để uống ngày 2 muỗng cà phê vun là tốt nhất. Vì trong lá, hột cũng chứa nhiều vitamin, chất xơ như các loại rau cải và còn có nhiều acid amin, đặc biệt là lysin thường thiếu trong các khẩu phần ăn hàng ngày.
Ở Ấn độ, nhà nhà đều sử dụng hột Hồ lô ba như một loại gia vị không thể thiếu để làm thơm các món ăn và nó được chế chung với bột cà ri. Họ cũng dùng nó để làm bánh mì và các loại bánh nướng.
Người Thụy Sĩ dùng làm hương liệu chế biến phô mai. Ở Mỹ người ta dùng hột để chế biến thực phẩm và làm gia vị cho các món canh hoặc xúp. Đọt non của cây được băm vụn, trộn chung vào các món salad. Lá được dùng làm rau. Hột màu vàng có vị hơi đắng, gần như cần tây.
Trong ẩm thực, tốt nhất là rang khô trước khi dùng để làm mất vị đắng (tuy nhiên nếu rang quá độ, hột sẽ mất thơm ngon và mất vị thuốc). Hột cũng có thể để nẩy mầm như giá đậu, hột cải và ăn như salad. Liều thông thường: hột tán thành bột là 6 gram hay 2 muỗng cà phê vun/ngày.
Tác giả bài viết: DS. PHAN ĐỨC BÌNH - DS. TRẦN VIỆT HƯNG - DS. LÊ KIM PHỤNG - DS. NGUYỄN XUÂN PHƯƠNG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn