(Trích trong ‘Tố Phô Y Án’ của Trịnh trọng Quang, Trung Quốc)
Con gái thầy giáo họ Nguyễn, năm đó 17 tuổi, vốn có chứng tiêu chảy do Tỳ hư. Do buồn về việc đứa con chết sớm vì vậy kinh nguyệt bế luôn đã gần nửa năm nay, bụng đau, sờ vào thấy có cục, lại sốt và ho, sau đó bụng trướng lên rồi tiêu chảy. Rõ ràng là chứng hư lao bắt đầu phát hiện.
Sách ‘Nội Kinh’ ghi: “Nhị dương chi bệnh phát tại Tâm Tỳ hữu bất đắc uẩn khúc, nữ tử bất nguyệt, kỳ truyền vi phong tiêu, vi tức phẩn giả tử bất trị” (Bệnh ở Vị (nhị dương – Dương minh) phát ra (biểu hiện) ở tạng Tâm và Tỳ, kèm thêm nỗi u uất, làm cho phụ nữ không thấy kinh, dẫn đến hao gầy, suyễn, sẽ chết, không thể trị được. Nhưng cũng may là trượng hợp này mạch Tế, Hoãn, không Sáp lại cũng không Sác, chứng tỏ chân âm chưa lấy gì làm hư lắm, mà đang còn bệnh Tỳ hư, vì thế, thiết nghĩ là còn có thể trị được. Tuy vậy, nếu không kiên tâm uống thuốc cỡ 100 thang thì cũng khó lòng có kết quả như mong muốn.
Lúc đó có nhiều thầy thuốc ở thành thị chủ trương, nên dùng thuốc công kích để cho thông kinh. Tôi cản ngăn và nói: “Huyết sinh ra là do ở Tâm và Tỳ, nay Tâm Tỳ đều bệnh tức là nguồn gốc của huyết đã bị hư thì dù có công trục không những vô ích mà còn thương tổn đến chân âm là khác”. Tôi liền dùng Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo, Đan sâm, Đương quy (sao đất), Trần bì, Miết giáp, Sa sâm, Hương phụ thì quả nhiên bớt sốt, ho cũng như ỉa cũng bớt, duy chỉ có chứng trướng chưa bớt, kinh nguyệt chưa thông mà thôi.
Về chứng trong bụng có cục, tôi nghĩ là huyết tích, bèn dùng cổ phương ‘Vạn Ứng Hoàn’, dùng Can tất (sao cho hết khói vàng, nghiền thành bột mịn), dùng Thục địa và Ngưu tất nấu cao quết rồi viên thành viên nhỏ. Mỗi ngày uống 30 viên, vào buổi sáng, lúc bụng đói, với nước cơm. Một tháng sau, kinh nguyệt đã thông, hạ xuống từng mảng huyết đỏ bầm rồi bụng xẹp dần. Sau đó, tôi dùng phương thuốc bổ như lần trước để điều lý cho khỏi. Nếu trước kia không dùng thuốc để bồi bổ, cứ dùng liều những thuốc về loại công trục thì chắc chắn thất bại.
(Trích trong ‘Tử Siêu Y Thoại’ của Nguyễn Tử Siêu, Việt Nam)
Nguyễn Thị Phi L…, 16 tuổi, học sinh, mẹ mất sớm, ở với bố. Năm đó, bắt đầu thấy kinh. Vì là lần đầu thấy huyết ra, không biết đó là hành kinh, rất hoảng sợ, vào buồng tắm cặm cụi rửa... Rồi cứ lúc nào thấy huyết ra là lại rửa mất tới 20 - 30 phút. Kinh ra tới 4 ngày mới sạch cũng rửa cả 4 ngày. Cứ cặm cụi một mình, vừa lo lắng, lại chẳng dám hé răng với ai. Sau khi kinh sạch vài ngày, thấy tinh thần mỏi mệt, sợ lạnh, da thường nổi gai ốc, eo lưng đau nhức, các khớp chân tay rã rời, hoa mắt, chóng mặt, húng hắng ho luôn, ăn uống sút kém. Nhân có bạn của bố là bác sĩ, ông liền đưa cô đến khám bệnh. Bác sĩ đoán là bệnh phổi, vừa dùng thuốc tiêm, thuốc uống gần một năm, bệnh tình lại ngày càng nặng. Khi tôi tới khám thấy thân thể gầy còm, sắc mặt xanh nhạt, tinh thần hoảng hốt, tiếng nói nhỏ yếu, rêu lưỡi trơn trắng, cả 6 bộ mạch đều Tế Nhược và Sắc. Hỏi đến kinh nguyệt thì thẹn ngoảnh mặt đi không dám nói. Tôi liền nhờ bà thím (vẫn săn sóc cho L) hỏi hộ và dặn phải hỏi rất căn kẽ, tỉ mỉ. Kết quả được bà già thuật lại tình hình khi mới hành kinh như vừa nói ở trên, và lại nói thêm là đã hơn 14 tháng rồi cháu không hành kinh nữa. Sau khi nghe bà già nói, tôi liền kết hợp vọng, văn, vấn, thiết ( tứ chẩn ) lại, đoán là hàn tà lọt vào huyết thất. Vì hàn tà làm ứ trệ ở huyết hải, khiến cho hai mạch Xung và Nhâm mất sự giao lưu, gây ra kinh bế. Vì kinh bế nên mới ảnh hưởng đến Tỳ Vị, gây ra các chứng trạng như trên, chứù không phải là bệnh phổi.
Điều trị: Dùng ôn kinh, kiện Tỳ, hành khí, bổ huyết làm chính. Tôi liền châm các huyệt Phế du, Tỳ du, Thận du, Quan nguyên, Huyết hải, Tam âm giao. Lưu kim 20 phút. Sau khi châm xong thì cứu. Hôm sau tinh thần có vẻ khá hơn, ho cũng đỡ. Châm và cứu thêm các huyệt Cao hoang, Nội quan, Chí thất, Mệnh môn, Bào hoang, Trung cực, Tam âm giao. Ngày thứù ba, mặt cô L đã có vẻ hớn hở. Từ hôm đó trở đi lại bổ sung thêm mấy huyệt như Hoang du, Trung chử, Quy lai, Khí hải, Can du, Đái mạch... cùng với các huyệt trên thay đổi mà châm cứu. Tới ngày thứ chín, bệnh tình đã giảm được 60 – 70%. Tôi cho uống thêm 2 thang Quy Tỳ ( Nhân sâm 12g, Hoàng kỳ 12g,Phục thần 12g, Quế tròn 8g, Chích thảo 2g, Viền chí 4g, Táo đỏ 3g, Bạch truật 12g, Toan táo nhân 12g, Mộc hương 2g, Đương quy 8g, Gừng sống 3 lát, sắc uống) và 2 thang Bát Trân (Tứ Vật + Tứ Quân = Đương quy, Thục địa, Thược dược, Xuyên khung + Bạch truật, Nhâân sâm, Phục linh, Cam thảo ). Vừa châm cứu vừa uống thuốc xen kẽ 2 bài trên, tới 16 ngày, các chứng trạnghoàn toàn khỏi hẳn, ăn ngon, ngủ được, tinh thần sảng khoái.
(Trích trong ' Tục Kiến Châu Lục' của Cát Ích Nam Nhai, Nhật Bản )
Con gái nhà buôn thuyền ở Nhiếp Châu, 18 tuổi, bị chứng đại tiện bón đã lâu năm, gần đây lại bị tắt kinh tới 3 tháng. Cha mẹ cô nghi là cô tư tình với trai, cô ta không chịu, đến nhờ thầy khác xem cho, thầy này không chẩn đoán ra bệnh gì, liền nhờ Cát Ích Nam Nhai chẩn bệnh. Cụ lấy tay ấn vào bụng, thấy dưới rốn có một hòn cục nhỏ, chạm vào thì đau. Cụ chẩn đoán là chứng Xúc huyết, không phải là có thai.
Cho dùng: Đại Hoàng Mẫu Đơn Bì Thang ( Đại hoàng, Đông qua tử, Mẫu đơn bì, Mang tiêu). Uống hết 3 thang, tiêu được hơn mười lần, phân ra lẫn máu đen, rồi sau hòn khối đó nhỏ đi một nửa. Lại cho uống kèm với Đương Quy Thược Dược Tán (Bạch truật, Đương quy, Phục linh, Thược dược, Trạch tả, Xuyên khung). Không bao lâu sau, kinh nguyệt đều mà đại tiện cũng đi được hàng ngày.
(Trích trong ‘Tử Siêu Y Thoại’ của Nguyễn Tử Siêu, Việt Nam).
Trần Thị Lăng 32 tuổi, thường bị kinh nguyệt không đều. Hôm đó bị đau bụng kịch liệt, mời tôi đến chữa, hỏi thì đã hơn 40 ngày chưa hành kinh. Đau xoắn ở bụng dưới, dùng tay xoa bóp mạnh thì dễ chịu. Tôi đoán là bệnh thuộc hư hàn. Vì gặp lúc tôi vội có việc gấp, không kịp chẩn mạch, liền kê ngay bài thuốc, dùng các vị: Nhục quế, Ô dược, Đương quy, Bạch thược, Ngải diệp… cho uống. Hôm đó gặp tiết trời nóng nực, vì vậy, Nhục quế tôi chỉ dám dùng một nửa, nhưng 2 mắt lại thấy đỏ ngầu mà không đau nhức. Tôi nhận ra đó là do cái tính tân (cay) nhiệt (nóng) của Nhục quế làm cho nhiệt uất ở thượng tiêu mà sinh ra. Nhưng chứng đau bụng đã bớt được một nửa tức là thuốc đã trúng bệnh. Vì vậy, tôi vẫn giữ bài cũ, thêm Hoàng cầm ( tẩm rượu sao ) để làm mát dịu cái nhiệt ở thượng tiêu. Uống hết thang sau, bệnh đau bụng khỏi mà chứng mắt đỏ cũng khỏi.
Chữa xong bệnh của chị Lăng, tôi hồi tưởng lại rằng nếu khi tôi thấy phát sinh chứng mắt đỏ, mà vội vàng thay bài thuốc khác, thì chưa biết nó sẽ biến chứng ra sao?
Thế mới biết dụng dược cần phải linh hoạt và có bản lĩnh mới được.
(Trích trong ‘Thái Ất Thần Châm Cứu ‘ của Lưu Thanh Khiết, Trung Quốc)
Cô Hình..., 22 tuổi. Đã hơn 4 -5 tháng mà chưa có kinh, kèm theo đầu đau, choáng váng, lưng đau, không thèm ăn, huyết trắng chảy dầm dề không dứt, lượïng nhiều mà loãng, 2 chân đau buốt, mềm nhũn, mệt mỏi, tiêu chảy. Đã uống hơn mười mấy thang thuốc mà vẫn chưa bớt, đến xin châm cứu . Mạch Tế, Nhược.
Chấn đoán: Khí huyết hư tổn, Tỳ và Thận đều hư.
Điều trị: Kiện Tỳ, bổ Thận, ích khí, dưỡng huyết.
Châm bổ Quan nguyên, Khí hải , Trung quản, Túc tam lý đều 0, 5 thốn, Huyết hải 1 thốn, bình bổ bình tả, châm Tam âm giao 0,5 thốn, trước tả sau bổ, Thận du, Tỳ du đều 0,3 thốn, châm bổ tả Ủy trung 0, 8 thốn, bổ Chương môn 0,3 thốn. Lưu kim 20 phút. Sau khi châm, đều cứu 3 tráng.
Sau lần châm trước, lưng bớt đau, ăn khá hơn, kinh nguyệt vẫn chưa đến. Châm theo đơn cũ. Sau 4 lần châm, các chứng đều giảm rất nhiều, ăn nhiều hơn, tinh thần phấn chấn, hết huyết trắng và tiêu chảy nhưng kinh nguyệt chưa đến. Châm theo đơn cũ, gia giảm: bổ Hợp cốc, Tam âm giao đều 0,8 thốn, tả Khúc tuyền 1 thốn, tả Chí âm 0,2 thốn, tả Can du, Thái xung đều 0,2 thốn, tả Dương lăng tuyền 0,5 thốn. Lưu kim 5 phút.
Khám lại: Kinh nguyệt vẫn chưa đến, bụng bớt đau. Châm theo đơn cũ, gia giảm: Bổ Hợp cốc, Quan nguyên, Tam âm giao đều 0,5 thốn, cứu 3 tráng, châm Túc tam lý, Thừa sơn đều 0,5 thốn, trước tả, sau bổ, tả Địa cơ 1 thốán, tả Chí âm 0,2 thốn. Lưu kim 20 phút.
Khám lại: Các chứng giảm hơn phân nửa, nhưng kinh nguyệt vẫn chưa thấy. Châm cứu theo phương mới: bổ Trung cực, Khí hải, đều 0,5 thốn, cứu 5 tráng, tả Tử cung 0,5 thốn, châm Hợp cốc, Tam âm giao đều 0, 8 thốn, trước tả sau bổ, tả Nội đình 0,2 thốn. Lưu kim 10 phút. Sau khi châm, đêm đó, thấy kinh nguyệt.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn