Cơ chế bệnh-Thiên 6
Thứ hai - 27/10/2014 15:02
1) Con người lúc mới phôi thai bắt nguồn từ tinh huyết, lúc đã sinh ra là nhờ đồ ăn dinh dưỡng. Không có tinh huyết thì không tạo được hình thể, không có đồ ăn thì hình thể không cường tráng.
Mệnh môn trong thận là khí thái cực của con người, ở đàn ông thì chứa tinh, ở đàn bà thì chằng giữ dạ con, nên thận là cái bể của tinh huyết, người ta sinh ra là bẩm thụ tinh huyết của cha mẹ để thành hình, cho nên nói tinh huyết là cơ sở của hình thể, là căn bản của sinh mệnh. Đến khi đã chào đời, chỉ nhờ ăn bú mớm cơm để nuôi dưỡng, cho nên nói đồ ăn làm cho hình thể cường tráng, là nguồn gốc của việc sinh hóa.
2) Bể chứa cơm nước ắt phải nhờ tiên thiên làm chủ, mà bể chứa tinh huyết lại phải nhờ hậu thiên để bồi dưỡng.
Tỳ vị là bể chứa cơm nước, cốt nhờ chân dương chân hỏa trong thận làm cho ngấu nhừ thức ăn, cho nên nói muốn bổ Thái âm tỳ thổ thì phải bổ thiếu dương tướng hỏa. Thận là bể chứa tinh huyết, tất phải nhờ khí của cơm nước, ngày ngày sinh thêm tinh huyết để luân chuyển nuôi thân thể, cho nên nói: Vị mạnh thì thận đầy đủ mà tinh khí sung túc.
3) Thương phong phần nhiều sinh thổ tả, vì phong mộc hay xâm phạm vào tỳ thổ.
Nội kinh nói: “phong vào can trước”, hễ thương phong thì can chịu đựng trước, phong động thì can mộc mạnh và khắc tỳ thổ, tỳ hư thì không vận hóa được mà thành bệnh tả. Vị hư không thu nạp được thành bệnh nôn mửa.
4) Bệnh khỏi rồi mất tiếng là chứng thận yếu.
Thận là cái bể chứa tinh huyết, là nguồn gốc phát ra thanh âm. Sau khi khỏi bệnh, tinh huyết bị thiếu, nguồn gốc bị thương mà thanh âm khan tuyệt.
5) Ngực bụng trướng đầy là tỳ khí hư tổn, nhiều đờm là tỳ khí không vận hóa, tê tay tê chân là tỳ khí không lưu thông đến.
Công năng của tỳ là vận hóa thức ăn, trướng đầy bụng ngực là tỳ không vận hóa, không vận hóa được thì tân dịch ngưng kết mà thành đờm. Tay chân thuộc tỳ, tỳ dương chủ khí, tỳ âm chủ huyết, nếu khí huyết không chu lưu đến thì tê tay tê chân, các vị Chỉ xác, Thần khúc, Sơn tra, Mạch nha dùng phải thận trọng. Nên dùng thang Bổ trung gia Bán hạ, Phục linh là rất hay.
6) Mửa đờm về sáng là tỳ hư không vận hóa được.
Sau giờ tý (khoảng 1 giờ khuya) thì khí nhất dương sinh các mạch đều hướng về phổi; Tỳ hư không thu nhiếp được đờm dãi, nó tràn lên phổi, cho nên về sáng thì mửa đờm. Sách nói: Tỳ là nguồn sinh đờm, phế là đồ vật chứa đờm.
7) Ăn không vào được là có hỏa, ăn vào mửa ra là không có hỏa.
Ăn không vào được là vừa mới nuốt vào khỏi họng lại mửa ra ngay ấy là vì trong vị có hỏa ngăn trở. Nội kinh nói: “Các chứng ói ngược lên đều thuộc hỏa”; ăn vào mửa ra là ăn vào không giữ lại lâu mà lại mửa ra, đó là vì mệnh môn hỏa suy, phần dưới không có sức nóng để làm cho ngấu nhừ thức ăn, tỳ không vận hóa, vị không thu nạp cho nên sinh ra thế.
8) Bệnh ngũ tâm phiền nhiệt là tâm hỏa hãm vào trong tỳ thổ.
Ngũ tâm là chỗ dưới tâm và hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân. Tỳ chủ tay chân, tâm chủ nhiệt; trong tỳ thổ có phục hỏa thời hiện ra chứng ngũ tâm phiền nhiệt, nên dùng Tứ vật thang gia Nhị liên.
9) Bệnh bạo phát chết đột ngột đều thuộc về hỏa, Đông Viên cho là do khí hư.
Nội kinh cho là do hỏa, Đông Viên cho là do khí, vì hỏa với khí cùng loại mà khác tên, phàm người bị bệnh bạo phát chết đột ngột, không phải do nguyên nhân gần mà là do nguyên nhân xa, thân thể đã bị trác táng, xíu quách đã kiệt hết rồi chỉ còn một chút dương trơ trọi thì ngọn lửa vô căn ấy không thể cháy lâu được, đến khi nguyên khí vụt tắt đi thì chết.
10) Chứng loại trúng phong, Đông Viên cho là khí hư, Hà Gian cho là hỏa, Đan Khê cho là đờm.
Các vị tiên triết ấy bàn luận tuy khác mà căn bản thì giống nhau. Vì khí hư thì hỏa vô căn bốc lên, đờm xốc ngược lên mà sinh ra, một đường thì nói về gốc, một đường thì nói về ngọn.
11) Hay đói mà ăn nhiều là phong mộc thái quá lấn mạnh đến tỳ thổ, tỳ thổ bị hư đòi ăn để cầu cứu.
Hay đói là công năng của hỏa, vì mộc thịnh thì sinh phong, phong khơi động cho hỏa bốc lên. Ăn nhiều là tỳ hư cầu giúp. Có chỗ nói “hay ăn mà gày” cũng là lẽ đó.
12) Phong là đầu mối của các bệnh, hàn là khí sát hại.
Phong là dương tà, di chuyển nhanh hay biến động, không chỗ nào mà nó không thấu suốt, là đầu mối của các bệnh. Hàn là âm tà, chủ về thời lệnh của mùa thu, mùa đông, heo hắt bế tàng, thực là thứ khí sát hại. Tuy vậy phong và hàn vốn là đồng khí, hàn nhẹ thì là phong, phong nặng thì là hàn. Lời nói ấy của Cảnh Nhạc thực là đã cởi mở được cái lẽ chưa hiểu biết từ ngàn xưa.
13) Hàn tà ở phần biểu ắt mình nóng không có mồ hôi, bởi vì tà vít lấp bì mao.
Đã nói hàn tà ở phần biểu, mà mình lại nóng. Vì nóng tức là hỏa ở trong thân thể, ngoài bị hàn tà bưng bít không phát ra được, quay trở lại dần dần hóa ra nhiệt cả.
14) Thương thực thì ghét ăn, thương phong thì ghét gió, thương hàn thì ghét lạnh, vì nó làm tổn thương tất nhiên phải ghét nó.
Bệnh thương thực vì tỳ vị không thể thâu nạp chuyển vận nên ghét ăn là rất phải. Phong hàn vốn là khí mát, lẽ nào thương phong không ghét lạnh, thương hàn không ghét gió ư! Những lời cách ngôn của bậc tiên triết không phải nói vu vơ, nên kết hợp với tình hình mà suy tìm chân lý, bút mực không thể tả hết được.
15) Tiểu tiện trong bệnh không ở lý; tiểu tiện lợi bệnh không ở khí.
Tà còn ở biểu, chỉ biểu bị bệnh mà lý vẫn điều hòa, cho nên tiểu tiện trong. Phế chủ khí làm lưu thông đường thủy đạo, dẫn dồn xuống bàng quang. Phần khí vô bệnh cho nên tiểu tiện vẫn lợi.
16) Phong là chủ tướng của hàn, phong đưa hàn tới, hàn theo phong vào, thấu xương phạm da. Phong với hàn vốn là đồng khí, cho nên hàn vào nông tức là thương phong, phong vào sâu tức là thương hàn.
Đây là Cảnh Nhạc phát hiện ra điều mà ngàn xưa chưa phát hiện ra được. Sách thuốc cho mạch Phù Sác là thương phong, phù khẩn là thương hàn, chứng thương phong tự đổ mồ hôi, chứng thương hàn không có mồ hôi, lập cục chia phương, phân chia ra nhiều phép chữa, chỉ làm rối tai mắt người ta, mà không có ích gì cho việc chữa bệnh.
17) Phần biểu không có hàn tà sao có thể thành chứng sốt rét (ngược), phần lý không có hàn tà sao có thể thành chứng lỵ.
Sốt rét (ngược) và kiết lỵ tuy là hai chứng, kỳ thực một nguồn. Hàn tà ở ngoài không tan thì thành chứng ngược, hàn tà ở trong dằng dai thì thành chứng lỵ, đó là gốc của ngược, lỵ đều ở tỳ. Phương thư nói: “không đờm không thành chứng ngược, không tích không thành chứng lỵ”, vì tỳ hư mà gây nên. Nội kinh nói: “tỳ hư thì phát sốt, vị hư thì phát rét”. Phàm chữa ngược chữa lỵ mà không chiếu cố đến tỳ vị thì chữa không đúng phép, tuy có hàn tà cũng chẳng qua là đầu mối phát bệnh đó thôi.
18) Tự đổ mồ hôi thuộc dương hư, đổ mồ hôi trộm thuộc âm hư, nhưng vị tất đã như thế, phải xem xét có hỏa hay không có hỏa, vì hỏa thịnh mà mồ hôi ra là hỏa thiêu đốt phần âm, thì biết là âm hư; không có hỏa mà mồ hôi ra là khí ở phần biểu không vững, thì biết là dương hư.
Thức thì khí vận hành ở phần dương, ngủ thì khí vận hành ở phần âm; dương ở ngoài là vệ, dương hư không bảo vệ được, mà tự ra mồ hôi, âm ở trong là vinh, âm hư không vinh dưỡng được mà ra mồ hôi trộm, đó là phép xưa. Nếu dựa ở chỗ có hỏa, không hỏa để chia âm dương thực là lý luận cốt yếu mà ngàn xưa chưa phát minh được. Có người nói: chứng mồ hôi trộm không khỏi mà có hỏa thời là âm không tự giữ được, không có hỏa thời là dương không củng cố được, cũng là lẽ ấy.
19) Nôn rồi mới khát ấy là bệnh muốn khỏi; khát rồi mới nôn, ấy là thủy tà đình tích ở dưới tâm, người bệnh nôn vốn phải khát, nay lại không khát là vì dưới tâm có thủy ẩm đọng lại.
Lời bàn này thật chí lý, rất có ý tứ sâu sắc, vì nôn thời tân dịch bị khô kiệt mà khát, khát thời nước đình tích mà phát nôn, nếu nôn không khát thời biết rằng dưới tâm có thủy ẩm đọng lại.
20) Bệnh ỉa chảy thuộc hư hàn, không phải là thủy có thừa mà thực ra vì hỏa không đủ. Nước tiểu không thông vốn không phải thủy không thông lợi mà chính vì khí không lưu hành.
Hễ vì hàn mà sinh ỉa chảy là do hỏa ở mệnh môn suy không thể bốc lên tỳ thổ, thổ vốn ưa ráo mà ghét ướt cho nên thổ hư là hỏa hư, hư thời không vận hóa được, cơm nước dồn xuống đại tràng mà thành ra ỉa chảy, ấy là hỏa không đủ, chứ không phải thủy có thừa. Thủy mà không có khí thời không lưu hành được. Phế chủ điều tiết phần khí lưu thông thủy đạo dẫn xuống bàng quang. Nếu phế khí không thông xuống thời thủy đạo bị tắc nghẽn ấy chính vì “mẹ” của thủy mất chức năng, chứ không phải “con” của kim bị ngừng trệ. Bài Ngũ linh thang mà dùng Quế là có ý chuyên trọng phần khí, không phải một mình thuốc lợi tiểu tiện (thấm lợi) mà có thể thành công được.
21) Vị vốn thuộc thổ, không có hỏa thì không sinh được, không có khí ấm nóng thời không hóa được, thổ hàn tức là thổ hư, thổ hư tức là hỏa hư, cho nên tỳ thích ấm ghét lạnh, thổ ghét ướt mà thích ráo, cho nên vì hỏa mà nôn thời ít, vì hàn mà nôn thời nhiều, vị thực mà nôn thời ít, vị hư mà nôn thời nhiều.
Nội kinh nói: “Các chứng ói ngược xông lên đều thuộc hỏa”; nhưng hỏa có hư hỏa, có thực hỏa; thực là nhiệt, hư là hàn. Cho nên nói ăn không vào được là có hỏa, ăn vào nôn ra là không có hỏa.
22) Hư mà khát nhiều là thận thủy kém, đòi nước để tự cứu.
Hễ nhiệt thịnh thời tân dịch tiêu hao, không thể không khát; nhưng hình hư mạch hư, tuy khát mà không uống được, hoặc uống được mà không uống nhiều, ấy là khô chứ không phải khát, vì nhiệt thời hại phần âm, chân âm thiếu thốn, huyền phủ (thận) khô khan, cần nước ở ngoài để tự cứu.
23) Hư mà suyễn gấp là âm hư phế cách trở, khí không về được.
Phế chủ phát khí ra, thận chủ nạp khí vào, phế là chủ của khí, thận là gốc của khí. Hư mà suyễn là chân âm của thận hư, không nạp được khí, khiến cho khí không có sức trở về nơi căn bản, cho nên chạy ngược lên.
24) Hầu khô, họng đau là chân thủy ở dưới kém, hư hỏa bốc lên.
Chân thủy kém thời tướng hỏa nóng bốc lên cổ họng, ví như ống khói ở nhà bếp, lửa cháy thời khói bay ra, cho nên hầu khô, họng đau.
25) Không ngủ được mà tinh thần hoảng hốt là huyết không dưỡng được tâm, thần không có chỗ nương náu.
Hễ người ta nằm xuống thời huyết đổ về can, vệ khí nhập vào phần âm nên ngủ được, và thần yên thời ngủ yên. Tâm tàng thần, thống huyết, huyết hư không thể nuôi được tâm, thần không có chỗ dựa cho nên bốc lên mà hoảng hốt.
26) Thường thường hay phiền táo là trong phần dương không có âm, là nhu không ức chế được cương.
Phiền thuộc dương, táo thuộc âm, âm dương tác dụng lẫn nhau, trong dương không thể không có âm, trong âm không thể không có dương, cương nhu cùng giúp nhau. Nếu phiền táo lúc phát lúc khỏi là trong dương không có âm, vì dương chủ động mà âm chủ tĩnh.
27) Dễ sinh giận dữ hoặc gân rút nhức đau là thủy kém, mộc táo, can không có chỗ nương tựa.
Can chủ sự giận dỗi, gân thuộc về can, can chứa huyết, huyết nuôi gân do thận thủy sinh ra, nếu thủy kém thời can mất chỗ nhờ mới sinh ra chứng ấy. Nội kinh nói: “Huyết thực thời mừng, huyết hư thời giận”, cũng là lẽ ấy.
28) Ăn uống không ngon, bắp thịt teo dần, là tỳ bị suy kém, cơ năng sinh hóa mỗi ngày một hư hỏng.
Tỳ chủ về ngũ vị, chủ về bắp thịt, khi ăn uống vào vị, tỳ chủ việc vận hóa để sinh huyết sinh tinh mà các xương được nuôi dưỡng. Là nguồn gốc sinh hóa của hậu thiên tỳ thổ, mà suy kém thời hình thể gày yếu, cơ năng sinh hóa ngày một bại hoại cho nên hễ thấy bắp thịt gày róc quá mau đều là chứng không chữa được, đó là vị đã bại rồi.
29) Thận hư mà nhiều đờm hoặc như nước trong, hoặc nhiều bọt dãi ấy là nước tràn lên thành đờm, tỳ hư không ức chế được thủy.
Phàm thận thủy suy không sinh được huyết, nước tràn lên thành đờm, đờm trong loãng mà nhiều dãi, nhưng cũng vì tỳ thổ hư, không ức chế được thủy, cho nên nói: “đờm hóa ở tỳ, gốc ở thận”.
30) Xương đau như gãy là chân âm đã bại liệt.
Thận chủ xương, Sách nói: “Xương của con người chỗ nào cũng thuộc thận”, chân âm trong thận là nguồn gốc của tinh tủy, hư thời tủy kiệt xương khô mà đau.
31) Đầu gối trở xuống lạnh là mệnh môn suy kiệt, hỏa không về được nguyên chỗ.
Mệnh môn chủ về hạ bộ; chân là bộ phận chí âm; mệnh môn hỏa hư thời hỏa không về được nguyên chỗ; trong phần âm không có dương mà dưới gối lạnh. Cho nên hễ bệnh lạnh quá đầu gối ấy là cơ chế vong dương.
32) Nước tiểu vàng gắt bí rỉ, ấy là chân âm hao kiệt, khí không hóa được thủy.
Thủy không có khí thời không lưu hành, khí không có thủy thời không hóa sinh; khí tức là hỏa, chân âm suy kiệt, dương không có chỗ dựa là khí không có thủy, cho nên không thể hóa được.
33) Gan bàn chân nóng như cháy bỏng là hư hỏa thiêu đốt chân âm, huyệt Dũng tuyền bị khô kiệt.
Chân là nơi chí âm, huyệt Dũng tuyền ở gan bàn chân là đường đi ngầm của thủy, âm hư thời hỏa lấn đốt phần âm làm cho thủy kiệt, cho nên gan bàn chân nóng như cháy bỏng.
34) Đờm sinh hóa ra là do ở tỳ, căn bản của đờm là do ở thận. Hễ là chứng đờm không ở tạng nọ thì ở tạng kia.
Vị thu nạp cơm nước, tỳ biến hóa ngũ vị, chất trong là tinh huyết, chất đục là đờm dãi, cho nên nói đờm mượn chất dịch ở ngũ vị, ấy là đờm hóa ra ở tỳ. Thận thuộc thủy làm chủ cả ngũ dịch, cho nên nói thận thủy hư mà thủy tràn lên thành đờm, ấy là gốc của đờm ở thận.
35) Bệnh đờm của tỳ, có hư có thực; thấp trệ thái quá là tỳ thực; thổ hư không ức chế được thủy là tỳ hư.
Phép chữa đờm, thực thời công, hư thời bổ, nhưng công phải có thứ tự, bổ phải theo từ chỗ hóa nguyên mới là đúng phép. Vì hỏa thực thời nên tiêu, nên trục; thủy hư thời hành khí giáng hỏa; hỏa hư thời bổ thiếu hỏa để sinh thổ, khiến cho việc kiện vận như thường, mà đờm tự khắc tiêu đi. Tôi xét trong sách nói: “Chữa đờm không có phép bổ”. Các nhà bàn luận đều bài bác, sao không xem 370 vị thuốc của Thần Nông tuyệt nhiên không có vị nào dùng để trợ đờm, huống chi là bổ. Nếu muốn bổ cũng không có thuốc. Nhưng bệnh đờm phần nhiều do hư, hư mà không bổ thì còn đợi gì. Tôi đã bàn về chữa đờm không có phép bổ, cũng không có phép công ở quyển Đạo lưu dư vận rất kỹ, nên tham khảo thêm.
36) Đờm là biến chất của tân dịch, cũng như sương mù ở không gian.
Người ta sở dĩ sống được là nhờ khí của cơm nước, khí ấy sinh ra tân dịch, ngưng kết lại thành bệnh, hao kiệt hết thời chết. Đờm là biến chất của tân dịch, cũng là một vật để dưỡng sinh. Không gian có thể không có sương mù được chăng? Người ta có thể không có đờm dãi được chăng? Phương thư nói: “người hư yếu không nên làm cho tiêu hết đờm” chính là có ý thận trọng như thế đó.
37) Đờm của thận tạng đều là hư, vì hỏa không sinh ra được thổ tức là hỏa không chế được thủy, dương không thắng được âm ắt thủy xâm lấn tỳ ấy là hỏa trong phần âm bị hư. Nếu hỏa thịnh đốt cháy phần âm, thời tinh không yên chỗ, tân dịch khô kiệt thời kim thủy tàn sát lẫn nhau, đều là thủy trong phần âm bị hư. Đó là nói chứng hư thực của tỳ thận không giống nhau, phải nên phân biệt cho rõ.
Thận là nơi chí âm, bên tả với bên hữu có hai khiếu là chân thủy và chân hỏa. Sách nói: Thận hư có hai chứng tức là chứng thủy của chân âm bị hư và chứng hỏa trong phần âm bị hư. Thủy hư nên phải bổ thủy để chế ước cái chói sáng, hỏa hư thời bổ hỏa để tiêu tan mây mù vẩn đục; ấy là thuốc hay để bổ thủy hỏa, phép giỏi để điều hòa âm dương.
38) Đờm vốn là tân dịch trong nhân thể, nó tùy theo vị trí tà cảm vào mà thành ra tên bệnh.
Đờm là biến chất của tân dịch, cùng loài mà khác tên, người ta nhờ vào tân dịch mới sống được. Khí của các chất ăn uống sinh ra thứ tân dịch ấy. Vì chính khí bị hư không có sự cai quản, tà thừa hư lẻn vào, khích động cho ra đờm chứ không phải vì đờm mà sinh ra bệnh, thực ra vì bệnh mà sinh đờm.
39) Đờm ngưng tụ thời khí bế tắc, hỏa thịnh thời âm kém.
Đờm ngưng tụ lại thì tắc họng thành khí không thể đưa lên thì khí bế tắc. Nhiệt thịnh làm tổn thương âm huyết, huyết càng tổn thời hỏa càng thịnh mà chân âm suy kém.
40) Chứng phiền thuộc dương, là hỏa hữu căn phần nhiều xuất phát từ tâm. Chứng táo thuộc âm, là hỏa vô căn thường phát ra từ thận.
Rạo rực không yên cứ bần thần gọi là phiền; khoa tay múa chân, nằm ngồi không ổn gọi là táo, phiền là nhẹ, táo là nặng, phiền là thực nhiệt, táo là âm hư, đại để đều là cơ chuyển của tinh thần hao kiệt, rất đáng lo sợ.
41) Hỏa xâm vào phế thời sinh phiền, hỏa vào đến thận thời sinh táo, phiền là phiền nhiệt nhẹ, táo là táo nhiệt nặng, phiền đơn thuần không có táo là thực nhiệt, táo đơn thuần không có phiền là hư hàn.
Hễ chứng hiện ra phiền táo đều là dấu hiệu không tốt trong đó vẫn có chia ra nặng nhẹ, nóng lạnh. Nói tóm lại phiền táo đều từ nhiệt phát ra. Nếu táo mà mình nóng ấy là trong chân hàn mà ngoài giả nhiệt, nên dựa vào sắc và mạch mà phân biệt. Nếu táo mà người mát ấy là âm mất trước rồi dương tuyệt sau, chỉ nên dùng Sâm, Phụ để cứu vãn lại cũng có thể sống được.
42) Tâm nhiệt thời phiền, thận nhiệt thời táo, phiền chủ ở khí, táo chủ ở huyết, phế chủ ở bì mao, khí nóng thời sinh phiền, thận chủ ở tân dịch, huyết nóng thời sinh táo.
Tâm thuộc hỏa, hỏa khắc phế kim. Phế chủ khí, cho nên khí nóng thời sinh phiền. Thận thuộc thủy, thủy chủ tân dịch mà sinh ra huyết, thủy suy thời hỏa nóng bốc mà huyết khô cho nên huyết nóng mà sinh táo.
43) Trời đất không có nước chảy ngược, nếu thủy ngược là bởi vì gió, thân thể người ta không có đờm đi ngược, nếu trở ngược là bởi vì khí.
Đờm cũng là loại thủy, tính của thủy nhuận xuống, gió là khí âm dương trao đổi, khí của người cũng như gió của trời đất. Cho nên hễ nước mà chảy ngược được, đờm mà trở ngược được tất vì phong vì khí làm nên như thế.
44) Bệnh bạo phát không phải chứng âm, bệnh lâu ngày không phải chứng dương.
m chủ tĩnh mà chậm, dương chủ động mà nhanh. Vì bệnh bạo phát thì nguồn gốc không sâu, bệnh dây dưa kéo dài đều do ngoại tà dầm ngấm sâu.
45) Khí của lục phủ tuyệt ở ngoài thời tay chân lạnh. Khí của ngũ tạng tuyệt ở trong thời đi ỉa không cầm.
Phủ thuộc dương, tạng thuộc âm, dương chủ ở ngoài, âm chủ ở trong. Phủ tuyệt thời dương vong mà tay chân lạnh, tạng tuyệt thời âm vong mà đi ỉa không cầm.
46) Tà mới quyến rũ tà cũ ra, bệnh ngọn thúc đẩy bệnh gốc phát.
Như mùa đông bị cảm hàn, đến mùa xuân gặp phong tà thì phát ra bệnh ôn, đến mùa hè gặp thử tà thì phát ra bệnh nhiệt, đều là do hàn tà mùa đông năm ngoái truyền vào da dẻ, gặp thêm tà mới cảm vào rồi mới phát ra; lại còn bệnh cũ gần khỏi, gặp bệnh mới vào bệnh cũ lại phát ra.
47) Vấp ngã bị tổn thương, có một tia máu chạy vào tâm là chết ngay.
Tâm là chủ tể toàn thân, thần minh xuất xứ từ đó, cốt phải sáng suốt, ngoài có thành quách bao bọc, ngoại tà không thể xâm phạm vào được, phạm vào thì chết ngay. Tâm chủ thống quản huyết, các huyết mạch theo lệnh của tâm để lưu hành, nếu không lưu hành mà trở về tâm, ấy là phạm vào tâm thì không nguy sao được; cũng như chứng chân tâm thống, hễ sớm phát thì chiều chết ngay.
48) Phong thắng thời động, nhiệt thắng thời thũng, táo thắng thời khô, hàn thắng thời phù, thấp thắng thời ỉa lỏng.
Phong động thời run giật co quắp, hình như cây thích lay động, nhiệt ủng tắc thời sưng tấy đỏ, hình như lửa cháy bốc lên, táo thắng thời khô khan sém cạn, giống như kim khí có tính se sắt, hàn nhiều thời sưng đầy phù nề, giống như nước đầy tràn trề. Thấp thịnh thời ngấu nát mà thành ra ỉa lỏng.
49) Phàm các chứng tổn thương duy chứng phòng lao là nặng hơn, vì thần với hình đều bị mệt, tinh với khí đều bị tổn thương.
Các chứng ngoại lao nội thương vì bệnh mà bị hư tổn, cùng với người bẩm chất bạc nhược suy kém đến căn bản cũng phần nhiều hay bị tổn thương.
Sách nói: “các chứng ngũ lao lục cực [98] duy đáng sợ là bệnh sắc dục làm hại tạng”. Vì tuổi trẻ cậy mạnh không tiết dục mà trác táng chiếm đến 8-9 phần mười. Xung Phong nói: “Tu thân không gì bằng tiết chế tình dục” Thực là bài thuốc tiên để bảo vệ sinh mạng. Nội kinh nói: “Tàng trữ được tinh khí thời mùa xuân không mắc bệnh ôn” cũng là đường lối bảo vệ sinh mạng đó.
50) Có khi vì mệt nhọc hình khí suy kém, cốc khí không đầy đủ, thượng tiêu không vận hành, hạ quản không thông, vị khí nóng quá, nhiệt khí hun bốc ở trong ngực, cho nên sinh chứng nội nhiệt.
Đây là cơ chế vì mệt nhọc mà phát bệnh sốt. Nội kinh nói: “Mệt thì dùng thuốc ôn” lại nói: “thuốc cam ôn có thể chữa được chứng đại nhiệt” lại nói: “Bổ tỳ thổ để chữa chân dương” Thang Bổ trung ích khí của Lý Đông Viên thực là lợi vô cùng cho muôn đời.
51) Cốc khí ở ngoài suy kém, da thịt hao hết, khí thiên chân ở trong suy kiệt, thân thể không bước đi được.
Phàm bệnh thấy ra thịt teo róc quá mau; tất đến chỗ không cứu được, đó là nguồn sinh hóa của tỳ vị đã tuyệt. Vì tinh huyết là căn bản của da thịt, da thịt làm mạnh cho thân thể. Căn bản đã hư hoại còn mong gì sống được nữa.
52) Nhìn lâu hại huyết, nằm lâu hại khí, ngồi lâu hại thịt, đứng lâu hại xương, đi lâu hại gân, gọi là ngũ lao.
Huyết nhờ mạch làm nơi chứa đựng, các mạch đều thuộc vào mắt, cho nên nhìn lâu thời hại huyết. Khí thuộc dương, dương chủ động, nằm lâu thời khí trệ mà hại khí. Tỳ chủ phần da thịt, chủ vận động mạnh, ngồi lâu thời nê trệ tỳ mà hại thịt. Xương mạnh thời đứng được, nếu đứng lâu thời hại xương. Gân mạnh thì đi được, nếu đi lâu thời hại gân.
53) Hầu chủ về khí trời, họng chủ về khí đất, cho nên dương hay bị phong khí, âm hay bị thấp khí.
Hầu chủ về phế, phế thuộc quẻ càn mà ứng với khí trời; họng thuộc vị, vị thuộc quẻ Khôn mà ứng với khí đất; phong là dương tà cho nên phần dương bị cảm trước; thấp là âm tà cho nên phần âm bị cảm trước.
54) Thương về phong thời phần trên mình bị trước, thương về thấp thời phần dưới bị trước.
Phong là dương tà, nửa phần trên mình thuộc dương, cho nên phần trên bị trước. Thấp là âm tà, nửa phần dưới mình thuộc âm, cho nên phần dưới bị trước.
55) Mồ hôi ra mà sốt không lui thì chết.
Mồ hôi cũng như trời mưa, nóng nực quá khí đất bốc lên thành mây thì mưa xuống. Mưa xuống thì mát, ấy là âm giúp cho dương. Người ta bị bệnh nóng cũng như thế. Mồ hôi đã ra mà nóng không lui là khí âm đã tuyệt rồi, chỉ còn một mình dương (cô dương) nung nấu. Nhưng tính lửa bốc lên, sức cùng phải tắt, thời dương vong mà chết.
56) Giận thời khí đưa lên, mừng thời khí dịu lại, thương thì khí tiêu hao, sợ thời khí nhụt xuống. Lạnh thời khí thu rút lại, nóng thời khí phát tiết ra, sợ thời khí rối loạn, nhọc thời khí hao mòn, nghĩ thời khí kết lại, cho nên nói trăm bệnh đều sinh ra ở khí.
Giận thời can hỏa thịnh mà khí bốc lên; mừng thời tâm huyết hòa mà khí dịu lại; thương thời phế kim táo mà khí tiêu hao; sợ thời thận thủy hao mòn mà khí nhụt xuống; lạnh thời trăm mạch đều co mà khí thu rút lại; nóng thời trăm mạch đều giãn mà khí phát tiết ra; sợ thời thần hồn tán mà khí rối loạn; nhọc thời tinh huyết tổn mà khí hao; nghĩ thời tân dịch kiệt đi mà khí kết lại.
57) Làm đầy đủ cho những chỗ trống rỗng là khí huyết; hóa sinh ra khí huyết là thủy hỏa, thủy hỏa là căn bản của nhân thể, là tác dụng của thần minh.
Điền chỗ trống, bổ chỗ tổn, làm cho thân thể đầy đủ là bản năng tốt của khí huyết. Chữa nên dùng bài Bát vị kiêm trị cả thủy hỏa. Nếu khí huyết suy không thể tư dưỡng thời lại nên tìm ngay chân hỏa và chân thủy tức là những thức sinh ra khí huyết để sinh hóa ra khí huyết. Chân thủy chân hỏa là thực thể của âm dương, căn bản của sự sống, tác dụng của thần minh.
58) Tinh thần bị hao tán ở trong thì tân dịch khí huyết của nhân thể không có chủ tể, có thể dấy lên ở trong làm hỏa làm đờm mà thành ra bệnh tà, còn phải đợi gì nguyên nhân ở ngoài đưa đến nữa.
Tâm chứa thần, thận chứa tinh, tinh thần là hai vật báu trong người. Vì hỏa là nguyên khí trong thân, đờm là biến chất của tân dịch, bởi vì chính khí hư không tiếp nạp được, thì đã đủ tạo thành nguyên nhân bệnh, há còn đợi đâu bệnh tà ở ngoài tới, cho nên nói: bệnh do khí hư dẫn đến.
59) Biểu nhiệt phần nhiều do khí dương ở lý bốc ra ngoài; thượng nhiệt phần nhiều do hỏa ở dưới thừa hư bốc lên, tuy có ngoại tà cảm xúc chẳng qua chỉ là đầu mối phát bệnh.
Khi hàn tà bao bó ở biểu thời hỏa uất ở lý, mới xuất hiện da dẻ nóng, vì hỏa ở trong thân người ta tức là nguyên khí, là nguyên dương, là mệnh hỏa; hỏa ở yên chỗ của nó thời muôn hiện tượng vui hòa, đó là tĩnh thì là thiếu hỏa để sinh khí; động thì là tráng hỏa để hại khí, cho nên có chứng âm hư hỏa động; có chứng thủy suy mà hỏa viêm (đốt) có chứng thận âm hàn mà hỏa bốc, đều là chứng thượng nhiệt. Hễ hỏa hư thời phát lên, tuy có ngoại tà nhân lúc hư kích động mà phát ra, cũng chỉ là ngọn của bệnh.
60) Bệnh hư mà nhức đầu, không phải hư hỏa bốc lên thời là huyết hư sinh ra.
Đầu là chỗ hội tụ các kinh dương, hễ vì hỏa, vì phong, vì hàn, vì thấp, vì thử, vì thực, vì đờm mà nhức đầu đều là chứng thực tà, còn như bệnh vốn hư mà nhức đầu, thì duy có khí hư mà âm phạm vào bộ vị của dương, huyết hư mà âm hỏa bốc lên. (m hỏa là hư hỏa).
61) Dương tà làm hại cực độ tất truyền tới âm kinh. Ngũ tạng bị tổn thương cực độ tất truyền tới thận.
Dương là biểu, âm là lý, dương ở nông, âm ở sâu, tà mà xâm tới tất từ biểu vào lý, từ nông vào sâu, là cơ chuyển thâu nạp ứng tiếp. Thận là hóa nguyên của ngũ tạng; là căn bản của 12 kinh bệnh đến khi tổn thương tất truyền tới gốc của tinh huyết; tới của hóa sinh, ấy là lẽ tự nhiên truyền tống cho nhau.
62) Điều kinh luận nói: “Dương thái quá thời kinh đến trước kỳ; âm bất cập thời kinh tới sau kỳ”.
Đây là chỉ nói riêng về bệnh kinh nguyệt đàn bà. Nói thái quá, nói bất cập, thời âm dương hàn nhiệt hư thực đều ở trong đấy cả.
63) Phong là khí mát trong dương, thử là hàn tà trong nhiệt.
Hàn là âm tà, phong là dương tà, thấp là âm tà, thử là dương tà. Nhưng phong là chủ tướng của hàn, tức là âm ở trong dương, cho nên nói là dương khí. Mùa hạ có khí phục âm; tức là âm trong phần dương cho nên nói là hàn tà.
64) Chứng sốt rét (ngược) không tách rời kinh thiếu dương, cũng như chứng ho không tách rời phế.
Có chứng sốt rét mới phát (tân ngược), có chứng sốt rét đã lâu (cựu ngược), có chứng sốt rét vì đờm (đờm ngược), có chứng độc rét (đơn hàn), có chứng độc nóng (đơn nhiệt) đều không tách rời khỏi kinh thiếu dương, bán biểu bán lý, nóng rét qua lại, lên cơn sốt có định kỳ. Có chứng ho từ ngũ tạng, có chứng ho từ lục phủ, có chứng ho vì phong hàn, có chứng ho vì hư lao, đều không vượt ngoài phế kinh. Phế chủ đưa khí ra là một dụng cụ chứa đờm.
65) Ỉa chảy bạo phát không phải âm chứng; ỉa chảy kéo dài không phải dương chứng.
Hễ bệnh bạo phát là dương chứng, vì tính hỏa thì cấp tốc; bệnh kéo dài là âm chứng, vì tính thủy thời trầm hoãn. Trăm bệnh đều thế, không riêng gì bệnh ỉa chảy.
66) Nôn ói hại khí, ỉa chảy hại huyết, khí hư thời phát quyết, huyết hư thời phát nhiệt. Khí huyết đều hư thời mình nóng mà tay chân quyết lạnh.
Chứng nôn mửa phát ra ở thượng tiêu mà hại phần khí, chứng ỉa chảy phát ra ở hạ tiêu mà hại phần huyết, khí hư thời dương thoát mà phát quyết lạnh, huyết hư thời hỏa lấn mà phát nóng. Khí thuộc biểu, huyết thuộc lý, cho nên bệnh mà khí huyết đều hư thời tay chân quyết lạnh mà trong mình nóng.
67) Tinh thoát thời tai điếc, khí thoát thời mắt không sáng.
Thận khai khiếu ở tai, thận chứa tinh, cho nên tinh thoát thời tai điếc. Khí là dương, dương chủ hỏa, hiện tượng của hỏa là sáng, không hỏa thời mắt không sáng.
68) Sự hộ vệ xung hòa không ngừng thì gọi là khí, sự rối loạn vọng động bất thường thì gọi là hỏa.
Dương khí cũng là hỏa, hỏa cũng là dương khí, tĩnh là dương khí bình thường (thiếu hỏa) có thể tăng cường nguyên khí, động là dương khí quá thịnh (tráng hỏa) có thể tiêu hao nguyên khí; vì dương khí không được thăng bằng mà sinh ra bệnh, hỏa được yên chỗ thời mọi hiện tượng sẽ được điều hòa.
69) Hàn không tan hết thì đau trệ, hỏa bốc lên thì sinh ói ngược.
Hàn hay làm ngừng huyết, huyết ngừng thì mạch kết mà đau trệ; hỏa tính bốc lên, bốc lên thì khí đưa lên mà sinh chứng ói ngược. Nội kinh nói: “hàn thì tổn thương hình thể”, lại nói: “các chứng ói ngược lên đều thuộc về hỏa” chính là như vậy.
70) Đau thời không thông, thông thời không đau.
m dương lên xuống, khí huyết chu lưu, còn có bệnh gì nữa! Duy ngưng trệ không thông thời sinh đau, cho nên phép chữa đau, lấy vị cay thơm để hành khí thông huyết là việc hàng đầu
71) m hư có hai chứng, phần thủy trong âm hư thời bệnh ở tinh huyết, phần hỏa trong âm hư thời bệnh ở thần khí.
Thận ở chỗ chí âm, trong thận có chân thủy, chân hỏa. Thủy hư thời tráng hỏa đốt ở trong, phần âm cháy khô mà tinh huyết suy tổn, hỏa hư thời hỏa nhiệt bốc lên, phần dương lạnh trệ mà khí mất, thần mệt.
72) Người béo thời thịnh ở ngoài mà kém ở trong.
Người béo thời huyết thịnh hơn khí, âm thịnh hơn dương, nguyên khí không thể làm chúa tể được ở trong cho nên ngoài tuy hữu dư mà trong thực bất túc.
73) Thần thương tổn vì tư lự thời thịt sút, ý thương tổn vì lo sầu thời chân tay rời rạc, hồn thương tổn vì thương xót thời gân co quắp, phách thương tổn vì vui mừng thời da dẻ khô, chí thương tổn vì giận giữ thời sống lưng khó cúi ngửa.
Tâm chứa thần và thống quản huyết, huyết chủ da thịt, tư lự thời thương tổn đến tâm; tỳ chứa ý và chủ tay chân, lo sầu thời thương tổn đến tỳ. Can chứa hồn và chủ gân mạch, thương xót thời thương tổn đến can; phế chứa phách và chủ lông da, vui mừng thời thương tổn đến phế; thận chứa chí và chủ xương, eo lưng là huyệt Thận du, giận dữ thời thương tổn đến thận.
74) Hỏa với nguyên khí, thế không đứng sóng đôi được, cho nên hỏa thịnh tức là nguyên khí suy. Nguyên khí là căn bản của thủy hỏa, sinh sản ra khí huyết, tuy là gốc của sự sống, thực là trống rỗng vô hình. Hễ bị thương tổn phần nhiều là do bất túc, cho nên các bệnh thuộc loại hữu dư đều vì chính khí suy kém.
Dương khí tức là hỏa, hỏa tức là dương khí, nó là của rất quý báu trong nhân thể. Hỏa ở nguyên vị của nó thời là thiếu hỏa để sinh nguyên khí, mất vị trí thời là tráng hỏa để hại nguyên khí, trở thành kẻ thù của nguyên khí. Cho nên nói hỏa với nguyên khí, thế không đứng sóng đôi được, một bên thắng thời một bên thua, hễ tà phạm được vào thân thể tất là do chính khí bị hư; thấy tật bệnh hữu hình có thừa tức là nguyên khí vô hình không đủ.
75) Huyết bị hỏa đẩy thời đi lên, kèm có thấp thời đi xuống.
Huyết thuộc thủy, tính của thủy thấm nhuần xuống. Khí thuộc hỏa, tính của hỏa cháy bốc lên, khí đi thời huyết theo; hỏa tức là khí, hỏa bốc thời khí thăng mà huyết đi lên. Thấp cũng thuộc loài thủy, được cùng loài với huyết mà đi xuống.
76) Người ta nhờ âm dương thủy hỏa mới sống được, mà thận là gốc của âm dương thủy hỏa.
Thận thuộc thủy mà chân thủy chân hỏa chứa ở đó, và chân âm chân dương ngụ ở đó. m dương thủy hỏa là tác dụng của thần minh, nguồn gốc của sự sinh trưởng, cội rễ của tính mạng.
77) Mồ hôi là chất dịch của tâm, là biệt danh của huyết.
Chân âm trong quẻ Ly; tức là chất dịch đỏ trong tâm, được lệnh của tâm hỏa mà thành huyết. Người bị bệnh thương hàn, gọi máu mũi là mồ hôi đỏ. Lúc trị chứng thực nhiệt mà sinh ra thổ huyết, nục huyết nên phát hãn, ấy là lẽ mất mồ hôi thời không có huyết; Bệnh huyết khô thời da dẻ sạm khô, ấy là lẽ huyết bị đoạt thời không có mồ hôi. Vì mồ hôi với huyết cùng loại mà khác tên.
78) Lo nghĩ làm tổn hại nặng hơn tình dục.
Lo nghĩ thời tổn thương tỳ, hại đến huyết, tình dục thời tổn thương thận, hại đến tinh. Nhưng huyết sinh ra tinh, thế thì huyết thực là gốc của tinh. Sách nói: “không có con thì chữa ở tâm”; không chữa ở thận mà trách cứ ở tâm, là chữa ở gốc tinh. Lo nghĩ thời gốc tinh bị tổn thương hại càng nặng.
79) Nhiệt thời tinh thần hôn mê, hàn thời tinh thần tỉnh táo.
Nhiệt thời hại khí, khí để sinh ra thần, khí bị bệnh thì thần cũng bị bệnh, thần minh lẫn lộn mà khí mờ loạn, như bệnh nguy ở vào tình trạng âm dương ly thoát, mà tinh thần còn thấy tỉnh táo, lời nói còn chưa mơ hồ, đấy là bên trong đã không còn dương nhưng vì thủy có thể hàm nhuận kim mà tinh thần còn tỉnh táo, người kém nhận lầm là dấu hiệu tốt.
80) Chứng khát uống nước có chia ra âm dương, dương thịnh âm hư thời uống nước đá cũng không biết lạnh; âm thịnh dương hư thời uống nước sôi cũng không biết nóng.
Đó là âm hư dương hư đều có thể sinh ra khát, chỉ dựa vào uống nóng uống lạnh để phân biệt. Song lại có trường hợp giả âm giả dương, lại càng ảo diệu phức tạp. Cho nên hễ khát mà không uống được tức là hiện tượng giả. Nên xem xét thêm các chứng trạng và mạch để xác định cho rõ.
81) Huyết mạch là sông ngòi trong nhân thể, cốt lưu thông mà không ngưng trệ.
Huyết mạch của nhân thể cũng như sông ngòi của trời đất, nước được lưu thông thời muôn vật tốt tươi, huyết mà vận hành thời toàn thân được tưới nhuần, bế tắc một tý thời vạn bệnh theo đó mà sinh ra.
82) Tai thuộc thận, dương khí thịnh thời thông lên mà tai tỏ, dương khí hư thời thoát xuống mà tai điếc.
Thận khai khiếu ở tai, chân dương ở trong thận, tức là chân hỏa làm thủy tổ của toàn thân. Khí thịnh thời tai tỏ, khí hư thời tai điếc. Sách thuốc lấy Xương bồ là vị thuốc chủ yếu chữa điếc, vì tính cay thơm dẫn khí lên khai thông khiếu.
83) Biểu tà truyền vào lý thì khí ở phần lý xốc ngược lên, cho nên chứng bán biểu bán lý phần nhiều thấy hay ói mửa.
Đây là chứng thiếu dương thương hàn, phần biểu không thể phát hãn; phần lý không thể hạ được, phải theo phép hòa giải. Nhưng khí xốc ngược lên thành chứng mửa vẫn có trường hợp vì khí hư, khí thực không thể không cẩn thận.
84) Nguyên khí hư nhược mà phát sốt, đều là vì trong chân hàn mà ngoài giả nhiệt.
Đây là bí quyết của Tiết Lập Trai chữa nhiệt, thực là một lời mở mang cho sự mờ tối đã giúp đời rộng rãi vô cùng. Vì hư thời hàn, vì thực thời nhiệt; thực hay bị hàn, hư hay bị nhiệt; khi nguyên khí đã hư nhược mà phát sốt không phải âm hư dương lấn tức là thủy suy hỏa bốc, hoặc thổ hư không thể chứa dương, hoặc hỏa hư mà hư hỏa bốc lên làm ra chứng giả nhiệt, tuyệt đối không có lý thực nhiệt. Thầy thuốc không xét kỹ chỗ ấy dùng lầm thuốc hàn lương thời giết người như trở bàn tay.
85) Đổ mồ hôi đầu có hai chứng: Một là vì nhiệt tà vít lấp ở trong; Hai là vì dương khí thoát ở trong.
Chứng nhiệt tà chia ra làm hai: như thấp nhiệt vít lấp lên trên mà đổ mồ hôi đầu thời đầu tất nặng; như phong hỏa xô đẩy nhau mà đổ mồ hôi đầu thời đầu tất mờ choáng. Còn như dương hư mồ hôi thoát thời mồ hôi như hạt châu, nhờn như dầu, đọng mà không chảy là mồ hôi sắp tuyệt.
86) Phong là dương, hàn là âm, vệ là dương, vinh là âm; Phong thời tổn thương dương, hàn thời tổn thương âm, vệ bị phong thời nhiệt, vinh bị hàn thời đau.
Khi khách tà phạm vào thân thể, đều theo loại của nó mà vào, dương tà phạm vào thì tổn thương phần dương, âm tà phạm vào thì tổn thương phần âm; Vì phong có thể thổi hỏa bốc lên, phong hỏa đốt ở trong mà sinh nhiệt; hàn có thể ngưng đọng huyết, da thịt ngưng trệ mà thành đau.
87) Thương phong là biểu chứng, trúng phong là lý chứng.
Thương phong là biểu chứng do khách tà ở ngoài tới, vì dương khí không vững nên bị cảm, chữa chỉ nên tán biểu tà. Trúng phong là lý chứng, do chính khí hư ở trong mà phát lên, vì âm hư suy kiệt mà phát bệnh, chữa nên bổ mạnh vào tinh huyết, cho nên nói: “chữa phong phải chữa huyết trước”.
88) Táo, thấp tuy là ngoại tà, cũng có chia ra chứng âm chứng dương, thấp theo phần âm là hàn thấp, thấp theo phần dương là nhiệt thấp. Táo theo phần dương là vì hỏa đưa tới; táo theo phần âm là vì hàn đưa tới.
Dương minh táo kim, thái âm thấp thổ đều là khách khí trong lục dâm, nhưng thấp thì có âm dương, táo chia ra thủy hỏa, đó là hư thực ngụ ý ở trong. Cho nên chữa chứng thấp nhiệt thời nên dùng thuốc thanh nhiệt, thuốc lợi tiểu (thấm thấp), chữa chứng hàn thấp nên bổ tỳ ôn thận. Táo do ở dương thịnh mà đốt cháy âm, thời nên thanh hỏa; táo do ở âm hư mà hỏa động thời nên tư thủy (bổ thêm chân thủy).
89) Hàn tà bó ở ngoài thời không có mồ hôi; hỏa thịnh ở trong thời sinh mụn nhọt.
Mồ hôi là tên riêng của huyết, hàn có thể ngưng huyết, cho nên hàn tà bó lại thời không ra mồ hôi. Các chứng mụn nhọt đều thuộc tâm hỏa nóng dữ làm thương huyết, cho nên sinh mụn nhọt.
90) Sưng đỏ chạy chỗ này sang chỗ khác, thì biết rằng vinh vệ có nhiệt; co quắp mà nhói đau, thì biết trong kinh lạc có hàn.
Tính của hỏa cháy và bốc lên; vệ đi ở ngoài mạch, vinh đi ở trong mạch, có nhiệt thời da thịt sưng đỏ, chạy chỗ này đến chỗ khác; hàn có thể thu dẫn mà ngưng huyết. Đi thẳng là kinh, đi ngang là lạc, kinh lạc có hàn thời khớp xương chân tay nhói đau co quắp.
91) Trọng Cảnh nói: “bụng đầy không bớt, bớt không đáng kể thời nên xổ; bụng đầy có lúc bớt rồi lại như cũ, ấy là hàn, nên cho uống thuốc ôn”.
Chứng đầy tuy là bệnh hữu dư nhưng phải phân biệt hư thực để bổ tả. Vì bụng đầy không bớt, bớt không đáng kể thì chắc chắn đó là chứng đầy thuộc thực, nên phải xổ. Còn như đầy có lúc bớt rồi lại như cũ là trường hợp khí tụ khí tan, đó là chứng đầy thuộc hư, phải nên điều bổ.
92) Trăm bệnh phát sốt không bệnh nào là không do mệnh môn hỏa lìa cung. Nếu hỏa ở yên chỗ thì mọi bệnh đều khỏi.
Phàm phát sốt tức là do hỏa ở trong mình ta, cho nên biểu nhiệt đều do dương ở phần lý bốc ra ngoài, nhiệt ở trên đều do hỏa ở dưới lấn lên, vì nguyên khí hư không thể tiếp nạp được. Mệnh môn hỏa lìa cung biến thành tráng hỏa, diệt hết khí mà gây ra tổn hại. Nếu hỏa ở yên một chỗ lại là thiếu hỏa để sinh khí thì mọi hiện tượng đều vui hòa.
93) Ngũ tạng đều có tướng hỏa, duy có tướng hỏa ở can, khi lành thì sinh dưỡng can, khi dữ thì làm hại cơ thể hơn các tướng hỏa ở các tạng khác.
Tướng hỏa ở can gọi là Lôi hỏa, can ứng về phương đông, giáp ất mộc, bình thường thời là khí sinh dục ôn hòa làm cho đâm chồi nảy lộc, trái thường thì thúc đẩy Long hỏa trong thận ra đốt cháy tam tiêu, bốc ra ngoài da thịt làm tổn hao khí huyết không trừ chỗ nào.
94) Ăn quá no thì kinh lạc căng thẳng mà chân tay thân thể mỏi mệt.
Tỳ chủ huyết mạch, chủ về chân tay, vị thu nạp nhiều quá, tỳ không vận hóa kịp, khí hóa đình trệ lại cho nên kinh lạc căng thẳng mà chân tay mỏi.
95) Mùa đông cảm thụ hàn tà, đến mùa xuân thường hay phát ra bệnh ôn nhiệt.
Mùa đông cảm thụ phải hàn tà thời khí “nhất dương” chứa ở trong khảm phủ (thận) không thể vững kín; hàn hay làm ngưng huyết thì chân âm trong thận cũng hư, đến mùa xuân thì cây cối phát sinh dương khí hoạt động. Vì chân dương không thể cổ vũ ở ngoài, chân âm không thể tư dưỡng ở trong, trong người chỉ còn có một chút dương mong manh thôi, mộc vượng thì hỏa giúp cho nên sinh bệnh ôn nhiệt.
96) Mùa xuân cảm phong tà thì mùa hè có thể sinh ra chứng ỉa chảy.
Mùa xuân cảm phải phong tà thời phong mộc thái quá mà mộc khắc được thổ.
Sách nói: “Phong mộc hay lấn sang tỳ thổ” thì tỳ thổ đã bị hại ngầm từ ba tháng xuân, đến mùa hè thời tiết ôn nhiệt lưu hành, tỳ ưa táo mà ghét thấp, cho nên sinh chứng ỉa chảy. Nội kinh nói: “Thời tiết đến rồi mà khí hậu chưa đến gọi là bất cập, cái nó thắng thời làm càn, cái nó không thắng thì khinh lờn cái nó sinh ra thời bị bệnh” là nó như thế.
97) Mùa hè cảm phải thử tà, mùa thu có thể sinh ra bệnh sốt rét.
Mùa hè cảm phải thử tà, vì tháng trưởng hạ khí dương của người bốc ra ngoài da, dương khí vốn vì phát tiết mà hư hao, hỏa có thể khắc kim mà hại khí, khí lại càng hao, đến mùa thu khí heo hắt lại thịnh hành, khí huyết thu liễm lại, khí hư thời phát hàn, huyết hư thời phát nhiệt, khí huyết giao tranh, hàn nhiệt đều phát thành chứng sốt rét.
98) Mùa thu cảm phải thấp tà, mùa đông có thể phát bệnh ho.
Mùa thu cảm phải thấp tà vì khí mùa thu heo hắt, chất thu liễm đi xuống lại bị khí thấp nhiệt làm cho tổn thương, hỏa lại khắc kim mà phế khí bị tổn thương. Đến mùa đông chủ việc bế tàng, khí thu về thận, vì khí hư không thể thu nạp được cho nên bị nghịch lên mà sinh ra chứng ho.
99) Mùa hè nóng bức mà mồ hôi không ra thì mùa thu có thể thành chứng phong ngược [99].
Về tiết tam phục, nắng nực nung nấu, dương khí phát tiết, đáng lý phải ra mồ hôi. Nếu vì nhà cao cửa rộng, quạt nồng, hóng mát làm cho không ra mồ hôi được, độc nắng tích lại trong da thịt, đến mùa thu khí heo hắt thịnh hành thời sinh ra chứng phong nhiệt.
100) Mừng giận thất thường thời hại tạng, hại tạng thì bệnh phát ở phần âm.
Mừng thời hại tâm, tâm mừng thời tán khí lại hại đến phế, giận thời hại can, can giận dữ thời hại chí lại hại đến thận. Uất giận còn hại tỳ. Thế là mừng giận thời ngũ tạng đều bị thương. Ngũ tạng thuộc âm cho nên phát bệnh ở phần âm.
101) Bệnh ở phần dương gọi là phong, bệnh ở phần âm gọi là tý (tê), âm dương đều bệnh gọi là phong tý.
Dương thuộc loại nhiệt, âm thuộc loại hàn, phong là dương tà, tý là âm tà, phong hàn đều có thể làm đau, âm dương đều bệnh, tìm loại mà theo nhau, cho nên gọi là phong tý.
102) Mồ hôi ra mà mình nóng là phong, mồ hôi ra mà phiền đầy không bớt là quyết.
Phong làm tổn thương phần vệ, khí ở phần biểu hư, cho nên bị thương phong thời có mồ hôi mà mình còn nóng, mồ hôi ra thời hỏa tán. Chứng phiền thuộc hỏa thuộc khí, nay mồ hôi ra mà nhiệt không lui, phiền đầy không khỏi ấy là dương hư bị âm lấn tới mà phát ra chứng quyết.
103) Hình thể người ta thì xương là quân, thịt là thần, người béo thời nhu thắng hơn cương, âm thắng hơn dương, thịt là do huyết tạo thành, đều thuộc loại âm.
Người béo thì âm thịnh dương suy, cho nên khí đoản, da lạnh như nước đá, nhiều đờm, nhiều trệ, có thể biết là trung khí ở trong hư, cho nên ít con cái, ít sống lâu cũng là lẽ ấy.
104) Tiếng nói xuất từ phế mà gốc ở thận, hình mạnh ở huyết mà gốc ở tinh.
Phế chủ đưa khí ra, thận chủ nạp khí vào, cho nên phế là cửa của thanh âm. Thịt là do huyết sinh ra, xương vốn là tinh tụ lại, cho nên hình thuộc huyết mà xương thuộc tinh.
105) Không nói được là bệnh ở phế thận, mờ choáng là bệnh của can tỳ.
Phế đưa khí ra, thận nạp khí vào, không nói được là vì khí yếu. Can chứa huyết, tỳ sinh huyết, mờ choáng là huyết hư, vả lại ở trong hư thời sinh phong.
106) Khí ở 6 kinh dương tuyệt thời âm với dương lìa nhau, đã lìa nhau thời tấu lý sơ hở, tuyệt hãn [100] chảy ra cho nên sớm thấy chiều chết, chiều nay thấy sớm mai chết.
Các kinh thủ tam dương, túc tam dương gọi là sáu kinh dương, còn như chủ chốt nhất là nguyên dương ở vị làm sinh khí của hậu thiên; chân dương ở thận làm tổ khí của tiên thiên. Đại phàm đạo lý âm dương, âm bắt rễ ở dương, dương bắt rễ ở âm, tác dụng lẫn nhau. Người ta nhờ đó để sống, chỉ có âm thăng bằng, dương kín đáo, tinh thần mới yên. Nếu âm dương tách rời, thì tinh thần sẽ mất, cho nên dương tuyệt thời âm cũng vong, âm tách rời thì dương cũng thoát, còn mong gì sống được.
107) Lao lực thời đổ mồ hôi, trong ngoài đều bốc ra cho nên hao khí.
Nội kinh nói: “Thân thể làm việc nhọc thời dương khí càng thịnh, tinh thần yên tĩnh thời âm khí sinh”. Cho nên làm việc nhọc thời hỏa động, hỏa khắc kim, phế khí bị thương, vệ khí hư mà đổ mồ hôi thời chân khí theo đó mà hao tán.
108) Mùa hè nắng nực nên cho đổ mồ hôi mà không nên giữ lại.
Tháng trưởng hạ [101] khí thử thấp lưu hành, ra được mồ hôi thời khí độc tà thử nhiệt đều tan mà không lưu lại ở da dẻ, cho nên đừng dùng quạt và hóng mát để giữ nó lại. Nội kinh nói: “Mùa hạ nắng nực, mồ hôi không ra được, đến mùa thu sinh ra chứng phong ngược” cũng là lẽ ấy.
109) Tàng chứa ở trong tâm là huyết, phát ra ngoài là mồ hôi là chất dịch của tâm, chưa có chứng tự đổ mồ hôi nào là không do tâm thận hư mà sinh ra.
Đấy là câu khuôn phép của Chu Đan Khê, vì mồ hôi là tên riêng của huyết, tâm thống quản huyết, mồ hôi vẫn là chất dịch của tâm, nhưng thận chủ ngũ dịch lại chủ việc bế tàng mà làm thành chân dương chân thủy. Chứng tự đổ mồ hôi phần nhiều thuộc dương hư, tuy do ở tâm nhưng còn quan hệ ở thận nữa.
110) Ngũ tạng không hòa, thời chín khiếu không thông; lục phủ không hòa, thời kết lại thành ung nhọt.
Ngũ tạng thuộc âm, âm giữ gìn dương, lục phủ thuộc dương, dương giúp đỡ âm. m chủ huyết, huyết tán thời khí không thống nhiếp được mà không thông. Dương chủ khí, khí trệ thời huyết ngưng trệ lại mà sinh ra ung nhọt.
111) Vị chua chạy vào gân, ăn nhiều vị chua làm cho tiểu tiện bí, vị mặn chạy vào huyết, ăn nhiều vị mặn làm cho người ta khát nước.
Vị chua chạy vào can, can chủ về gân, ngọc hành thuộc tông cân [102], can ưa sơ tiết cho nên can hư mà sinh bí tiểu tiện. Vị mặn vào thận chủ thủy, thủy cũng là loại huyết, thủy suy hỏa bốc cho nên chứng thận hư phần nhiều khát nước.
112) Sau khi thổ tả quá nhiều phần nhiều bụng trướng, ấy là chứng trạng tỳ khí đại hư.
Vị không thể thu nạp được thời mửa, tỳ không thể vận hóa được thời tả. Chứng trạng thổ tả quá nhiều không còn một chút gì trong bụng mà bụng còn trướng tất là vì tỳ khí không vận hành, khí bế tắc lại mà thành chứng trướng giả tạo đó thôi. Chớ nên nhận lầm là còn có ứ tích, mà dùng thuốc tiêu nữa.
113) Nôn ra vị chua là trong thấp sinh nhiệt, nuốt chua là hư hỏa uất bên trong, đều là thuộc tỳ vị hư hàn.
Chứng nôn ra vị chua ai cũng dễ hiểu, chứng nuốt chua người rất khó hiểu, tôi đã nói kỹ ở quyển Đạo lưu dư vận, vì nôn ra chất chua là nôn ra vị chua, còn nuốt chua là khi ợ hơi lên dịch vị sẽ tràn theo lên họng, mửa không ra được, bất đắc dĩ phải nuốt đi, thấy mùi chua chua là mùi vị của thấp uất, thổ ghét thấp thời thổ hư hỏa uất, cho nên nói là tỳ vị hư hàn.
114) Tỳ thổ mà không có hỏa ở mệnh môn là không thể sinh được, phế khí không có thủy ở mệnh môn thì không thể hóa được. Người ta ai cũng biết có thổ ức chế thủy, mà không biết được dương ức chế được âm, ai cũng biết khí hóa ra tinh mà không biết tinh hóa ra khí.
Mệnh môn là khí thái cực của nhân thể, trong thận là chỗ chứa khí thái cực, vì quả thận bên trái là chân âm, chân thủy để hóa ra phế khí, quả thận bên phải là chân dương, chân hỏa để sinh ra tỳ thổ. Người ta ai cũng biết tỳ thổ chế ước được thận thủy, mà không biết chân hỏa chế ước được âm thấp ở tỳ thổ mà sinh thổ. Người ta biết được phế khí hóa thủy làm tinh mà không biết chân thủy là nguồn gốc của âm tinh mà lại chứa tinh.
115) Chứng tích do hàn lưu trệ lại, lưu trệ lâu thời hàn phần nhiều sinh nhiệt. Phong gây thành chứng tích, tích thành thời bệnh lại không phải là phong.
Tỳ thích ấm mà ghét lạnh, ấm thời vận hành, lạnh thời ngưng trệ, cho nên sở dĩ thành bệnh tích là gốc bởi vì tỳ hư hàn, hàn khí uất lâu thời trở thành nhiệt, cho nên nói: bắt đầu là hàn trung, cuối cùng là nhiệt trung. Nhưng đầu mối phát bệnh phần nhiều do phong gây thành chứng tích. Vì phong hay xâm phạm tỳ thổ, tỳ hư thời đờm với máu ứ nhân gặp chỗ trống mà ngưng lại thành tích. Chứng tích đã thành rồi, thì cốt lấy tỳ vị làm căn bản để trị tích, không can gì đến phong nữa.
116) Ai cũng biết chứng tức đầy (bĩ mãn) là do khí không vận hành, chỉ có Lý Đông Viên thì nói là do bệnh ở huyết.
Tỳ không thể vận hành thời ngưng tụ thành chứng tích đầy, ai cũng biết dùng thuốc cay thơm hành khí để chữa. Chỉ có Lý Đông Viên thì cho là bệnh ở huyết, đem thuốc âm dược để chữa, đó là một ý kiến sâu sắc. Vì trọc khí ở trên thì sinh ra đầy trướng. Nội kinh nói: “ăn uống không điều độ, sinh hoạt không chừng mực thời phần âm chịu đựng trước”. Cho nên chứng quan cách thường do ở vị khẩu khô khan, hễ lấy khí dược chữa bệnh đầy mà bệnh càng tiến là không biết ý nghĩa ấy, cho nên nói bệnh ở phần âm chớ bổ ích phần dương. Dương vượng thời âm mòn.
117) Tháng trưởng hạ hay sinh bệnh ỉa chảy (tháo dạ) là chứng hàn trung.
Tiết tam phục nung nấu, khí thấp nhiệt lưu hành, nhiều người nhận là bởi nắng dữ làm ra nhiệt, nhưng trên chữ nhiệt có chữ thấp, vì tiết hạ chí nhất âm sinh, tức là phục âm của mùa hạ ngoài nhiệt mà trong hàn, cây trên rừng chảy nhựa, cho nên nói nắng là âm tà, ý nghĩa rất sâu xa.
118) Đi tả nhiều thời vong dương, là nói vong dương ở trong âm.
Tả ra ở dưới, dưới là phần âm cho nên nói: “tả thời thương tổn huyết”. Nói vong âm tức là nói đại khái. Nhưng sau khi đi tả tổn thương vị khí, dương khí bị hãm xuống, âm khí thoát, nặng quá thời tay chân giá lạnh mà vong dương, phép xưa dùng Phụ tử lý trung thang để chữa tả, có phải đó là âm dược ư? Có thể gọi đó là âm vong được ư? Nên nói là vong dương ở trong âm, ấy là có ý nghĩa sâu sắc, cũng như mồ hôi ra nhiều thời vong dương, nên nói là vong âm ở trong dương. Tôi đã bàn kỹ điểm này trong quyển Đạo lưu dư vận.
119) Khô họng và khát nước rất không giống nhau, khát là hỏa táo hữu dư, khô là tân dịch bất túc.
Vì khát của chứng thực hỏa là hỏa hữu dư, khát của chứng vong âm là thủy bất túc. Khát thời uống nhiều mà không chán, tạng phủ cháy khô đòi nước ở ngoài để tự cứu. Khô thời thường uống mà không uống nhiều, tân dịch hao kiệt, muốn được thấm nhuần chỗ khô táo. Thực hỏa nên tạm dùng hàn lương làm dịu sức cháy dữ. Vong âm nên tráng thủy để chế dương quang.
120) Tặc phong hư tà thời phần dương bị cảm trước; ăn uống không điều độ, làm lụng nghỉ ngơi không chừng mực thời phần âm bị tổn thương trước.
Tặc phong hư tà là bệnh ở ngoài tới, cho nên phần dương bị cảm trước; ăn uống làm lụng nghỉ ngơi là bệnh từ trong phát ra, cho nên phần âm bị tổn thương trước, ấy là dương chủ ngoài, mà âm chủ trong.
121) Đàn bà vì thai khí, kinh nguyệt làm phần âm hao tổn rất nhiều cho nên phần nhiều bị đau ngang lưng và nhức chân.
Thận chứa tinh, can chứa huyết, thận chủ xương, can chủ gân, ngang lưng là bộ vị của thận, chân là phủ của can, tinh hư thời xương bại, huyết suy thời gân khô, tinh huyết là âm, âm hao tổn cho nên lưng đau chân nhức.
122) Đau là hàn khí nhiều, có hàn cho nên đau.
Hàn làm sít huyết, huyết ngưng thời kinh lạc kết lại mà đau, cho nên nói: “hàn thời thương tổn thân hình”, lại nói: “hàn thời thương tổn phần dương, dương hư thời huyết kết, khí kết thời huyết trệ mà đau”.
123) Tinh ba của ngũ tạng lục phủ đều dồn lên mắt mà làm tròng mắt, tinh ba của xương làm thành con ngươi, tinh ba của gân làm thành tròng đen.
Nhà chuyên môn nhãn khoa có chia ra làm ngũ luân bát quách thuộc ngũ tạng lục phủ chỉ làm cho rắc rối, tóm lại tinh ba khí huyết của con người đều dồn lên mắt, cho nên mắt mới sáng, nhưng căn bản chỉ ở hai tạng can và thận thôi. Can thuộc lòng đen, thận thuộc con ngươi, can chủ huyết, thận chủ tinh; thần quang, thần cao, thần thủy đều là tên gọi riêng của tinh huyết. Lại có điều trọng yếu nhất, là chỉ có thận chủ chân âm, chân dương, hỏa để soi sáng, thủy để thấm nhuần nuôi dưỡng (đã bàn kỹ ở môn nhãn khoa).
124) Con ngươi lồi là thái âm kém, mắt nhìn ngược là thái dương tuyệt.
Con ngươi thuộc thận, âm thiếu thời dương thừa, tính hỏa bốc lên mà lồi ra. Mạch kinh thái dương theo xương sống đi lên tiếp vào mắt, mắt nhìn ngược là dương đã tuyệt khí thoát mà chết.
125) Trẻ con thủy ở phần trên, hỏa ở phần dưới cho nên mắt sáng; người già hỏa ở phần trên, thủy ở dưới cho nên mắt mờ. Không thể trông xa được là khí dương thiếu, không thể nhìn gần được là khí âm thiếu.
Kinh Dịch nói: “Sự sáng của trời đất chỉ có mặt trời với lửa”, nhưng mắt mờ hay sáng không đơn thuần chỉ có hỏa mà phải có cả thủy. Sách nói: “âm không đưa được sáng lên mắt”, ấy là âm không nuôi dưỡng thời không sáng được. Tôi đọc sách nhãn khoa thấy có chỗ nói: “dương thiếu âm thừa, thời trông gần được không trông xa được; âm thiếu dương thừa thời trông xa được”, thật đáng buồn cười, trông gần được, không trông xa được đó là lẽ thường chứ trông xa được mà không trông gần được thật là vô lý. Thường thấy người âm hư phần nhiều nghiêng đầu nhìn sát, tròng mắt xếch nghiêng, trông gần để phân biệt mọi vật còn như thế, huống hồ lại nhìn xa được. Nội kinh nói: “khí ở phần trên kém, não vì thế mà không đầy; đầu vì thế bị lệch nghiêng, mắt vì thế mà phải nhìn sát, đó là khí kém”, có thể nói đó là dương thừa được không? Xét trong Nội kinh chỉ nói dương thiếu âm thiếu, mà không nói trông xa trông gần, sao không nghiên cứu lại nói càn là âm thừa, dương thừa. Lời bàn tuy thuận mà nghĩa trái ngược; thực là sai hẳn ý nghĩa của Nội kinh.
126) Bệnh hay nghẹt mũi là nhiều hỏa, bỗng nhiên bị nghẹt phần nhiều là phong hàn.
Phế kim chủ khí, khai khiếu ở mũi, hỏa khắc kim tổn thương phế khí, cho nên mũi thường bị nghẹt vì hỏa. Phế chủ bì mao, phong hàn trước xâm nhập vào bì mao, phế khí bị thương ở trong, nên mũi nghẹt đột ngột.
127) Tinh là gốc nuôi sống con người, cho nên mùa đông mà giữ gìn được nó thời mùa xuân không mắc bệnh ôn.
Tiết Đông chí nhất dương sinh, người ta ẩn nấp được kín đáo, thì hàn tà không làm tổn thương được; Vì làm lụng nhọc mệt, trong ngoài đều sơ hở, da thửa không vững kín bị hàn phạm vào; hàn có thể làm ngưng huyết, huyết là để sinh tinh, tinh huyết đều thuộc âm. Đến mùa xuân khí thiếu dương lưu hành thịnh vượng, mộc không có thủy nuôi dưỡng, tướng hỏa đi càn mà sinh ra bệnh ôn nhiệt, ấy là chân âm không thể tư dưỡng ở trong, chân dương không thể tươi tốt ở ngoài được.
128) Trước sang rồi sau hèn mà sinh bệnh gọi là “thoát dinh”, trước giàu rồi sau nghèo mà sinh bệnh gọi là “thất tinh”.
Người sang thường mong muốn được trọng vọng, tiếp xúc với sự vật hàng ngày rất nhiều, hay lao tâm. Người giàu thì ý đồ hay vụ lợi, một tý cũng không cho tốn, phần nhiều hại chí. Khi đắc chí đã hơi hao tổn rồi, lúc thất chí càng nguy hại hơn, vì rằng tâm tàng chứa thần, thống quản huyết, mà huyết nói cách khác là dinh cho nên gọi là bệnh thoát dinh. Thận chứa tinh, chứa chí cho nên gọi là bệnh thất tinh.
129) Tinh liệt thời âm hư, âm hư thời không có khí đến nỗi thành lao thành tổn.
Tinh là âm, khí là dương, tinh sinh ra khí; chân tinh đã kiệt, chân âm tất hư; khí không có gì sinh ra mà phải suy bại, tạng phủ trống rỗng, tân dịch kết đọng mà thành chứng lao tổn.
130) Chất nước tiểu ở trong người nhờ 2 hai khí tâm thận truyền tống.
Tâm với tiểu tràng có tương quan biểu lý với nhau, thận với bàng quang cũng có tương quan biểu lý với nhau, tiểu tràng thấm ra, bàng quang thấm vào mà thành đường tiểu tiện. Vậy nên nước thấm ra thấm vào, không nhờ khí hóa của tâm thận sao được, không phải chỉ riêng phế điều tiết mà thôi. Sách nói: “thủy không có khí thời không hóa”, tâm là quân hỏa, thận là tướng hỏa, hỏa cũng là khí.
131) Giả nhiệt ở phần trên là do chân hàn ở phần dưới.
Đó là lẽ âm bức dương. Trọng Cảnh nói: “Chứng dương hai gò mà đỏ là âm hư ở dưới bức dương bốc lên”. Sách nói: “âm thịnh quá thì đẩy dương khí ra”, lại nói: “thủy mà cực thịnh thì sẽ giống như hỏa”, là cùng một ý như thế. Vì khí dương bốc ngược lên có khí âm hút mà không lên được, nếu khí âm đã hư không đủ sức hút khí dương, khí dương bốc lên tự do mà sinh ra nóng dữ, thông thường gọi là bức dương chứ không phải âm đuổi dương.
132) Nhiệt cực thời tổn thương âm, tân dịch không lưu hành mà tiểu tiện bí.
Nhiệt là hỏa, âm là thủy, hỏa bốc thời thủy kiệt, cho nên nhiệt cực thời tổn thương âm, âm tổn thương thời huyết tổn thương, huyết tổn thương thời thủy suy, thủy suy thời tân dịch kiệt mà đường thủy không lưu thông, nhưng cũng còn có lẽ do nhiệt mà khí bí. Vì nhiệt làm hại khí, phế chủ khí, việc điều tiết không làm được mà đường tiểu tiện không thông, điều đó không thể không biết được.
133) Bị chứng trúng hàn, có thể thấy là phần lý không có hỏa.
Gọi rằng “thương” có nghĩa là mức độ nhẹ, mà “trúng” là mức độ nặng. Vì sao cảm hàn tà ở mùa đông gọi là thương hàn mà ở các mùa khác thì gọi là trúng hàn? Vì mùa đông có khí phục dương[103] hàn tà không thể vào sâu được cho nên gọi là thương hàn, còn trúng hàn là hàn tà xâm nhập thẳng vào không kiêng nể như vào chỗ không người, như thế thì chân dương chân hỏa trong người có hay không có thể biết ngay được. Cho nên chữa bệnh này phải dùng gấp thuốc ôn để điều hòa chân dương.
134) Trời nắng mà hay cảm hàn thì có thể biết là khí ở phần biểu không vững.
Mùa hạ khí dương của trời bốc ra ngoài đất, khí dương của người bốc ra ngoài da, nóng nực nung nấu, da dẻ uất nhiệt mà lại hay cảm hàn, há không phải nguyên dương đã suy yếu đó ư?
135) Bị nhiệt lâu ngày tổn thương phần âm.
Hễ nhiệt thời huyết khô thủy kiệt, tân dịch tiêu hao phần âm không thương tổn sao được. Vì âm hư thời nhiệt càng bốc mạnh, càng nhiệt thời âm càng thương tổn, âm càng tổn thương thời càng nhiệt. Sách nói: “Chữa thương hàn cốt nhất là cứu âm”, thâm ý là như thế. Song Nội kinh nói: “nhiệt thời thương khí”, ấy là nhiệt đã hay làm tổn thương âm, lại hay làm tổn thương khí. Nhiệt làm nên bệnh, há không phải là âm dương đều thương tổn đó ư? Lúc đầu tiên thấy tựa như chữa rất thông thường, nhưng nghĩ sâu thời trong đó có phân tích. Nội kinh nói: “Nhiệt thương phần khí là nhiệt đã lâu, nhiệt ở trong phát ra”. Sách nói: “Nhiệt bạo phát không phải là âm, nhiệt lâu ngày không phải là dương”, cũng lẽ ấy. Thường thấy các phương chữa trúng thử không dùng huyết dược, vì cớ không phải thương âm. Tôi được nghe câu cách ngôn trong gia đình nói: “Nhiệt bạo phát thời hại phần dương, nhiệt lâu ngày thời hại phần âm” và có một đoạn bàn ở quyển Đạo lưu dư vận, khiến cho người xem biết bệnh nhiệt mới phát và bệnh nhiệt lâu ngày có khác nhau, để khi lâm chứng khỏi hàm hồ.
136) Các chứng ban chẩn, huyết thịnh khí mạnh thời sắc hồng mà đỏ tấy lên, khí hư huyết yếu thời sắc trắng mà lờ mờ, chớ độc tà của ban chẩn không có gì là nặng nhẹ.
Những phương luận về ngoại khoa đều nhấn mạnh nhiệt là độc khí, đại thể là khí huyết không hòa thì tự sinh ra bệnh, há phải trong khí huyết còn có thứ độc gì lưu lại nữa ư?
137) Tuy có chứng tự đổ mồ hôi và đổ mồ hôi trộm có khác nhau nhưng đều là người hư cả.
Mồ hôi là chất dịch của tâm thận, là tên riêng của huyết, dương hư thời tự đổ mồ hôi, âm hư thời đổ mồ hôi trộm. Nếu không phải âm dương vốn đã hư, thời đổ mồ hôi sao được, cho nên bệnh đổ mồ hôi đều là chứng hư cả.
138) Tà khí của kinh Túc thái âm bốc ngược lên thời thành chứng hoắc loạn.
Túc thái âm là kinh của Tỳ, tỳ là đầu các kinh âm, mạch các kinh âm bắt đầu từ huyệt Dũng tuyền, trong âm không có dương thời tà khí bốc ngược lên, âm lấn sang dương, âm dương rối ren mà thành chứng hoắc loạn.
139) Thận hư thời tân dịch kiệt mà đại tiện táo.
Thận chủ 5 chất dịch, hư thời tân dịch kiệt mà đại tiện táo. Có sách nói: “Đại trường vong huyết thời táo” cũng là gốc ở thận hư, vì thận chủ thủy, thủy là chất sinh ra huyết.
140) Bệnh thương hàn mà tiểu tiện lợi phần nhiều là tốt.
Phàm bệnh thương hàn thời đầu tiên cảm vào bì mao, phế khí bị trước. Phế chủ việc trị tiết, lưu thông thủy đạo, nếu phế khí không bị tổn thương thời giữ được việc trị tiết, thủy đạo tự lưu thông, cho nên thấy tiểu tiện lợi là tốt, cũng như sách nói: “chứng thương hàn thấy ho là nhẹ” vì phế chủ phần biểu, chủ việc ho, ấy là tà còn ở phần biểu thời phần lý tự khoan khoái cho nên nhẹ cũng là lẽ ấy.
Nguồn tin: y học căn bản