Hoài sơn (Sơn dược, củ Mài)
Vị ngọt, tính bình. Vào 4 kinh Tỳ, Vị, Phế và Thận, có tác dụng mạnh bổ tỳ, vị. Là vị thuốc chủ lực bổ tỳ, thận. Dùng chữa tả lỵ lâu ngày, tiêu khát hư lao sinh ho, di tinh, đới hạ, tiểu tiện nhiều lần.
Hoạt lộc thảo (Lá Xương sông)
Vị hắc, tính bình. Tiêu đờm, chỉ ho.
Hoắc hương
Vị cay, tính ấm. Sao vàng chữa đầy bụng, sôi bụng, hay nôn.
Húng Chanh (Dương tử tô)
Vị cay, tính mát, tán phong, giải nóng. Chữa phổi nóng hay ho hen, cảm cúm. Còn dùng ngoài, giã đắp lên những vết do rết và bọ cạp cắn.
Huyết dụ
Tính ôn, bổ huyết, điều kinh. Sao đen có tác dụng cầm máu. Còn tác dụng chữa lỵ, lậu, xích bạch đới.
Hương nhu
Vị cay tê, hơi ôn. Vào 2 kinh Phế, Vị. Chữa phong hàn , thử thấp. Có tác dụng làm ra mồ hôi, giảm sốt, lợi thấp, hành thủy, chữa cảm mạo, đầu nhức, bụng đau, miệng nôn, thuỷ thũng, đi ỉa lỏng, chảy máu cam.
Cấm kỵ: Không dùng cho những người âm hư và khí hư.
Hương phụ (củ Gấu, cỏ Gấu, cỏ Cú)
Vị cay, hơi đắng, ngọt, tính ôn. Vào 2 kinh Can và Tam tiêu, thông kinh mạch, khai uất, phá tích. Chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng rất tốt, viêm tử cung mạn tính, các bệnh phụ nữ trước và sau khi sinh nở, đau dạ dày do thần kinh, giúp tiêu hoá, ăn không tiêu, chữa nôn mửa, đau bụng, đi lỵ.
Hy Thiêm thảo (cỏ Đĩ, cây Cứt lợn)
Vị đắng, tính hàn hơi có độc. Vào 2 kinh Can và Thận. Có tác dụng khử phong thấp, lợi gân cốt. Chữa chân tay tê dại, lưng mỏi, gối đau, phong thấp. Sao qua để dùng.
Cấm kỵ: Không dùng cho những người tê đau mà do âm huyết không đủ.
Ich mẫu thảo
Vị cay, đắng, tính hơi hàn, có khả năng trục ứ huyết, sinh huyết mới, hoạt huyết điều kinh. Từ lâu đời, nhân dân ta thường dùng chữa bệnh phụ nữ, nhẫt là phụ nữ sau khi sinh nở: đẻ xong bị rong huyết (làm cầm máu tử cung), chữa viêm niêm mạc dạ con, kinh nguyệt quá nhiều.
Còn dùng chữa huyết áp cao, thuốc bổ huyết, các bệnh về tuần hoàn cơ tim, thần kinh tim, chứng van tim hẹp nhẹ và chữa lỵ.
Vị ngọt, tính hàn, không độc. Vào 4 kinh Phế, Vị, Tâm và Tỳ. Có tác dụng thanh nhiệt, tiêu độc, trị ung nhọt, tiêu sưng rất hiệu nghiệm. Còn dùng chữa sốt, tả lỵ, giang mai. Uống lâu nhẹ người, tăng tuổi thọ.
Cấm kỵ: Không dùng cho những người tỳ vị hư hàn.
Kinh giới
Vị cay, tính ôn. Vào 2 kinh Phế và Can. Cay thì tán phong hàn, ôn thì điều hoà khí vị. Có tác dụng phát biểu, khứ phong, lợi yết hầu, thanh nhiệt, tán ứ, phá kết. Dùng chữa ngoại cảm, phát sốt, nhức đầu, hoa mắt, yết hầu sưng đau, đẻ xong huyết vàng. Hoa Kinh giới sao đen có tác dụng chỉ huyết: chữa thổ huyết, máu cam, đại tiểu tiện ra máu.
Lá Dấp cá (Diếp cá, Lá Giấp, Ngư tinh thảo)
Vị cay, mùi tanh, tính hơi hàn, hơi có độc. Vào kinh Phế. Có tác dụng tiêu độc, tán nhiệt. Chữa phế ung, trị ho; ngoài ra dùng chữa ủng thũng, trĩ, vết lở loét, thông tiểu tiện, mụn nhọt, kinh nguyệt không đều, viêm sưng tai giữa, sưng tắc tia sữa.
Lá Dâu (Tang diệp)
Vị đắng ngọt, tính hàn. Vào 2 kinh Can và Phế. Có tác dụng tán phong, thanh nhiệt, lương huyết, làm sáng mắt, dùng chữa phong ôn, biểu chứng, lao nhiệt sinh ho, đầu nhức, mắt đỏ, nước mắt chảy nhiều, hoa mắt; còn chữa mình mẩy, chân tay tê.
(Không có hoặc có ít lá Dâu, có thể thay bằng cành hay rễ cây Dâu cũng được)
Ghi chú: Ngoài lá Dâu, tất cả các bộ phận khác của cây Dâu và các loài động vật, thực vật sống gửi trên cây Dâu như: vỏ Dâu (Tang bạch bì), quả Dâu đã chín đen (Tang thầm), cành Dâu (Tang chi), con Bọ ngựa trên cây Dâu (Tang phiêu tiêu), dây Tơ hồng trên cây Dâu (Tang ký sinh) và sâu Dâu đều có tác dụng chữa nhiều bệnh khác.
Lá Lốt
Vị cay, tính ôn, khu phong trừ thấp, trị hàn thấp. Chữa đau nhức ở gân xương. Nhân dân thường dùng làm thuốc chữa đau xương, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay, chân, đi ngoài lỏng.
Lá Nhót
Vị chua, tính mát, sát trùng. Chữa ỉa chảy, kiết lỵ.
Lá Phù dung (Mộc liên, Địa phù dung)
Tính bình, sát trùng. Lá và hoa tươi giã nát đắp vào nhọt mới mưng mủ sẽ đỡ đau và nhọt sẽ tiêu đi, nhọt đang mưng mủ thì hút mủ và làm cho đỡ đau, nhọt đã vỡ rồi thì đắp cho chóng lành da
Tác giả bài viết: Nguyễn Duy
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn