(Y án của Trương Tích Thuần, trích trong ‘Toàn Quốc Danh Y Nghiệm Án", Trung Quốc)
Vợ họ Ôn, hơn 30 tuổi. Trước đây thường hay đau quặn bụng dưới. Bác sĩ người Anh chẩn đoán là viêm tử cung. Cho uống mấy lần không có hiệu quả. Bác sĩ lại bảo bệnh này muốn khỏi tận gốc, phải giải phẫu cắt bỏ chỗ bị lở loét làm mủ, rồi bôi thuốc vào mới khỏi được. Người bệnh sợ nên từ chối rồi mời thầy thuốc Đông y cho thuốc uống và đặt thuốc, bệnh có đỡ ít. Đến mùa hè năm Nhâm Tuất, bệnh phát nặng, lâu lâu có cơn đau, ra máu mủ. Đến đầu năm Quý Hợi mới mời tôi chẩn trị. Khám thấy chỗ đau nóng rực, dùng tay mát mà áp vào thì thấy bớt nóng, thượng tiêu cũng từng lúc thấy phiền táo. Mạch Huyền hữu lực, bộ xích càng mạnh. Như vậy là người bệnh đã bị ngoại cảm nhiệt nhập vào huyết thất. Thầy thuốc trước không biết, lại dùng bài Tiểu Sài Hồ thêm Thạch cao cho uống, ngoại cảm tuy giải nhưng nhiệt trong huyết thất chưa được thanh giải mà hãm vào tử cung, ngăn trở khí hóa, gây ra viêm ở tử cung lâu ngày thành lở loét, chảy máu ra.
Phép trị: Dùng Kim ngân hoa, Nhũ hương, Một dược để giải độc; Thiên hoa phấn, Tri mẫu, Huyền sâm để thanh nhiệt. Vận dụng trở lại ý nghĩa của bài Tiểu Sài Hồ lập thành bài thuốc dưới đây, dùng Sài hồ để đưa nhiệt bị hạ hãm đi lên để tiết giải. Thuốc sắc xong, cho vào 8g bột Tam thất để hóa mủ, sinh tân.
Xử phương:
Ngân hoa 12g Một dược 4g
Nhũ hương 4g Tri mẫu 16g
Thiên hoa phấn 12g Sài hồ 4g
Sâm tam thất 8g Huyền sâm 24g
Cam thảo 6g
Sắc uống. Cơn đau dịu bớt, chưa bớt nóng. Nghĩ là nhiệt này do ngoại cảm nhập vào ứ đọng lại, nếu không dùng Thạch cao thì không thể giải được, liền cho thêm 40g Thạch cao vào thuốc, dần dần lên đến 80g. Uống liên tiếp 3 thang, nhiệt giảm quá nửa, đau cũng giảm nhiều.
Bỏ Thạch cao, cho uống thêm vài thang, rồi bớt dần thuốc mát mà thêm thuốc kiện Tỳ Vị. Uống tất cả 30 thang, hoàn toàn khỏi.
Tử cung viêm, sưng đau, lâu ngày sinh lở loét, máu mủ tiết ra, chuyên khoa hiện nay hay trị theo cách trị độc, ngoại khoa thì dùng thuốc rửa. Bên trong cho uống Long Đởm Tả Can Thang, lấy vị Phục linh làm chính.
Qua y án này, nhận thấy nhiệt nhập vào huyết thất, huyết tụ lại thành viêm, nung nấu lâu ngày thành lở loét, chảy mủ. Dùng phương giải độc, thanh nhiệt, hoá hủ, sinh tân, tuy giảm bớt đau nhưng nhiệt do ngoại cảm lưu lại vẫn không bớt, vì thế, phải thêm Thạch cao 40 – 80g. Phục nhiệt trừ được thì người cũng hết đau, càng chứng tỏ nguyên nhân nhiệt nhập huyết thất nhất định có triệu chứng đặc thù.
Những tin mới hơn