( Của Lương Y Vũ Sĩ Ngôi, Phòng Chẩn Trị YHCT số 3, tp. Biên Hòa)
Lý thị L..., 26 tuổi, bị chứng thổ huyết, lúc nhiều, lúc ít, mỗi tháng thấy một lần vào những ngàycó kinh nhưng kinh không thấy ra. Bệnh đã nhiều tháng. Bệnh viện cho là lao phổi, đã điều trị bằng phác đồ lao nhưng không khỏi. Ngày 10 - 6 - 198l đến Phòng Chẩn Trị số 3 tp. Biên Hòa xin điều trị.
Khám thấy: Sắc mặt xanh mét, tiếng nói yếu, mạch ở tay to, nhanh ( Sác ) nhưng ấn mạnh không thấy (vô lực).
Chẩn đoán: Chứng nghịch (đảo) kinh.
Khí thuộc dương, huyết thuộc âm, âm bệnh thì dương bí, âm hư thì dương lấn. Người bệnh có nước da xanh, mạch vô lực, là biểu hiện của âm hư. Âm hư nên hỏa thừa cơ xâm nhập vào huyết phận làm huyết không lưu thông điều hòa, theo chu kỳ kinh nguyệt hành lên phía trên mà ra đằng miệng. Mỗi tháng thấy một lần vào chu kỳ kinh nguyệt đó chính là kinh kỳ nhưng không xuống được mà lại đi lên, vì thế gọi là nghịch (đảo) kinh. Nếu cho rằng đó là chứng thổ huyết, chữa không đúng huyết sẽ ra liên miên, có thể thành nguy hiểm. Suy nghĩ như trên, tôi cho dùng:
Cỏ mực ( sao đen ) 16g Rau má 12g
Cỏ mần trầu ( sao đen ) 16g Rễ nhàu 16g
Trắc bá diệp ( sao đen ) 12g Dây tơ hồng 12g
Địa du bì ( sao đen ) 16g Chùm bao 16g
Ngải diệp ( sao đen ) 16g Hà thủ ô đỏ 16g
Sắc với 800 ml nước, còn 200ml, đề riêng. Lại đổ vào 600ml nước, sắc còn 100ml. Hợp chung hai thứ, sắc còn 100ml, uống ấm vào lúc không no không đói.
Uống 5 thang, bệnh giảm nhiều. Uống liên tục 3 - 6 thang bệnh khỏi hẳn, kinh nguyệt hàng tháng ra điều hòa. Theo dõi trên 10 năm nay chưa thấy bị trở lại.
(Trích trong ' 'Tử Siêu Y Thoại ‘ của Nguyễn Tử Siêu, Việt Nam)
Trần Thị Đào, 42 tuổi, đến khám bệnh năm 1960. Người bệnh khai bị thổ huyết từ năm 1947, các bác sĩ đều cho là lao phổi, điều trị 2 -3 năm không khỏi, hiện nay, cứ một vài tháng lại thổ huyết một lần, có khi ra nhiều, có khi ra ít, không nhất định. Lúc nào ra ít thì ngày hôm trước thổ huyết, hôm sau thường hành kinh, lúc nào thổ huyết nhiều thì hôm sau không hành kinh hoặc cũng có nhưng huyết ra rất ít, màu da hơi xanh, ăn uống bình thường , đại tiện 2 –3 ngày mới đi một lần, thường xuyên táo, tiểu tiện thường ít và đỏ… mạch Trầm, Sắc lẫn Huyền.
Sau khi chẩn xong, tôi nhận là bệnh đảo kinh. Muốn dùng các bài thuốc cổ để điều trị, thì vị có vị không. Tôi liền chuyển hướng dùng thuốc Nam để trị. Nhận thấy chứng đảo kinh chủ yếu là do huyết nhiệt gây nên, tôi dùng vị Ích mẫu là thuốc có vị khổ (đắng), hàn ( lạnh ) để hoạt huyết, điều kinh, nhưng muốn cho huyết hành cần phải điều khí vì khí là ' soái ' của huyết. Khí hành thì huyết mới hành. Vì vậy tôi dùng Hương phụ, là khí dược ở trong huyết, dẫn hành được cả khí của 12 kinh, hợp với Ích mẫu thành công dụng "khai uất, tán trệ, thông kinh, hoạt huyết. Tôi chỉ dùng 2 vị đó, liều lượng bằng nhau, đem tán bột, luyện với hồ, làm viên bằng hạt đậu. Mỗi lần nuốt 50 viên (không nhai ), uống với nước nóng , ngày 3 lần. Trước sau, uống hết chừng 2 cân = 1.280g) thuốc, bệnh khỏi. Khi hết bệnh, chị Đào nói chuyện với vị lương y đã cắt cho chị hơn 100 thang thuốc trước đây, ông ta lấy làm lạ, tìm đến nhà tôi hỏi về phương pháp chữa. Tôi nói : '' Có gì lạ đâu, tôi chỉ dùng phương pháp điều kinh đấy thôi ". Ông ta ngạc nhiên không tin nói : '' Bệnh thổ huyết đã tới hơn 10 năm, cả tây y khám nghiệm cũng đã công nhận là phế lao ( lao phổi ), vậy mà cụ lại chữa điều kinh là nghĩa gì ? ". Tôi cắt nghĩa cho ông nghe về công dụng của 2 vị Ích mẫu và Hương phụ (trong bài này tẩm Đồng tiện 3 ngày, 3 đêm), bấy giờ ông ta mới chịu là đúng. Khi ông ta đứng dậy về, tôi dặn thêm : 'Đây chỉ là một trường hợp, ông đừng cho rằng bệnh thổ huyết nào cũng đều là đảo kinh. Chủ yếu của Đông y ta là biện chứng luận tri, tùy bệnh xử phương, không phải hễ cứ sốt rét là uống ký ninh được đâu".
(Trích trong ‘Tạp Chí Đông Y, số 179’, Y án của LY. Nguyễn Như Lệ, Việt Nam)
Bùi Thị Hoàn Tr, 32 tuổi, nhập viện ngày 7- 9 - 1962, từ năm 1950, bị sốt rét kinh niên , và thường xuyên nhức đầu, thỉnh thoảng độ 6 tháng hoặc 1 năm, cứ đến kỳ hành kinh lại ho ra máu 1 lần. Người ngày càng gầy, da vàng đen và xám lại, sức ngày càng yếu, chữa Tây y nhiều lần nhưng sức khỏe vẫn không hồi phục. Khoảng tháng 10 năm 1961, sau một trận bệnh nặng, sức khỏe lại yếu hơn, lại mắc thêm những triệu chứng mới : phía sau cổ và một bên mặt phía phải, có cảm giác nóng như xoa cồn và nặng lên, có cảm giác bì bì khó chịu. Sau đó, cứ mỗi tháng đến kỳ hành kinh lại ho ra máu, không ăn ngủ được, chóng mặt, đau đầu lại tăng, thường bị lợm giọng buồn nôn, người gầy hẳn đi, mặt ngày càng vàng, da xám thêm. Đã điều trị nhiều nơi nhưng không bệnh viện nào kết luận được nguyên nhân gây ra bệnh. Các bác sĩ chuyên gia ghi: “Một loại bệnh đặc biệt chưa hề thấy". Cơ thể ngày một suy nhược dần, đến kỳ hành kinh bị ho ra rnáu, bệnh nhức đầu tăng lên và chuyển sang trạng thái mới: tức bộ não, tức hai bên mang tai bốc lên đầu, lên mặt, suốt ngày đầu bị nặng, choáng váng và bị nhức buốt, có lúc bị nhức như người bị treo ngược 2 bàn chân trở lên. Qua một thời gian quá dài, phải ngồi mà ngủ, vì đặt đầu xuống gối thì đầu bị đau và tức, không nằm được.
Khám thấy: Da sạm đen bẩn, sắc vàng, quầng mắt sâu thâm, tròng trắng mắt màu vàng, môi thâm, lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, hình thái lờ đờ mỏi mệt, tiếng nói nhỏ yếu, đứt hơi, nói nhiều thì mệt, hơi thở ra nóng. Đầu đau, mắt hoa, chóng mặt, cổ khô, tức hai bên tai chằng lên đầu, lên mặt, mặt phía bên phải hơi nặng, cảm thấy nóng và bì bì, mỗi lần hành kinh lại ho ra máu ước gần 60 ml. Khi hành kinh người gai sốt, âm đạo ra huyết cục, huyết hòn, ăn ngủ kém, đại tiện táo, tiểu tiện vàng, người rất suy yếu, mệt mỏi. Mạch đập 76 lần /phút, 6 bộ mạch đều Trầm, Huyền, Hoãn, khám bụng không có gì đặc biệt.
Tôi nhận xét như sau: Bị sốt kéo dài ảnh hưởng đến Can vì sốt rét không rời khỏi kinh Thiếu dương Đởm (Đởm, Tam tiêu), Đởm và Can có quan hệ biểu lý. Can âm suy yếu, Can hỏa bốc lên gây ra chứng đau đầu thường xuyên. Nữ chủ huyết, Lấy Can làm căn bản. Can lại chủ bào cung (tử cung), vì Can âm hư, Can dương vượng sẵn, do đó, khi hành kinh, Can khí phải hưng phấn để thúc đẩy huyết ra ngoài, khi đó, Can mộc vượng quá thì phản vũ Phế kim làm tổn thương dương lạc gây nên ho ra máu. Nhưng thời gian này chắc Can chưa bị tổn thương nhiều vì vậy sáu tháng hoặc một năm mới có một kỳ. Khi hành kinh bị gai sốt chứng tỏ khí huyết suy yếu, âm dương không hài hòa. Sau đó hơn mười năm qua một trận ốm nặng, người suy sụp nhiều. Chẳng những ho ra máu phát triển mạnh kèm với hàng tháng hành kinh một lần mà kinh nguyệt ra bên dưới đường âm đạo thì là máu hòn, máu cục. Còn thêm các chứng mới như sau cổ và bên mặt phía phải có sức nóng như xoa cồn, mặt nặng thêm lên và có cảm giác bì bì khó chịu, chứng tỏ Can huyết suy nhiều đã ảnh hưởng đến Thận (Can mộc đoạt khí của Mẹ – Thận thủy ), gây ra nóng sau cổ (đường đi của mạch Đốc thuộc Thận ), nóng lên mặt phía phải, nặng thêm và bì bì ( khí vượng nên bệnh ở bên phải vì bên hữu (phải) thuộc khí ). Da sạm đen, mắt quần sâu, môi thâm, lưỡi đỏ nhạt là vì tinh huyết suy kém, da ẩn sắc vàng, mắt hơi vàng là vì Tỳ thổ bị Can mộc khắc. Tiếng nói đứt hơi, nói nhiều mệt là do Phế kim bị Can mộc phản vũ. Hơi thở ra nóng, cổ khô là Can Đởm hỏa chứng, đại tiện táo, tiểu vàng đều là nội tạng thiên về nhiệt. Mạch Trầm là mạch uất vì sách ghi: “Chư uất mạch giai Trầm” (mọi chứng uất mạch đều Trầm). Ở đây là Can khí uất kết (nghịch), Huyền là mạch của Can Đởm. Trường hợp này bệnh nhiệt mà mạch lại không Sác mà Hoãn, có lẽ vì thấp tà trở trệ.
Cách trị: phải bổ huyết, bình Can, lợi Đởm, thanh nhiệt, phù Thận, dưỡng âm, thanh Phế, nhuận táo.
Còn chứng phong thấp, tôi nghĩ nên xử lý sau.
Cho dùng bài ‘Tiểu Sài Hồ Thang Gia Vị’:
Huyền sâm 20g Cúc hoa 12g
Hoàng cầm 10g Tử uyển 12g
Sài hồ 8g Bán hạ 12g
Bạch thược 16g Sinh khương 6g
Mạn kinh 10g Đại táo 12g
Cam thảo 4g
(Đây là bài Tiểu Sài Hồ Thang bỏ Nhân sâm, thêm Huyền sâm, Bạch thược, Mạn kinh, Cúc hoa, Tử uyển).
Uống 4 thang, mạch còn Trầm, Huyền, Hoãn nhưng cảm thấy dễ chịu hơn, sức nóng trong người bớt ít, hết buồn nôn , còn tức tuyến mang tai, nhức đầu, hoa mắt, mỏi buốt chân tay, ăn tiến bộ hơn , ngủ còn kém, đại tiện còn táo, tiểu vàng. Tôi nghĩ cần tăng cường thuốc bổ âm, dùng thang trên, thêm Sinh địa 16g. Uống 20 thang thì mạch Hoãn, đới Huyền, chuyển sang mạch Hoãn, hành kinh không ho ra máu, kinh ra được nhiều huyết hòn, huyết cục đen. Đau đầu còn ít ở phía phải, mắt bên phải còn hơi nóng, lợm giọng còn ít, ăn ngủ thường, đại tiện còn táo, tiểu tiện thường, tức tuyến mang tai còn ít. Dùng thang trên, thêm Đại phú bì 12g để chữa nặng mặt. Uống 15 thang thì mạch Hoãn, khi hành kinh không nôn và ho ra máu nữa, khỏi hẳn chứng tức tuyến mang tai, còn hơi nặng mặt phía bên phải và hơi nhức đầu phía phải, ăn ngủ bình thường, đại tiện còn hơi táo, tiểu vàng, da đỡ ẩn vàng. Tôi nghĩ nên thêm Tần giao để chữa phong thấp. Uống 38 thang thì mạch Hoãn, các chứng khỏi hẳn, còn hơi chóng mặt. Tôi chuyển sang chữa bệnh phong thấp bằng bài Dưỡng Huyết Khu Phong Gia Giảm:
Huyền sâm 20g Tần giao 12g
Xuyên quy 10g Sinh địa 20g
Ý dĩ 20g Cúc hoa 10g
Xuyên khung 8g Bạch thược 16g
Độc hoạt 12g Mạn kinh 10g
và 500g Hổ Tiềm Hoàn để bổ gân xương. Sau đó khỏi hẳn.
(Trích trong ‘Thái Ất Thần Châm Cứu ' của Lưu Khiết Thanh, Trung Quốc )
Cô Lưu, 29 tuổi. Bị chảy máu mũi vài lần, theo một chu kỳ nhất định, quá kỳ kinh mà không thấy kèm theo đầu choáng váng, bụng trướng, ăn ít … mạch Huyền Sác, lưỡi đỏ.
Chẩn đoán: Can Vị nhiệt, huyết nhiệt vọng hành.
Điều trị: Thanh nhiệt, giáng nghịch, dẫn huyết đi xuống.
Châm Trung quản, Khí hải, Hợp cốc đều 0,5 thốn, đều bình bổ bình tả, Châm tả Thái xung 0,3 thốn, Tam âm giao 0,5 thốn. Lưu kim 5 phút. Sau khi châm lần này, ngay hôm đó, thấy kinh nguyệt máu mũi không chảy nữa. Cho châm thêm để duy trì kết quả.
(Trích trong ‘Thái Ất Thần Châm Cứu ' của Lưu Khiết Thanh, Trung Quốc )
Cô Lưu, 20 tuổi. Trước khi có kinh, thấy tinh thần không thoải mái, lượng kinh rất ít. Sáng hôm sau liền bị chảy máu mũi, cứ chảy ra theo chu kỳ ngắn kèm theo đầu choáng váng, mắt hoa, hai bên hông sườn bị trướng mãn, bụng dưới đau, mạch Huyền, bộ quan bên trái ( mạch của Can ) rõ nhất, rêu lưỡi vàng trắng.
Chẩn đoán: Can uất, khí nghịch, huyết theo khí tràn lên.
Điều trị: Bình Can, giáng nghịch, điều hòa khí huyết.
Châm tả Phong trì, Thượng tinh, Kỳ môn, Thái xung đều 0, 3 thốn, bình bổ bình tả, Túc tam lý, Dương lăng tuyền, đều 0, 5 thốn, trước tả, sau bổ.
Khám lần 2: Máu mũi đã dứt, hành kinh như thường.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn