(Trích trong ‘Lý Luận 32 Bệnh Án’ của Lê Đức Thiếp, Việt Nam)
Nữ, 22 tuổi ..., bị rong kinh kéo dài 4 - 5 năm nay, uống thuốc Tây có đỡ rồi bị lại, đã nằm bệnh viện phải truyền máu mới đỡ, về nhà lại rong kinh trở lại, thường kỳ kinh kéo dài 20 ngày, có khi gần hết tháng, người mệt mỏi, máu ra không đau bụng, màu kinh đỏ tươi, có khi ra sắc đen. Tháng này kinh ra 27 ngày, thường bị hâm hấp sốt. Sắc mặt nhợt nhạt, 2 mi mắt dưới phía trong trắng nhạt, 2 quầng mắt thâm đen, 2 môi nhạt, phía trong môi dưới nhạt như không có máu. Mạch tay trái Xúc, bộ xích và thốn 2 đầu đi nhỏ, chìm xuống mà bộ quan ở giữa cứ đẩy cao lên mạnh, tay phải phù án Hư, trầm án Huyền.
Chẩn đoán: Rong kinh, loạn huyết.
Điều trị: Kinh huyết rỉ rả chảy ra kéo dài 4 -5 năm, thời gian quá lâu. Lâu thì phải vít lại ( cửu gỉa khả cố ), mất máu nhiều, phải bù trả ( tổn giả ích chi ).
Cho dùng :
Sài hồ 16g Sinh địa 16g
Hoàng cầm 16g Cam thảo 2g
Sắc uống 3 thang / tuần. Kinh đỡ ra ngay, mạch cả hai tay quân bình, có lực. Dùng đơn trên, uống tiếp 3 ngày nữa. Kinh hết ra, ăn được nhưng hôm qua bị cảm và huyết trắng ra nhiều. Uống y đơn cũ, thêm Hắc khương 8g, uống 3 thang/ tuần.
Mạch và bệnh bình thường, người khỏe. Cho uống tiếp đơn trên, 4 thang /tuần. Sau đó thêm Đương quy 12g, Tục đoạn 8g. Uống 4 thang /tuần. Gặp ngày hành kinh , dùng đơn cũ, bỏ Hắc khương, uống 4 thang/tuần. Kinh hành đến 12 ngày, ăn ngủ thường, mạch tay trái Trầm Huyền, tay phải nhỏ. Cho dùng:
Sắc uống 4 thang/ tuần.
Kinh vẫn ra rỉ rỉ, 19 ngày chưa ngừng, mạch tay phải Hoạt Sác, tay trái Huyền Sác. Dùng thuốc như lần đầu, thêm Bạch thược 12g. Uống 4 thang/tuần.
Đợt thuốc này làm kinh hết, thấy dễ chịu. Cho dùng đơn cũ, thêm Địa cốt bì 12g, Thăng ma 8g, uống 4 thang/ tuần.
Người bệnh hết kinh, khỏe, vui vẻ, sắc mặt tươi hồng, xin xuất viện, 6 bộ mạch đều mạnh, tốt. Cho dùng :
Hoàng cầm 16g Cam thảo 4g
Cho xuất viện.
Có điểm cần lưu ý : Giai đoạn người bệnh ngưng kinh tới 36 ngày, thời gian đó vui khỏe, nhưng sao sắc mặt vẫn tái nhạt, tôi cho là do dùng thuốc lương huyết nhiều quá (Sinh địa + Hoàng cầm ), vì vậy tôi cho thêm ít thuốc ôn bổ (Đương quy, Hắc khương ) cho da dẻ hồng lên, nhưng không công hiệu.
Sau đó, có kinh lại kéo dài 19 ngày chưa cầm, tôi cho là hư hàn, đã dùng thuốc để cầm lại (A giao, Hắc khương, Hương phụ ) cũng không ngừng. Thế là chỗ dùng thuốc này tôi hãy còn dốt. Tôi lại trở lại phép sơ Can, lương huyết như cũ nhưng có thêm Bạch thược, uống vào lại khỏi ngay, khỏi ngay mà da dẻ, sắc mặt đỏ hồng. Nếu trước sau cứ dùng cách sơ Can, lương huyết (nhưng phải có Bạch thược) có lẽ người bệnh mau khỏi hơn mà lại điều hòa được kinh nguyệt nữa.
RONG KINH LOẠN HUYẾT
(Trích trong ‘Lý Luận 32 Bệnh Án’ của Lê Đức Thiếp, Việt Nam)
Nữ, 23 tuổi. Kinh hành 8 – 9 ngày hết, 8 – 9 ngày lại có, khi có, kéo dài cả tháng, hết vài ngày lại có. Kinh ra nhiều, cả huyết cục, huyết trắng cũng nhiều. Khi ra kinh, nếu gặp lúc đi tiểu còn tiểu ra kinh rất nhiều, lưng đau, chân lạnh, gối mỏi, cột sống cổ đau, mồ hôi ra nhiều, bụng đau, chóng mặt, hàm răng nhức, ngực nóng, ăn kém, táo bón, ngủ chập chờn. Sắc mặt trắng bệch, nhiều mụn, lưỡi to dầy, rêu lưỡi trắng nhạt, da xanh mét, hơi thở uể oải, tiếng nói ồ ồ, ăn uống cố gắng cũng không được bình thường, mạch bên trái Trầm Tiểu, Huyền Khẩn, mạch tay phải Trầm Tiểu và Hoạt Tiểu. Da xanh mét, lưỡi to dầy, rêu lưỡi trắng nhạt là do dương khí của Tỳ Vị thiếu, hoặc Tỳ Vị hư hàn. Dương khí của Can Thận thiếu không điều khiển được máu cho đều, vì vậy, kinh hoặc bị trồi sụt, rong kinh kéo dài, chân gối lưng mỏi lạnh. Lúc đi tiểu, kinh cũng theo ra là do Thận ( tử cung ) với bàng quang có tương quan biểu lý, Thận đã hư hàn không giữ được huyết thì huyết chảy ra, yên tĩnh bất động thì huyết bớt chảy ra, nếu động vào nó, nó sẽ chảy ra nhiều, theo hướng đường tiểu (bàng quang) mà ra. Lưng và bụng đều đau về phía tay trái, phía bên trái thuộc huyết, huyết lạnh lại ra nhiều thì phía đó bị đau, đó là Can Thận hư hàn. Mạch tay phải thuộc Tỳ Vị, Mệnh môn, chủ về khí, nay mạch đi Trầm Tiểu, thì dương khí của các tạng đó suy, lại còn thêm Hoạt Tiểu, là thêm đờm thấp nữa. Mạch bên trái thuộc Can, Thận, chủ về huyết, nay mạch Trầm Tiểu thì dương khí của huyết suy giảm, nhất là nó lại Trầm Tiểu ở bộ xích thì rõ ràng là huyết vừa cạn lại vừa lạnh. Mạch Huyền là khí huyết hao mòn, mạch Khẩn là nội hàn, tức là máu đã ra nhiều làm khí lực hao mòn, hao mòn mà lạnh thì làm máu bị hao mòn thêm, do đó, chẩn đoán là Tỳ Vị và Can Thận hư hàn. Cho dùng:
Đương quy 12g Xuyên khung 12g
Hắc khương 12g Đại hồi 10g
Sắc uống.
Đây là bài Lý Âm Tiễn ( Quy, Thục, Khương, Thảo ), bỏ vị Cam thảo, thay bằng Đại hồi, thêm Xuyên khung ) Xuyên khung để khua động máu ở tử cung và toàn thân. Đương quy bổ huyết, hành huyết, Xuyên khung khua động mạch máu. Thục địa sinh nước màu cho tử cung. Hắc khương để ôn kinh mạch, dẫn chất Quy Thục vào tử cung để sinh huyết mà bù đắp số máu đã thất thoát, đồng thời giữ máu lại không cho rỉ ra.
Đại hồi để ôn Tỳ khí và dẫn Quy, Thục vào Thận cho ôn Thận.
Tuần đầu cho uống 5 thang kinh hết ra, bụng hết
đau, chỉ còn có huyết trắng mạch đã hơi có lực. Tiếp đó, cho uống đơn trên, thêm Thục địa 10g. Uống 5 thang, người thấy vui tươi, mạch có lực, có gốc.
Uống 20 ngày, huyết cầm lại, người khỏe, sắc mặt tươi hồng, lên được 1kg, khỏi bệnh. Định Ninh ( Lê Đức Thiếp) tôi chữa nhiều bệnh rong kinh do huyết hư hàn, cứ cho uống bài Lý Âm Tiễn là khỏi”.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn