Đàn bà không có duyên cớ mà khóc lóc, thương xót, hoặc lời nói bất thường gọi là Tạng Táo. Tương đương trong phạm vi ' Hystéria’ của Y học hiện đại.
Có thai mà thai động không yên, ngực đầy trướng, gọi là ‘Thai Khí Thượng Nghịch’ 胎 氣 上 逆, ‘Tử Huyền’ 子 玄, Nhâm Thần Huyễn Vựng 妊 神 眩 暈, Tử Huyễn 子 眩.
Bệnh do rối loạn thần kinh chức năng, Bệnh do rối loạn hoạt động tâm thần, Bệnh do tổn thương thần kinh trung ương, Bệnh ở thần kinh ngoại biên.
Bệnh được định nghĩa trên thực thể lâm sàng và giải phẫu bệnh. Về lâm sàng đây là sự sa sút trí nhớ hoặc mất trí, bệnh nhân không còn khả năng lý luận, suy nghĩ.
Cuồng là loại bệnh do ngũ chí quá mức hoặc do tiên thiên di truyền, làm cho đờm hỏa ủng thịnh, bế tắc tâm khiếu, thần cơ bị hỗn loạn dẫn đến tinh thần thác loạn...
Thần Chí Bị Tổn Thương: Đa số do buồn bực, tức giận uất ức không giải được khiến cho Can không sơ tiết được, khí cơ không thông, tâm thần hoảng loạn gây nên.
Là 1 bịnh phổ biến ở nhiều nước, khoảng 0,5-2% dân số hoặc có từ 1-5 người bị động kinh trên 1000 dân. Theo sách Tâm Thần học của Kecbicôp.
Các loại rối loạn thần kinh thực vật và các loại bệnh tim dẫn đến nhịp tim không đều trong y học hiện đại, đều có thể xuất hiện chứng trạng Tâm quý.
Là một bệnh rối loạn thần kinh chức năng do sang chấn tinh thần, hoạt động tinh thần cao cấp quá khẩn trương và do loại hình thần kinh cá thể thuộc loại yếu và thiên về đời sống bản năng gây ra.
Tâm Tỳ Hư: Ngủ ít, dễ hoảng sợ, ăn kém, sút cân, mệt mỏi, mắt thâm quầng, hồi hộp, nhức đầu, rêu lưỡi trắng, mạch Nhu, Tế, Hoãn.
Theo Đông y, các chứng tâm tình uất ức, tinh thần bồn chồn không yên, dễ tức giận, hay hờn khóc, có cảm giác đầy, đau, trong cổ như có vật gì ngăn nghẹn, chóng mặt...