Cẩu tích cùng Cốt toái bổ đều bổ can, thận, cường gân xương. Mà can thận thật bất túc, lưng gối, đau nhức, gân cốt vô lực đều phải dùng thuốc này.
Cẩu tích
Công hiệu khác nhau Cẩu tích cùng Cốt toái bổ đều bổ can, thận, cường gân xương. Mà can thận thật bất túc, lưng gối, đau nhức, gân cốt vô lực đều phải dùng thuốc này. Cẩu tích ngọt, ôn bổ thận, lực mạnh, sở trường làm xương sống được mạnh, kiêm khư phong thấp cố tuyền chỉ đới. Cốt toái bổ đắng, ôn, hoạt huyết, chỉ thống tác dụng lớn – sở trường hiệu thương, chỉ thống. Kiêm chỉ huyết. Chủ trị khác nhau 1 - Cẩu tích sở trường trị yêu thống, xương sống cứng. Cốt toái bổ sở trường trị khỏi vết thương bị đòn. Cẩu tích cam, ôn, bổ ích, sở trường bổ thận, kiêm cốt cường tích. Kiêm khước trừ phong thấp. Cho nên chủ trị can thận bất túc, yêu thống tịch cường. Như "Thánh huệ phương” Cẩu tích hoàn (Cẩu tích, Tỳ giải, Thỏ ty tử) trị năm loại yêu thống, lợi cước, gối, nếu chữa vêu, tích toan thống dùng phối hợp với Đỗ trọng, Tục đoạn, Ký sinh. Cổt toái bổ dùng trị can thận bất túc, chữa yêu thống, cước nhược không bằng Cẩu tích. Nhưng Cốt toái bổ, hoạt huyết, chỉ thống sở trường hiệu thương, chỉ thống. Cho nên những vết thương bị ngã, bị đòn đánh đều chữa được khỏi cả. Như “Thánh huệ phương” Cốt toái bổ tán. (Cốt toái bổ, trị nhiên đồng, hổ bình cát, bại quy, trị kim sang, thương càn, đoạn cốt đau đớn không chịu nổi. 2- Cẩu tích chủ trị tiểu tiện ra không ngăn được hoặc ra nhiều, thất tinh. Cốt toái bổ chủ trị tai ù, răng đau. Cẩu tích bổ thận trợ dương, trợ khí hòa nên cô được tuyền, bổ thận đế cố tàng. Cho nên chủ yếu bổ thận dương bất túc, dẫn đến tiểu tiện bất câm, di tinh. Nếu chữa tiểu tiện quá nhiều, hoặc ba không cầm được, nên gia thêm Ngũ da bì, Đỗ trọng, Ô dược, Ích trí. Nếu chữa thận hư, thất tinh, nên thêm Viễn chí nhục, Phục thần, Đương quy. Cốt toái bổ bổ ích, kiêm hoạt huyết. Cho nên dùng chữa thận hư, hiệp ư, gây nên tai ù. Như "Bản thảo hối ngôn” trị thận hư, tai ù, tai điếc, răng đau, lung lay, đau không chịu nổi. Dùng Cốt toái bổ, Thục địa, Sơn thù du, Phục linh, Mẫu đơn, Trạch tả. “Đơn phương nghiệm phương điều trị tư liệu tuyến biên” Trị đau răng, chỉ dùng một vị thuốc này (bổ long) sắc nước uống. 3- Cẩu tích trị thận hư đới hạ,Cốt toái bổ chủ tràng thống. Cẩu tích nhuậnbổ can tỳ. Dùng chữa can, tỳ khuy hư, xung Nhâm hư hàn là nguyên nhân của bạch đới quá đa.
Như “Thổ tế phương” Bạch liễm hoàn (lộc nhung bạch liễm, kim mào cẩu tích) trị con gái mạch Xung Nhâm bị hư hàn, đới hạ, thuần bạch - Cốt toái bổ hoạt huyết chỉ thống, dùng trị huyết hư ủng trệ ở tràng thống.
Như “Chiết giang dân gian dụng thảo dược” Trị lan vỉ viêm, tức cốt toái bổ (bỏ lông) thái nhỏ, gia Kê huyết đằng 5 đồng, Hồng tảo nhục 4 lạng sắc thang uống.
Đặc thù điều trị khác nhau “Thương hàn uẩn yếu” Trị chứng nhân thũng sau khi bệnh đã khỏi. Dùng cẩu tích đun nước rửa.
Lâm sàng báo đáo: cốt toái bổ trị khỏi bệnh trai chân (kê nhỡn). Dùng cốt toái bổ 3 đồng nghiền nhỏ cho vào 95% rượu tinh l00gv ngâm 3 ngày hoặc nốt ruổi. Trước hết hãy đùng nước nóng ngâm chân, rửa cho sach làm cho trai chân hoặc nốt ruòi mềm ra Ròi dùng dao thât sắc tước một lượt dày ỏ ngoài da sau đó lấy thuốc đổ vào, cứ 2 giờ môt lần thay thuốc, từ 4 đến 6 lần, tối đa là 10 lần, khi sát thuốc có thấy đau, chỉ mấy giờ là tự tiêu hết."Tô thi đồ kinh" trị tai điếc, tai ù. Dùng cốt toái bổ thái mỏng lấy lửa nướng chín, lúc còn nóng đắp vào tai.