Theo tài liệu cổ thường sơn vị đắng, tính hàn, có độc, thục tất vị cay, tính bình có độc.
Vào 3 kinh phế, tâm và can. Có tác dụng thổ đờm, triệt ngược, thanh nhiệt hành thủy. Dùng chữa sốt rét mới bị hay đã lâu ngày, lão đờm tích ẩm dẫn tới đờm đi lên sinh nôn mửa.
Hỏi: Xin cho hỏi tại sao lại có tên là vị thuốc thường sơn?(Phan Thanh Nam - Hà Nội)Trả lời: Thường sơn còn gọi là hoàng thường sơn, thục tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo.
Tên khoa học Dichroa febrifuga Lour.
Thuộc họ Thường sơn Saxifragaceae.
Cây thường sơn cho ta các vị thuốc sau đây:
Vị thường sơn (Radix Dichroae) là rễ phơi hay sấy khô của cây thường sơn.
Lá và cành phơi hay sấy khô (Folium Dichroae) được gọi là thục tất.
Trên thực tế ở Việt Nam người ta ít dùng rễ hoặc dùng cả rễ và lá đều gọi là thường sơn.
Chữ Dichroa có nghĩa là 2 màu. Fbrifuga có nghĩa là đuổi
sốt, vì cây và lá thường sơn có 2 màu tím đỏ và xanh lại có tác dụng chữa sốt do đó có tên này.
Tên thường sơn vì có ở núi Thường Sơn, đất Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay).
Mô tả câyThường sơn là một loại cây nhỡ cao 1 - 2m, thân rỗng, dễ gãy, vỏ ngoài nhẵn màu tím. Lá mọc đối, hình mác hai đầu nhọn, dài 13 - 20cm, rộng 35 - 90mm, mép có răng cưa mặt trên xanh, mặt dưới tím đỏ, gân tím đỏ, không có lông hoặc hơi có lông. Hoa nhỏ màu xanh lam hay hồng, mọc thành chùm nhiều hoa mọc ở kẽ lá hay đầu cành. Quả mọng, khi chín màu xanh lam, đường kính 5mm, một ngăn, hạt nhiều nhỏ hình lê, có mạng ở mặt dài không đầy 1mm.
Phân bố thu hái và chế biếnCây thường sơn mọc hoang rất nhiều ở các tỉnh miền rừng núi nước ta, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Tây, Sapa-Lào Cai có mọc.
Tại Trung Quốc cũng có mọc hoang và được trồng để lấy rễ và lá dùng làm thuốc và xuất khẩu.
Mùa thu vào các tháng 8 -10, người ta đào rễ về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô.
Nếu dùng lá hái quanh năm nhưng tốt nhất lúc cây sắp và đang ra hoa. Hái về rửa sạch, phơi khô. Có thể dùng tươi.
Công dụng và liều dùng Theo tài liệu cổ thường sơn vị đắng, tính hàn, có độc, thục tất vị cay, tính bình có độc. Vào 3 kinh phế, tâm và can. Có tác dụng thổ đờm, triệt ngược, thanh nhiệt hành thủy. Dùng chữa
sốt rét mới bị hay đã lâu ngày, lão đờm tích ẩm dẫn tới đờm đi lên sinh nôn mửa.
Thường sơn là một vị thuốc được dùng từ lâu đời trong đông y để chữa bệnh
sốt rét (
sốt rét thường hay
sốt rét ác tính) rất có hiệu quả. Còn dùng chữa sốt thường. Tuy nhiên nhược điểm của thường sơn là gây nôn. Những ancaloit lấy ra cũng gây nôn.
Trong nhân dân thường có nói muốn bớt nôn cần rửa lá bằng rượu rồi mới dùng nhưng chúng tôi đã có dịp rửa rượu rồi mà vẫn gây nôn.Thường khi dùng thường sơn, phối hợp với nhiều vị thuốc khác ít nôn hơn.
Liều dùng trung bình 6 -12g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.