Những kỹ thuật hành thiền cơ bản được ghi chép trong nhiều kinh
sách, cũng như được truyền thừa và đa dạng hóa qua hàng ngàn năm.
Trên phương diện sức khỏe, thiền định được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố
gắng giảm thiểu sự căng thẳng bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình
thân tâm và trị liệu các chứng bệnh.
Chỉ riêng trong Phật giáo cũng đã có hơn 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập và số lượng
phương pháp hành thiền cùng những chứng bệnh nan y cứ tiếp tục leo thang theo đà phát
triển của khoa học kỹ thuật.
Trong 5 thập niên qua khoa học và y học càng ngày càng chú ý đến thiền, với nhiều
nghiên cứu, để được xem như là phương pháp trị liệu bổ sung-thay thế đối với nhiều
bệnh trạng khác nhau như trầm cảm, căng thẳng, lo sợ, mất trí nhớ, đau nhức, mệt mỏi,
mất ngủ, cảm cúm, ung thư, AIDS (Sida), tê khớp, tim mạch, viêm gan, tiểu đường,
suyễn, nghiện ngập, tăng tiến tuổi thọ, vân vân. Ngay chính những tư tưởng tiêu cực,
căng thẳng, xúc động và ưu phiền trong cuộc sống làm cho bệnh trạng càng thêm trầm
trọng và nguy hiểm.Thiền định chú trọng và có tác dụng làm cho thân tâm được lắng dịu
thanh tịnh, từ đó những trăn trở khổ đau do bệnh tật gây nên cũng được thiên giảm hay
tiêu trừ.
Đức Phật cũng là bậc y sư khi thuyết về câu chuyện người trúng mũi tên độc, không lo
nhổ mũi tên, hút máu độc và dùng thuốc rịt vết thương cho lành, mà cứ bâng khuâng
muốn tìm hiểu ai đã bắn mình và vì sao bị bắn, v.v.. thì e đã quá trể, không còn cứu được
sinh mạng. Thật ra trong câu chuyện Nn dụ này, Đức Phật muốn khuyên nhủ một tỳ kheo
nên chuyên chú tu hành hơn là mất thì giờ để tâm vào những tìm hiểu khoa học viễn vông
như thế giới này là hữu biên hay vô biên, nguồn gốc phát sinh loài người, v.v.
Trong thời buổi văn minh tiến bộ này, không phải tất cả mọi sự kiện đều được khoa học
giải thích rõ ràng, hoặc những gì được khoa học chứng minh đều là đúng.Tuy vậy “nói có
sách mách có chứng” hay căn cứ vào những gì đã được nghiên cứu và công nhận thì vẫn
được nhiều người nghe hơn.
CƠ CHẾ THIỀN ĐNNH
N hững tác dụng và ảnh hưởng của thiền định có thể được thể hiện dưới 3 cơ chế sau đây.
Cơ Chế Tín Ngưỡng
Tư tưởng Phật giáo không chủ trương thần thánh hóa, tôn thờ một thần linh hay đấng
thượng đế nào. Do đó nhiều khi Đao Phật được xem không phải là một tôn giáo để tín đồ
cầu xin phép lành, ân huệ, hay cứu rỗi như trong các đạo khác. Giáo lý nhà Phật rất thực
tiển và thấu triệt: mọi sự vật đều bị chi phối bởi vô thường biến đổi, nhân qủa nghiệp
duyên và trầm luân sinh tử. Thiền định được xem như trái tim của nhà Phật và là trung
tâm của đời sống đạo hạnh giúp đạt đến mức độ cao xa của tỉnh giác. Từ trạng thái vô
2
minh hay tiêu cực mê mờ của tâm tiến lên trạng thái tích cực sáng suốt hay minh tâm
kiến tánh. Mọi chúng sanh đều có Phật tánh (chơn tâm, bản lai diện mục) hay cái tâm
thuần khiết trong sáng, nhưng bị những phiền não tham sân si che lấp như án mây đen
phủ kín bầu trời. Thiền định có công năng giúp tâm được thanh lọc dứt trừ mọi cấu
nhiễm, đạt an lạc thanh tịnh và giác ngộ giải thoát như trời quang mây tạnh, trăng sáng rỡ
ràng. Cũng chính là lúc ông Phật hiện ngay trong tâm mình không phải tìm kiếm đâu xa.
Đó là ý niệm “tức Tâm tức Phật” của Đạo N hất Mã Tổ, hay hiện tượng đại ngộ “ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Kinh Kim Cang) của Lục Tổ Huệ N ăng, trụ tâm đến không chỗ
trụ mà sanh được tâm kia, cái tâm tĩnh tịch – tròn đầy – trong sáng.
Vạn pháp do tâm tạo, những bệnh tật khổ đau là do tâm duyên theo trần cảnh, môi sinh ô
nhiễm độc hại và cuộc sống bon chen hỗn tạp đầy căng thẳng bức xúc, thì cũng chính tâm
sẽ chữa trị chúng qua thiền định.
Trong Đạo Thiên Chúa, căn bản thần học trong thiền định được xem là nằm tận đáy lòng
con chiên, là tâm của Giêsu – người đang cầu nguyện trong con chiên, với con chiên và
cho con chiên. Đây là sự quán chiếu diễn tả tột đỉnh đời sống tâm linh và trí thức một
cách tích cực trong trạng thái tỉnh giác hoàn tòan.
Ấn Độ là xứ có truyền thống lâu đời về thiền định, ngay cả trước thời Phật Thích Ca.
Theo Ấn Giáo, danh từ thiền định được hiểu như là một trạng thái tĩnh lặng, tỉnh táo và
tập trung một cách ráo riết, qua đó tri thức và tỉnh giác được đánh thức dậy từ bên trong,
khi chú tâm vào một sự vật hay một dòng tư tưởng cho đến lúc đạt đến và hòa nhập vào
sư bình yên thánh thiện, đồng nhất với vũ trụ và thượng đế.
Trong phép thiền quán niệm hơi thở (Anapana Sati), Đức Phật đã chỉ dạy trong Đại Tạng
Kinh Pali (Mahasatipatthana Sutta): Tỳ kheo tìm đến khu rừng, dưới gốc cây hay nơi
trống vắng, ngồi tréo chân, giữ lưng thẳng, chú ý hơi thở ra vào nơi chóp mũi và khởi lên
chánh niệm trước mình.
Khi chánh niệm được duy trì, hơi thở càng trở nên nhẹ nhàng lặng lẻ, thân thể được êm
dịu thanh thản như có cơn gió nhẹ thoáng qua. Với sự tĩnh lặng của tâm, hơi thở càng trở
nên vi diệu cho đến lúc có cảm giác như ngừng thở, kéo dài trong nhiều phút, nhưng thật
sự hơi thở vẫn tồn tại. Dần dà tâm được giải phóng khỏi 5 triền cái (ham muốn, giận hờn,
hôn trần, trào hối và nghi hoặc). Hành gỉa càng đạt thêm sự bình thản và an lạc. Các thiền
tướng bắt đầu xuất hiện báo hiệu thành qủa của chánh định. Hành gỉa bắt dầu vào cận
định (upacara samadhi) và khi chánh định phát triển thêm nữa sẽ đạt đến toàn định
(appana samadhi). Đến đây khai thông cho sự chứng đạt nhất thiền, và tiếp tục miên mật
sẽ vào các qủa thiền cao hơn: nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Hành giả tiếp tục phát triển
chánh niệm qua tuệ quán (Vipassana). Ở mức độ cao hơn, tâm trạng như được thoát tục
và bắt đầu vào giai đoạn nhập lưu, rồi tiến lên các qủa vị thanh văn khác trong chánh
định. Khi mọi xiềng xích trói buộc không còn dính mắc, dứt sạch ngã chấp, chứng quả vi
thanh văn thứ tư - A La Hán, ra khỏi luân hồi sanh tử. Hầu hết những đệ tử lớn của Phật
đều chứng đạt qủa vị này, ngoại trừ Đề Bà Đạt Đa mưu toan giết Phật để được làm Phật.
Cơ Chế Tâm Lý
Tâm lý chung là khi những căng thẳng hay phiền não dấy lên báo hiệu sự giày vò tâm trí,
người ta có khuynh hướng làm cho chúng lắng dịu thay vì phải chịu đựng. Khi một chuỗi
tư tưởng loạn động gây ra biến cố bức rức tâm trí, hành giả an trú trong thiền định qua sự
tập trung hay quán chiếu vào một đề mục làm cho chúng tan biến đi. Từ đó đem tâm trở
3
về trạng thái bình yên, tạo dựng thái độ không còn sợ hãi khiếp nhược, là hiệu quả và đặc
tính căn bản của thiền định.
Một cơ chế khác về tâm lý là sự thiếu lưu thông giữa các cơ năng tâm thần, gây nên sự
bức bách ứ đọng bên trong. Rất thường xuyên, các hiện tượng như lời nói, tưởng tượng,
xúc cảm là những ngăn kín chật hẹp mà thiền định là nhịp cầu giúp chúng được thông
thoáng hòa hợp với nhau. Chẳng hạn thường xuyên đặt sự chú ý của tâm vào những tác
động lên thân-khNu- ý là một phương cách thông thoáng hữu hiệu nhất.
Trái lại, nếu lạm dụng thiền định như một hành vi đè nén - ức chế tâm thì có khi phải
gánh chịu những hậu quả khốc hại, như trong trường hợp qúa cuồng tín theo một phép
thiền sai lêch. Chẳng hạn khi hành giả niệm tên các vị thần linh hay các thần chú vô
nghĩa cả hàng ngàn lần, cho đến khi trở thành nhàm chán, tâm trí mờ mịt, lạc vào thế giới
mộng du ảo tưởng, không còn lý luận hay phán đoán được gì. Từ đó phát sinh những cảm
thọ hỉ lạc giả tưởng, không thể phân biệt qúa khứ-hiện tại-vị lai hoặc ngay cả sự chết.
Đây là trường hợp bị “tNu hỏa nhập ma” mà chính đương sự không hề hay biế_n_a_m_e_t, chỉ có
người ngoại cuộc mới nhận thấy những hành vi bất thường - điên dại của mình qua sinh
hoạt hàng ngày. Do vậy, trong lúc ngồi thiền, phải luôn cảnh giác, tỉnh thức, và giữ chánh
niệm. N ếu cảm thấy qúa si mê hôn trầm thì nên đứng lên hay rời khỏi bồ đoàn.
Có một hiện tượng tâm bệnh xảy ra cho một tu sĩ trẻ tuổi tại ngoại ô Lhasa - Tây Tạng.
Tu sĩ này sinh tâm không thích ngôi chùa mình đang tu tập, nằm ngay dưới chân một
ngọn đồi, mà lại phóng tâm ưa thích một ngôi trường kế cận. Từ đó tu sĩ khởi sinh một ý
tưởng là mong cho ngọn đồi trượt xuống và đè bẹp lên ngôi chùa trong khi ngôi trường
thì vẫn còn nguyên vẹn. Thế rồi cái tâm bất thiện này cứ bủa vây trong đầu óc người tu sĩ,
đến nổi biến thành chứng nhức đầu bức rức và thần kinh khủng hoảng. Cuối cùng tu sĩ
thú thật và xin vị trụ trì ngôi chùa cứu giúp. Thầy trụ trì khuyên từ đây luôn luôn quán
niệm cho ngọn đồi thật sự đè nát ngôi chùa, đè bẹp mọi thứ trong chùa kể cả thân mạng
của chính mình. N gười tu sĩ trẻ làm y lời thầy và chỉ trong một thời gian ngắn thì hết
chứng đau đầu và không còn ảo tưởng này nữa.
Chung qui, điểm căn bản trong tiến trình hành thiền là sư chú tâm, và quan trọng hơn hết,
chú tâm là một sự thực hành trong kiên nhNn chứ không phải lý thuyết gì xa xôi. Có một
thiền sinh cảm thấy rất khổ sở vì không đạt được thành qủa trong công phu hành thiền
nên đến yết kiến thiền sư của mình và nhờ chỉ cho cách vượt qua chướng ngại. Vị thiền
sư đang trong thời kỳ tịnh khNu nên chỉ viết ra trên giấy chữ “chú tâm”. Thiền sinh không
hiểu nên nhờ thầy giảng thêm. Thiền sư lại viết thêm “chú tâm, chú tâm”và trao cho đệ
tử. N gười đệ tử vẫn không đạt được ý thầy mình muốn nói gì nên đòi giải thích thêm nữa.
Cuối cùng thiền sinh nhận đươc toàn bài học trên giấy: “chú tâm, chú tâm, chú tâm…có
nghĩa là chú tâm”.
Cơ Chế Sinh Lý
Thật hết sức khó khăn khi phải sử dụng các kỹ thuật và dụng cụ khoa học đề đo lường và
kiểm nghiệm những biến chuyển của cơ thể trong lúc hành thiền, nhưng người ta vẫn có
thể thực hiện và chứng minh được những tác dụng hữu ích của thiền.
Cơ thể con người có những phản ứng tự động không qua ý thức để thích ứng với môi
trường sống như các phản ứng run rNy khi rét lạnh, tim đập nhanh khi chạy nhảy, toát mồ
hôi khi trời nóng nực, v.v. Tuy nhiên với những cố gắng có ý thức như qua thiền định
người ta cũng có thể điều khiển được những phản ứng tự nhiên này.
4
Hành giả lần đầu tiên khi thâm nhập sâu vào thiền định, hơi thở trở nên chậm rãi, nhẹ
nhàng, và có khi ngưng trệ hoàn toàn, chính lúc này có thể trải nghiệm đối diện qua cơn
sợ hãi bị ngừng thở và sự chết. N hưng mối nghi được xóa tan ngay qua sự chú tâm vào
hơi thở và giữ vững chánh niệm.
Sự hô hấp giảm thiểu hoặc ngừng trệ gây nên tình trạng “hypoxia” - lượng oxy trong máu
giảm hạ, có tác dụng làm phóng thích các hormone (endorphins) gây mê và tạo cảm giác
êm ái dễ chịu. N hững chứng nghiệm cho thấy các đạo sĩ yogi Ấn Độ có thể điều chỉnh
lượng oxy trong máu theo ý muốn của mình và tự chôn sống trong một thời dài mà không
hề hấn gì. Các thiền sư N hật Bản cũng có thể làm giảm nồng độ oxy 20% trong lúc hành
thiền. Với thiền tiên nghiệm TM, lượng oxy có thể giảm đến 40% và tỷ lệ hô hấp chỉ còn
50%, nhiều hơn gấp bội so với lúc ngủ mê. Điều này chứng tỏ tác dụng hiệu qủa của
thiền định trong tiến trình biến hoá của thân-tâm.
N hững khóa thiền kéo dài 30-40 phút cho thấy lượng lactate giảm hạ và lượng
phenylalanine tăng lên 20% trong các cơ mô. Hành thiền cũng làm cho lượng máu đến
thận và gan giảm đi trong khi lượng máu đến não gia tăng, huyết áp gia giảm tạo ảnh
hưởng tốt cho các bệnh tim mạch. Tính đối kháng của da cũng gia tăng làm giảm hoạt
động giao cảm và nhờ đó đem lại trạng thái thư giãn.
N hững kết qủa thực nghiệm cũng cho thấy việc hành thiền làm giảm những kích thích tố
gây căng thẳng như cortisol và ATCH, hormone kích thích tuyến giáp TSH và hormone
tăng trưởng; trong khi gia tăng hormone thư giãn serotonin và hợp chất arginine
vasopressin giúp cho trí nhớ và sự học tập.
Kỹ thuật điện não đồ EEG (ElectroEncephaloGraphy) khám phá một điều mới lạ qua
hành thiền là làm giảm thiểu các sóng não kích động như beta và delta trong khi gia tăng
các sóng có tác dụng êm dịu như alpha, gamma và theta.
Khoa học gia thần kinh Richard Davidson công bố kết quả nghiên cứu vào đầu năm
2005, khi sử dụng EEG để đo sóng não các vị sư Tây Tạng trong lúc hành thiền từ bi
quán. Kết qủa cho thấy các nhà sư luôn luôn có sự hoạt động rất cao của sóng gamma so
với người bình thường. Trong thiền định, sự hoạt động của não bộ tập trung ở vùng não
phía trước (prefrontal cortex), nơi đây các sóng liên hệ có tác dụng tạo nên sự an lạc và
tỉnh giác rất sâu và lâu bền.
Vài kỹ thuật tinh vi hơn như fMRI (functional magnetic resonance imaging), cho biết kết
quả ngay trong một thời gian ngắn, được sử dụng đo dòng máu trong não và sự hoạt
động của não, cho thấy thiền định không có tác dụng như khi ngủ nghỉ mà là một trạng
thái thư giãn trong tỉnh thức.
NHỮNG PHÉP THIỀN TRN LIỆU
Hiện tại có rất nhiều phương pháp hành thiền khác nhau của các tôn giáo và trong dân
gian, nhưng được nghiên cứu và áp dụng trị liệu nhiều nhất là thiền Tập Trung CM
(Concentrative Meditation) và thiền Chánh N iệm MM (Mindfulness Meditation).
Thiền Tập Trung
Thiền tập trung thường được sử dụng như là phương pháp căn bản cho hành giả mới bắt
đầu và cũng dành cho bệnh nhân. N gười tập thiền chỉ cần chú tâm vào một sự vật như hơi
thở, âm thanh, lời niệm, vân vân. Một kỹ thuật đơn giản là có thể ngồi hay nằm (bệnh
nhân) thoải mái ở một nơi yên tĩnh, không khí trong lành, mắt nhắm hay mở và chú ý
5
theo dõi hay đếm hơi thở ra vào, tiếng tí tách của đồng hồ, hoặc niệm một vài chữ hay lời
kinh mình ưa thích. Khi chú mục như vậy, vọng tưởng lắng dịu, nhịp điệu hơi thở dần dà
trở nên chậm rãi nhẹ nhàng, giúp thân tâm được thanh tịnh và an ổn.
N hững phép tụng niệm như tụng kinh - niệm chú, thì hầu như các tôn giáo đều áp dụng
tương tự như nhau. Pháp môn niệm Phật cho đến “nhất tâm bất loạn” cũng chẳng khác gì
một phương pháp hành thiền đạt đến sự định tâm. N hiều Phật tử theo phép Thiền-Tịnh
song tu hay vừa tham thiền vừa tụng kinh niệm Phật. Bên Thiền Tông cũng thường tụng
Bát N hã Tâm Kinh trong các khóa thiền. Một thiền sư Việt N am cho biết có lần mình
ngồi thiền niệm “N am mô Bổn Sư Thích Ca Mâu N i Phật” thì tự nhiên cứ thấy phải niệm
liên tục như vậy trong suốt cả buổi sáng, không dừng lại được. Từ đó thiền sư này bắt đầu
chú trọng về phép niệm Phật. Các thiền đường Lâm Tế ở N hật cũng thường cho thiền
sinh một thoại đầu hay công án để quán tưởng. N hư trong công án “vô”, thiền sinh trong
lúc ngồi thiền niệm thành tiếng kéo dài “mu…” Một công án khác là “tiếng vỗ của một
bàn tay”. Có một thiền sinh nhận công án này rồi cứ phải suy tưởng là tiếng gì, sau đó
đem trình thầy những đáp án như tiếng chuông ngân, trẻ khóc, chó sủa, chim hót, ngựa
hí, còi hụ, v.v. nhưng đều bị từ khước và bắt phải cố gắng nhiều hơn nữa. Thiền sinh tiếp
tục quán chiếu đến lúc tâm tư mệt mỏi chán chường, không còn sức phấn đấu muốn bỏ
cuộc, thì đột nhiên khởi lên một ý niệm và vội vã tìm đến trình thầy… đó là tiếng vọng
của sự im lặng, tương hợp với ý thầy.
Trong thiền tông Trung Quốc cũng có những thiền sư thích niệm một cái gì trong lúc
ngồi thiền như “Tĩnh tĩnh lặng lặng, Liễu liễu thường tri” (Tĩnh tĩnh lặng lặng, Rõ ràng
thường biết) để nhắc nhở tâm luôn được tỉnh giác. Phật tử trong môn phái N hật Liên chỉ
chú trọng vào Kinh Pháp Hoa và niệm một câu duy nhất “N amu Myo Ho Len Ge Kei”
(N am Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Trong phép niệm Phật thì “N amu Amita Buddha”
(N am Mô A Di Đà Phật) hay niệm danh hiệu các vị Bồ Tát như Quan Âm, Địa Tạng, v.v.
Trong Mật Tông Tây Tạng và Mông Cổ, người tu niệm sâu trong cổ họng âm thanh nghe
rất trầm hùng câu chú “Om Mani Pad Me Hong” (Án Ma N i Bát Di Hồng).
Trong Thiên Chúa Giáo, các con chiên cũng hành thiền khi tụng kinh cầu nguyện vào
mỗi tối trước khi ngủ.
Có một số Phật tử Việt N am tu theo phép thiền xuất hồn (thiền Ông Tám), hiện tại được
gọi là “Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp”. Theo nguyên văn ghi trong
website chỉ dẫn về phép thiền này “tập trung trí ý lên đỉnh đầu, với ý thầm nguyện xuất
hồn lên đảnh lễ Phật. Chỉ chú tâm lên xoáy óc một chút thôi, rồi sau đó nhìn thẳng trung
tâm giữa 2 chân mày lâu chừng nào tốt chừng nấy, ý chí thả lỏng, tâm phẳng lặng và ý dỗ
cho ngủ. N gồi càng lâu càng tốt. Khi thiền định, ngứa mình, tê chân hay có ý động loạn
thì chỉ niệm N am Mô A Di Đà Phật ngay trung tim bộ đầu”.
Trong Tịnh Độ Tông cũng có rất nhiều phương pháp giúp tâm không bị vọng động như
niệm Phật theo hơi thở, niệm liên tục không gián đoạn, tai lắng nghe âm thanh tiếng
niệm, lần theo chuỗi hột, tụng kinh theo tiếng mõ, quán tưởng hình ảnh chư Phật-Bồ Tát,
v.v..nhưng mục đích tối hậu là để đến phút giây lâm chung được Tây Phương Tam Thánh
(A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí) đến rước về Cửu PhNm Liên Hoa miền cực lạc.
Đặc biệt trong 50 năm qua, các nước phương tây đã áp dụng thiền tiên nghiệm TM
(Transcendental Meditation) cho nghiên cứu y học và ứng dụng trị liệu tại nhiều trung
tâm thiền, bệnh viện, công tư sở và học đường.
Thiền tiên nghiệm TM do đạo sĩ Ấn Độ Maharishi Mahesh Yogi (1917-2008), theo
truyền thống Vệ Đà, mang đến Âu Mỹ từ năm 1958. Chủ trương của Maharashi là tạo ra
6
một trung tâm thiền TM cho mỗi một triệu người. Ông đã đào tạo gần 10,000 giảng viên
ở khắp nơi. N hờ kỹ thuật đơn giản trong ứng dụng nên loại thiền này rất được phổ biến.
Cho đến nay đã có chừng 600 nghiên cứu khoa học và y học về thiền TM liên quan đến
trị liệu đối với nhiều loại bệnh trạng khác nhau. N gay trên đất Mỹ có một đại học mang
tên Mahashiri.
Phương pháp chung là mỗi ngày hành thiền 2 lần, mỗi lần 15-20 phút, truớc bửa ăn (bụng
trống dễ hành thiền hơn) với mắt nhắm lại. Phải do một người thầy hay giảng viên trực
tiếp chỉ dạy và đặc biệt truyền cho câu mật chú mantra, để hành giả có thể niệm thầm hay
niệm thành tiếng trong lúc hành thiền. Chương trình gồm có 7 thứ mục với 2 bài học giới
thiệu, một cuộc phỏng vấn, và 4 buổi học (2 giờ) cho 4 ngày kế tiếp. Phương pháp thiền
TM được cho là khá giản dị, thiên nhiên và không gượng ép. Qua tiến trình hành thiền,
hành giả sẽ đạt đến một ý thức tiên nghiệm được gọi là trạng thái chính yếu thứ 4 của ý
thức, một trạng thái tỉnh thức hoàn toàn, khác biệt với 3 trạng thái: thức tỉnh, nằm mơ và
ngủ say.
Thiền tiên nghiệm đã được đăng ký và bảo vệ với thương hiệu (trademark) TM, nên đã
trở thành một loại sản phNm thương mại. Vào thời điểm năm 2007, có nơi học viên phải
đăng ký và đóng học phí đến 2.500 đô la cho một khóa học, kèm theo điều kiện không
được tiết lộ câu mật chú mà người thầy đã truyền cho, với lý do là mật chú sẽ mất linh
nghiệm nếu bật mí cho người khác biết. Tuy trung thành với chủ trương của hệ thống
huấn luyện thiền TM, nhưng một số giảng viên khi viết tài liệu hay nghị luận cũng hé mở
một số chi tiết về phép thiền này. Ví dụ chọn một nơi yên tịnh, ngồi nhắm mắt, giữ hơi
thở tự nhiên, và tự chọn lựa cho mình một vài chữ mantra, có tính cách nhẹ nhàng và
trung tính, ví dụ như “tỉnh thức”, “thư giãn”, v.v.. hay bất kỳ lời kinh câu kệ ưa thích nào
của mình. Có thể niệm thầm hay tụng lớn tiếng mantra này bằng cách lập đi lập lại trong
suốt thời gian hành thiền 15-20 phút. Khi tâm xao động cần nhớ trở về với mantra và tiếp
tục niệm như trước. Chỉ giản dị vậy thôi, nhưng cũng có tác dụng thư thái dễ chịu như
một giấc nghỉ trưa 1-2 giờ.
N gười tây phương hành thiền TM tự do rất thích các danh từ, một hình thức mantra, như
“peace” (hòa bình) và “love” (yêu thương). N hưng cũng có khi đang niệm “love, love,
love..” giữa chừng bất chợt thành ra “I love candy” (tôi thích ăn kẹo) thì phải làm sao?
Đến lúc này chỉ cần nhớ lại mantra “love” và bắt đầu niệm trờ lại cho tâm khỏi nhảy lăng
xăng như con khỉ, “tâm viên ý mã” là như vậy.
Một loại thiền tân thời được gọi là thiền giải tỏa Avrassana của nhóm Theohumanity do
Daniel Stacy Barron - người Đức- sáng lập, đang còn trong thời kỳ thử thách. N hóm này
chủ trương sự giải thoát cảm thể (Emotional Body Enlightnment): những gì khởi lên
trong lúc hành thiền được làm cho tan biến đi trước khi rơi chạm vào người, tương tự như
những vNn thạch hay sao rơi bị tan loãng trong bầu trời trước khi va chạm vào trái đất.
Thiền Chánh Niệm
Danh từ chánh niệm (sati) cũng được biết là phát xuất từ chi thứ 7 trong Bát Chánh Đạo
(bao gồm đầy đủ Giới Định Huệ) thuộc phần Đạo Đế của Tứ Diệu Đế (Khỗ Tập Diệt
Đạo) mà Phật Thích Ca sau khi chứng đạt dưới cội bồ đề đã tìm đến vườn Lộc Uyển khai
thị và hóa độ cho năm anh em Kiều Trần N hư. Thiền chánh niệm đặt căn bản trên ý niệm
về sự hiện diện đầy đủ của tâm trong tỉnh giác khi nương theo hơi thở ra vào. Tâm luôn
nhận thức dòng cảm thọ, tư tưởng, âm thanh, mùi vị, v.v.. mà không gắn bó và liên lụy
7
với chúng. Hành gỉa ngồi thiền trong yên lặng và tỉnh táo, quan sát một cách vô tư những
gì đang xảy ra xuyên qua tâm; không phản ứng và dính mắc với những kỷ niệm, hồi
tưởng về quá khứ hay những suy tư, toan tính đến tương lai. Hậu qủa là tâm đạt được
trạng thái tĩnh lặng, trong sáng và an ổn. Tuy lúc mới khởi đầu hành giả cũng cần trải qua
một thời gian thực hành phép thiền tập trung để luyện tâm cho thuần thuật, rồi dần dà
không còn chú mục vào một đề mục duy nhất nào. Trên thực tế việc ứng dụng trị liệu của
thiền chánh niệm được giản dị hóa đi nhiều, không bó buộc phải tuân thủ triệt để các
phép thiền chỉ (Samatha) và thiền quán (Vipassana) của giới tu sĩ.
Kỹ thuật thông thường là tự tìm một nơi yên tịnh, thoáng sạch, vào sáng sớm hay chiều
tối, ngồi xếp bằng thẳng lưng trên sàn nhà có kê gối đệm (bồ đoàn), hoặc cũng có thể
ngồi trên ghế và đặt 2 chân thoải mái trên sàn nhà. Hai bàn tay chồng ngửa lên nhau trên
đùi với 2 ngón cái chạm nhau, mắt có thể nhắm lại hay hé mở tùy nghi. N ếu ngồi được
theo thế kiết gìa hay bán gìa thì càng tốt, nhưng rất dễ bị đau chân cho người mới tập. Bắt
đầu hít thở một cách tự nhiên và đều hòa. N ếu tâm bị chi phối do vọng tưởng khởi lên thì
nên tập trung vào hơi thở bằng cách đếm hay theo dõi hơi thở, hoặc niệm một vài chữ
như “chánh niệm”, “tỉnh giác”, v.v..Trong những ngày đầu chỉ cần tập 5-10 phút, sau đó
tăng lên từ từ 15-20-30 phút hay nhiều hơn tùy theo khả năng. Khi tâm trở nên ổn định
hơn, chỉ cần quan sát ghi nhận một cách khách quan những gì đang xảy ra. Hãy để cho
những vọng tưởng, hình ảnh, âm thanh, v.v.. khơi dậy, lưu lại và biến đi một cách tự
nhiên, không kích động, không đè nén hay xua đuổi chúng, không thêm không bớt và
không quan tâm gì đến chúng. Sau khi xả thiền nên làm những vận động cơ thể nhẹ
nhàng như các thế tập hatha-yoga, khí công, taichi hoặc đi kinh hành, để giúp thân trở lại
trạng thái bình thường và máu huyết lưu thông.
Kiên nhNn thực tập sau vài ba tháng thì có thể hội nhập được với thiền tùy căn cơ của mỗi
người. Hành giả có thể chia làm 2 thời hành thiền khác nhau: (1) chính thức nên dành
một thời biểu nhất định cho việc ngồi thiền hàng ngày, (2) bán chính thức là thực tập theo
tuệ quán tứ niệm xứ (Vipassana) vào bất cứ lúc nào thuận tiện. Ví dụ như khi ăn chỉ chú
ý vào việc ăn, biết mình đang gắp thức ăn, nhai, nuốt, mỗi động tác đều biết rõ ràng như
vậy. Khi đi để ý theo những bước chân, khi nằm chú tâm vào hơi thở ra vào theo sư
phồng xệp lên xuống của bụng, vân vân. N ên bỏ dần những thói quen làm nhiều việc
cùng một lúc như vừa ăn cơm, vừa xem tivi, vừa nghe điện thoại. Thêm vào đó lúc thuận
tiện cũng có thể tập xen kẻ thêm phép quán từ bi hay trải lòng thương của mình đến
người khác, bắt đầu từ bản thân mình rồi vươn dần ra đến những người thân, bạn bè, bà
con họ hàng, kẻ thù, muôn loại chúng sanh.
Đối với những nghiên cứu khoa học và y học, người ta thường thực hành thiền chánh
niệm theo phương pháp 8 tuần lễ thư giãn của tiến sĩ Jon Kabat-Zinn trong chương trình
MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction), được phát họa từ năm 1979 tại đại học
Massachusetts - nước Mỹ. Học viên tham gia khóa thiền 2 gìờ mỗi tuần, nhưng về nhà tự
thực tập 45 phút mỗi ngày theo hướng dẫn trong đĩa ghi âm, và sau cùng tham dự một
ngày dài thảo luận về kết quả. Có trên 250 cơ sở như bệnh viện, trường học, trung tâm
cộng đồng, v.v.. ở khắp nơi, hoặc làm công tác nghiên cứu, hoặc ứng dụng trị liệu, hoặc
cho cả hai theo phương pháp này.
TRN LIỆU
8
N hững triệu chứng và bệnh trạng sau đây đã được nghiên cứu và trị liệu qua ứng dụng
thiền định như một phương pháp bổ sung – thay thế.
AIDS (Sida)
Bệnh AIDS là do vi khuNn HIV (human immunodeficiency virus) tấn công và giết hại
những tế bào hồng huyết cầu lymphocytes (CD4T) - giữ nhiệm vụ bảo vệ hệ miễn nhiễm
(immune system). Loại vi khuNn này dần dà làm cho cơ thể mất khả năng kháng lại sự
nhiễm trùng và vài loại ung thư. N hiều biến chứng do HIV gây ra gồm cả tử vong là do
hậu quả của nhiễm trùng chứ không phải trực tiếp từ HIV. Khi số lượng tế bào CD4T
giảm sút dưới mức 200 hay với những triệu chứng phát khởi rõ ràng là bệnh nhân đã thực
thụ nhiễm bệnh.Vi khuNn có thể được truyền nhiễm qua máu hay dịch thể giao cấu, rồi
phát triển, lây lan, phá hoại các tế bào, mà nhiều khi bệnh nhân không hề hay biết trong
vòng vài tháng cho đến nhiều năm. Có chừng 40 triệu bệnh nhân niễm bệnh AIDS trên
toàn cầu.
Kết qủa nghiên cứu mới đây (7/2008) tại đại học California – Los Angeles cho biết một
kẻ thù khác của AIDS là sự căng thẳng bức xúc (stress) càng làm tăng tốc sự giảm sút các
tế bào hữu ích CD4T. Ứng dụng thiền chánh niệm có tác dụng gia tăng số lượng tế bào
này, do đó làm chậm lại hay chận đúng tiến trình bệnh AIDS.
N hững bệnh nhân AIDS được chia thành 2 nhóm: nhóm tập thiền theo chương trình 8
tuần lễ MBSR của Kabat-Zinn và một nhóm khác không tập thiền để so sánh. Kết quả đạt
được là bệnh nhân nhóm tập thiền trung bình tăng thêm 20 CD4T trong khi bệnh nhân
nhóm kia mất đến 185 CD4T. N hững chương trình huấn luyện thiền chánh niệm cho tập
thể được xem là ít tốn kém và có triển vọng trở thành một phương pháp trị liệu bổ sung –
thay thế cho những bệnh nhân AIDS.
Ung Thư
N guyên nhân của ung thư là do một nhóm tế bào bộc phát bất bình thường vươt qúa giới
hạn, xâm nhập phá hủy các mô kế cận và lan truyền đến những nơi khác của cơ thể tạo
thành các bướu ung thư. Bệnh ung thư ảnh hưởng mọi lứa tuổi ngay cả bào thai, nhưng
thường gia tăng với tuổi tác. Chứng ung thư gây tử vong 13% trên tổng số các loại bệnh
trạng khác.
N hững nghiên cứu y học đã xác minh thiền định giúp giảm thiểu lo lắng, bức xúc, đau
nhức, huyết áp, mất ngủ và từ đó có thể được áp dụng giúp bệnh nhân ung thư vượt qua
những cơn đau, căn thẳng, hoảng sợ, v.v..cũng như tăng cường sức phòng thủ và đề
kháng của hệ miễn nhiễm hầu bảo vệ cơ thể người bệnh.
Có những phương pháp trị liệu hiện đại như sử dụng các kỹ thuật đốt bằng tia phóng xạ
hay qua phẫu thuật cắt bỏ phần mô ung thư, nhưng đây là loại bệnh trạng chí mạng cần
được phát hiện sớm sủa và chữa trị kịp thời.
Bác sĩ tâm thần người Úc, Ainslie Meares, với những nghiên cứu riêng của mình được
tường trình từ năm 1976, đã đề nghị sử dụng thiền định hoặc riêng rẽ hoặc cùng chung
với các phép trị liệu khác cho các chứng ung thư. Qua đó thiền định không những làm
tăng cường sức đề kháng của hệ miễn nhiễm mà quan trọng hơn cả là giảm hạ những căn
thẳng từ những cơn đau cũng như những ưu phiền, lo toan, sợ hãi, số phận hNm hiu của
bệnh nhân. Phép hành thiền gồm 3 yếu tố: thân an tịnh, niệm mantra và vận động nhẹ, ít
nhất tập một giờ mỗi ngày. Đăc biệt tránh cho bệnh nhân sự giao tiếp qua chữ viết, âm
thanh hay lời nói có tính cách lý luận hay học hỏi, hầu tránh làm nhiễu loạn tâm trí người
9
bệnh. Ông ta tiến hành trị liệu cho 17 bệnh nhân ung thư trong giai đoạn bệnh đã phát
triển khá cao hay ở giai đoạn cuối. Các bệnh nhân hoặc không hề có sự trị liệu chính
thống hoặc đã nhận sự trị liệu từ thuốc hay phóng xạ vài tháng trước đó. Kết qủa cho thấy
họ đã có thể sống thêm trung bình một năm, trong khi các phép trị liệu khác phải chịu bó
tay và cho biết là chỉ chờ ngày chết.
Vào tháng 11 năm 1979, trên tạp chí Medicine Journal Australia, bác sĩ Mearses báo cáo
về một trường hợp ung thư ruột kết (colon) của một người đàn ông 64 tuổi, một nhà tâm
ly học. Ông ta không chịu giải phẫu mà thích hành thiền trung bình 3 giờ mỗi ngày. Chỉ
sau 2 tuần lễ đã thấy có sự cải thiện. Sau 6 tuần thì chấm dứt sự trợ lực bôm thụt vào hậu
môn – giúp lưu thông ruột kết. Sau 2 tháng không còn chứng thức giấc giữa đêm. Sau 6
tháng phân trở lại kích thước bình thường và sau 1 năm thì dứt hẳn chứng ung thư.
Phương pháp ứng dụng thiền chánh niệm trong chương trình thư giãn MBSR của Jon
Kabat-Zinn đã được sử dụng khá nhiều trong nghiên cứu ung thư, trong số đó một thí
nghiệm trên 90 bệnh nhân cho thấy giảm được 31% các triệu chứng căng thẳng bức xúc
và 67% tính khí bất thường khi so sánh với các bệnh nhân không hành thiền.
N hiều nghiên cứu y học về thiền định cho đến nay thường chỉ giới hạn thời gian hành
thiền rất ngắn, nên không có cường độ tác dụng lớn như thời gian 3 giờ hay nhiều hơn.
Một điều dễ hiểu là những bệnh nhân ung thư, tuy có nhiều thì giờ, nhưng lại không còn
đủ ý chí vững mạnh, kiên nhNn và sức chịu đựng với thời gian hành thiền quá dài nếu
không nhận được sự khuyến khích và chỉ bày thích đáng.
Tim Mạch
Bệnh tim bao gồm nhiều hình thức khác nhau, là bệnh gây tử vong nhiều nhất ở các nước
phát triển, như ở Mỹ cứ 34 giây là có một ngươì chết về bệnh này. N guyên nhân thông
thường là những mạch máu bị thu hẹp hay tắc nghẽn do chất mỡ tích tụ bên trong thành
mạch, gây khó khăn cho máu lưu thông và cung cấp oxy đến tim. Các cơ thịt của tim bị
thiệt hại do một nguyên nhân nào đó làm giảm sút khả năng bôm máu của tim đến các nơi
khác trong hệ tuần hoàn. Khi tín hiệu nội điện (internal electrical signal) của tim bị xáo
trộn làm tim không thể bôm máu một cách bình thường, nhịp tim trở nên rối loạn lúc
nhanh lúc chậm gây vấn đề cho tim.
Sự bất thường của van tim là một nguyên nhân khác, 4 van tim thay nhau điều khiển lưu
lượng máu vào hay rời khỏi tim. Van tim bị hẹp làm tim khó đNy máu đi và nếu van tim
bi hở làm máu bị rò rỉ trở lại, không bôm hết lượng máu.
Các triệu chứng thông thường của bệnh tim là thở gấp, hồi hộp đánh trống ngực, yếu
đuối, chóng mặt, mệt mỏi, buồn nôn, ra mồ hôi, cảm giác muốn ngất xỉu, vùng tim ngực
bị đè ép, nặng nề, đau nhói và có khi lan ra kế cận đến lưng, quai hàm và tay.
Có 2 cuộc thử nghiệm ở Mỹ ứng dụng thiền tiên nghiệm TM vào những thập niên 1980
và 1990 cho thấy những người bị bệnh tim có thể giảm tỉ lệ tử vong xuống 30%. Bác sĩ
Robert Schneider thuộc đại học Maharishi đã lên tiếng rằng đây là sự kiện phát hiện có ý
nghĩa đáng kể, chứng tỏ thiền định có thể được sử dụng như một phương pháp trị liệu
hữu hiệu cho bệnh tim.
Một thử nghiệm khác (3/2007) tại đại học Pennsylvania qua tập thiền TM trong 3 tháng
và 6 tháng đối với bệnh nhân sung huyết tim (congestive heart failure) cũng cho thấy rõ
những cải thiện về phNm chất đời sống, chứng trầm cảm, và sự giảm bớt số lần trở lại
bệnh viện. Thiền định giúp giảm hạ tác động của hệ giao cảm (gây căng thẳng bức xúc)
trong khi tăng cường khả năng của hệ phản giao cảm với tác dụng ngược lại.
10
Tương tự, tại trung tâm y khoa Cidars-Sinai, Los Angeles, Paul-Labrador hướng dẫn một
thử nghiệm khác với 103 bệnh nhân vành mạch tim (coronary heart disease). Trong số
này, 52 bệnh nhân tập thiền TP trong 16 tuần lễ và 51 bệnh nhân khác không tập thiền để
so sánh. Trước và sau cuộc thử nghiệm, bệnh nhân được thử máu, xét lý lịch y khoa, thử
chức năng mạch máu, và sự biến đổi nhịp tim. Kết qủa là những bệnh nhân tập thiền
giảm hạ huyết áp rất đáng kể, cải thiện lượng đường và insulin trong máu, cũng như ổn
định chức năng của hệ thần kinh tự động. N goài ra còn có những nguyên nhân phụ thuộc
ảnh hưởng bệnh tim như thiếu vận động, thức ăn không lành mạnh, sự béo phì, sư căng
thẳng búc xúc trong xã hôi đa tạp, tạo ra những kích thích tố có hại như cortisol và những
chất tác động truyền dẫn thần kinh, rất tai hại cho hệ tim mạch. Việc hành thiền có tác
dụng điều hợp hữu hiệu những căng thẳng, giảm hạ sự tiết ra các kích thích tố này. Thêm
vào đó, phương pháp từ bi quán (compassion mediattion), hay trải tình thương đến những
chúng sanh khác, được xem là có công năng tác động lên hệ phản giao cảm
(parasympathetic) giúp tim chậm lại và gia tăng hệ số biến đổi của nhịp tim, nhờ đó tim
được khỏe mạnh hơn và giảm nguy hiểm bị bệnh.
Bác sĩ Vermon Barnes cũng hướng dẫn một thử nghiệm trên 111 trẻ vị thành niên và tìm
thấy những em tập theo những khóa thiền TM -15 phút có khả năng làm tăng sự mở rộng
huyết quản thêm 21% trong khi những em không tâp thiền lại bị giảm đi 4%. Do đó đi
đến kết luận rằng hành thiền có thể thay thế cho các liều thuốc làm giảm hạ lượng mỡ
trong cơ thể.
Liên hệ đến bệnh tim có các chứng cao huyết áp và đột qụy (tai biến mạch máu não).
Trung bình cứ trong 8 người là có một người bị cao huyết áp, loại bệnh âm thầm thường
không có triệu chứng rõ ràng nhưng lại rất nguy hiểm, có thể dẫn đến suy tim hay đột qụi
bất ngờ. Huyết áp do sức ép của máu lưu thông lên thành mạch khi tim co thắt đNy máu
đi. Số đo huyết áp bình thường là 120/80. Huyết áp trên giới hạn 135-140/85-90 được
xem như bắt đầu có triệu chứng cao huyết áp. Bệnh này thường do các chất kết tụ bên
trong mạch máu như cholesterol làm nghẽn sự lưu thông và do đó làm tăng huyết áp.
Cũng cần kể thêm các yếu tố di truyền hay môi trường và hoàn cảnh sống dễ gây căng
thẳng làm cơ thể tiết ra những kích thích tố bất lơị làm tăng huyết áp. Một trong những
nghiên cứu cho thấy tập thiền TM có thể làm giảm huyết áp đến 10.7/6.4 (ví dụ 140/90 –
10.7/6.4 = 129.3/83.4).
Chứng đột qụy là do một hay nhiều mạch máu trong não bị tắc nghẽn vì các chất như
cholesterol tích tụ, gây bán thân bất toại hoặc, tàn tật suốt đời hay tử vong.
N hững nghiên cứu và ứng dụng thiền định trong y học, nhất là cho chứng cao huyết áp,
trực tiếp ảnh hưởng đến bệnh tim và đột qụi, mang lại kết quả rất hữu ích và khích lệ.
Tê Khớp (Thấp Khớp)
Có hàng trăm thứ bệnh tê khớp, nhưng tổng quát có 3 loại chính yếu là do khớp xương có
mô sụn bị vỡ, viêm khớp do mô sụn bị xóa mòn gây sưng nhức và chấn thương khớp
xương do tai nạn gây nên. N hững triêu chứng đau nhức có thể thường xuyên hay cách
quảng. Cơn đau thường xảy ra trong lúc di động nhưng cũng có thể vào lúc nghỉ ngơi.
N gười bệnh cảm thấy đau nhức chỉ một nơi hay lan tỏa khắp cơ thể, các khớp xương có
vẻ như cứng lại và mất sự uyển chuyển. Vùng da trên khớp xương đau có thể sưng đỏ
lên. Bệnh tình thường gây mệt mỏi chán nản và đi đứng vận động khó khăn.
Y học hiện đại không có phương cách điều trị dứt căn bệnh mà chỉ có thể làm giảm hạ
các triệu chứng đau nhức như dùng các loại thuốc chống đau, chống viêm và thuốc an
11
thần, tập luyện các môn vận động nhẹ giúp cơ thể linh hoạt, giảm đau và sau cùng là
dùng phẫu thuật.
Một thí nghiệm nghiên cứu ứng dụng thiền chánh niệm trên chứng tê khớp kinh niên
(rheumatoic anthritis) tại đại học Maryland tháng 10/2007 cho thấy rằng mức độ căng
thẳng và trầm cảm của bệnh nhân giảm hạ 35% sau 6 tháng tập thiền.
Ứng dụng thiền chánh niệm bằng cách ngồi thoải mái ở một nơi yên tĩnh, mắt nhắm, chú
ý vào sự phập phồng của bụng theo hơi thở ra vào (bụng phồng khi hít vào và bụng xệp
khi thở ra) với cảm giác như đang trôi theo dòng hơi thở, nếu tâm giao động, chỉ đơn
thuần trở về chú ý vào hơi thở. Ví dụ như bất chợt nghe một âm thanh, tiếng nhạc,
chuông điện thoại, v.v. chỉ cần biết như vậy, nghe như vậy mà không suy nghĩ phán đoán
gì thêm. Cần chú tâm vào sự im lặng giữa các âm thanh xảy ra. Cách hành thiền chánh
niệm như vậy có thể giúp làm mất tác dụng của sự căng thẳng và cơn đau nhức.
Một thí nghiệm khác được thực hiện ở trung tâm y khoa đại học Massachusetts trên 90
người mang chứng đau nhức kinh niên. Sau 10 tuần lễ tập thiền, các cơn đau, việc sử
dụng thuốc và các triệu chứng lo buồn giảm hạ trong khi sự tự tin, hoạt bát và lạc quan
gia tăng. N hững phản ứng thuận lợi này còn được duy trì cho đến 15 tháng sau, trong khi
nhóm những người không tập thiền không cho thấy dấu hiệu cải tiến nào.
Tiểu Đường
Hầu hết thức ăn được hấp thu vào máu dưới dạng thức glucose, chất đường hữu dụng
trong máu, như là nguồn năng lượng cho sự phát triển tế bào. N hưng để glucose có thể
thấm nhập vào các tế bào cần có sự tác động của kích thích tố insulin.
Tiểu đường loại I xảy ra khi những tế bào beta trong tụy tạng bị phá hủy và không thể sản
xuất được insulin. Loại này chỉ chiếm 5-10 %.
Tiểu đường loại II chiếm đến 90-95%. Tụy tạng sản xuất đủ lượng insulin, nhưng vì một
lý do nào đó cơ thể không thể dùng được insulin một cách hiệu qủa. Sau nhiều năm, tình
trạng cũng giống như loại I, luợng đường tích tụ trong máu gia tăng và gây triệu chứng.
Loại II thường có liên hệ với tuổi cao, béo phì, di truyền, sử dụng thuốc, v.v.
Bệnh nhân hay khát nước, tiểu tiện thường xuyên, mệt mỏi, mắt mờ; có thể làm suy tim,
suy thận và mù mắt, bất lực và tàn tật ở chân.
Trong bệnh tiểu đường, sự căng thẳng bức xúc làm gia tăng lượng đường trong máu và
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Thêm vào đó, người ta có khuynh hướng thích ngồi ỳ một
chỗ, không chịu vận động và ăn những thực phNm chứa nhiều chất carbohydrate – nguồn
cung cấp lượng đường cao cho cơ thể. Khi lo âu buồn bực, người ta thường bê tha, buông
xuôi không còn lưu ý đến bản thân mình và do đó càng làm cơn bệnh thêm trầm trọng.
Hành thiền đều đặn và tự săn sóc chứng tiểu đường đòi hỏi phải có sự cam kết và kỷ luật
với chính mình, không những giúp điều khiển được cơn bệnh mà còn được hưởng thêm
những lợi ích thiết thực khác cho sức khỏe như hạ huyết áp, giảm luợng đường trong
máu, tỉnh táo hơn, giao tế xã hôi tốt hơn, chú tâm tốt hơn vào công việc và ít lo âu phiền
muộn hơn, từ đó phát sinh thái độ lạc quan, tự tin và tự kiểm soát được chính mình.
Suyễn và Dị Ứng
Chứng suyễn (asthma) có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi do đường hô hấp bị viêm, gây những
trở ngại như khí quản thu hẹp và đờm nhớt tiết ra làm nghẽn sự hô hấp. Suyễn thường tạo
ra các triệu chứng như ho hen, hơi thở khò khè, ngộp thở, cảm giác bức rức chật chội
trong ngực. Cơn suyễn thường thay đổi bất chợt và hay xảy ra về đêm.
12
Tập san Respiration (32/1975) công bố một thí nghiệm nghiên cứu trong 6 tháng , ứng
dụng thiền TM trên 21 bệnh nhân suyễn (cuống phổi) đã đi đến kết luận rằng thiền TM có
khả năng giúp giảm hạ chứng suyễn.
Cũng giống như trường hợp các bệnh trạng khác, bệnh suyễn thường trở nên trầm trọng
do căng thẳng bức xúc, chính yếu là sự hoảng hốt của chính bệnh nhân. N gười giữ được
tâm trí bình thản thì dễ dàng điều khiển được cảm xúc của mình và hiệu qủa dương tính
này gia tăng giúp máu và dưỡng khí lưu thông dễ dàng.
Một nghiên cứu được thực hiện trên một số bệnh nhân với những triệu chứng suyễn từ
trung bình đến trầm trọng mà không có tác dụng hữu hiệu với các loại thuốc. N hóm đầu
tiên được trị liệu với thuốc đặc biệt của bệnh suyễn. N hóm thứ 2 vừa dùng thuốc này vừa
hành thiền. Kết qủa thí nghiệm cho thấy nhóm thứ 2 có tập thiền đáp ứng thích hợp với
thuốc và không cần một liều lượng cao, cũng như có tâm được ổn định hơn. N hưng sau 2
tháng không tập thiền, nhóm này được khảo sát lại và người ta tìm thấy rằng kết qủa của
họ cũng giống như nhóm không tập thiền. Điều này nêu rõ việc tập thiền liên tục rất quan
trọng cho bệnh suyễn.
Phương thức điều hòa hơi thở được xem như là một phần hữu ích của tiến trình hành
thiền, có tác dụng trợ lực cho phổi và đường hô hấp, nhờ đó có thể ngăn chận được cơn
suyễn bộc phát. Yếu tố thư giãn trong tiến trình hành thiền giúp bệnh nhân cảm thấy dễ
chịu thư thái hơn khi cơn suyễn nổi lên. Sự chú tâm vào hơi thở giúp giảm nhẹ mức độ
hốt hoảng vì phải chống trả với sự khó thở khi đợt suyễn hoành hành, nhờ đó thoát ra
được cái vòng lNn quNn của suyễn. Với việc hành thiền 15-30 phút đều đặn mỗi ngày,
những đợt tấn công của suyễn sẽ bớt trầm trọng hơn, số lần xảy ra ít hơn, cũng như dễ
dàng dung hợp các phương thuốc trị suyễn.
Các bệnh dị ứng là do phản ứng của hệ miễn nhiễm qua tác động thái quá của bạch huyết
cầu trong khi chống trả lại các tác nhân xâm nhập như phấn hoa, buị, khói thuốc, thức ăn,
mùi vị, v.v..làm tiết ra histamine gây viêm tính và những dị ứng như ngứa mắt, chảy mũi,
hắt hơi, mệt nhọc, cảm giác khó chịu, v.v.. Tùy theo bản chất mỗi cá nhân, có người
không hề hấn gì khi tiếp xúc với những tác nhân gây dị ứng này; nhưng cũng có những
trường hợp trầm trọng do thức ăn, thuốc uống hay nọc độc của côn trùng chích có thể gây
mạng vong.
Sự giảm thiểu cortisol - kích thích tố gây căng thẳng, qua hành thiền, sẽ giúp tuyến
thượng thận (adrenal gland) được mau bình phục và nhờ đó chống lại các chứng viêm do
suyễn gây nên.
Viêm Gan
Ba loại vi khuNn phổ thông gây viêm gan là Hepatitis A, B và C. Loại A chỉ gây nhiễm
trong một thời gian và được miễn nhiễm (không tái phát), trong khi 2 loaị kia có thể gây
ảnh hưởng lâu dài và tác hại khốc liệt. N hững triệu chứng thông thường là ăn mất ngon,
buồn nôn, ói mửa, sốt, mỏi mệt, suy yếu và đau bụng. Các loại vi khuNn thường được lây
lan từ người khác hay từ các điều kiện môi sinh ô nhiễm, v.v.
Sự bùng phát các triệu chứng viêm gan xảy ra sau một cơn căng thẳng và nhiều nghiên
cứu đã xác minh sự căng thẳng bức xúc có liên quan mật thiết với viêm gan.
Một số kết luận và những biện minh cho việc ứng dụng thiền định đối với trị liệu viêm
gan như sau.
- Bệnh nhân viêm gan C thuộc dạng người có cá tính bồng bột nóng giận, khác biệt với
người có cá tính thư thái trầm tỉnh do hiệu quả tập thiền.
13
- Trong lúc căng thẳng, những tế bào sát thủ thiên nhiên sinh sôi nảy nỡ trong gan.
Chúng có thể hủy diệt tế bào gan và làm cho chứng bệnh trở nên trầm trọng.
- Bằng cách theo dõi bộ phận não điều khiển gan, người ta quan sát được rằng sự căng
thẳng gây thiệt hại cho máu và do đó dẫn đến ảnh hưởng tai hại cho gan.
- Thực hành thiền định kích thích thần kinh phản giao cảm, giúp làm dịu những cơn bực
dọc nóng giận.
- Với công năng tăng cường hệ miễn nhiễm, thiền định làm giảm hoạt động của vi khuNn
tấn công các tế bào gan.
Hiệu Ứng Thơì Mãn Kinh (Hot Flashes)
Hot flashes thường xảy ra trong thời kỳ mãn kinh của phụ nữ. N guyên nhân chưa được
xác minh rõ ràng nhưng có lẽ do sự giảm sút kích thích tố estrogen khi lớn tuổi. Tuy
không thuộc dạng nguy hiểm đến tính mạng nhưng cũng gây những triệu chứng trăn trở
khó chiụ như mất ngủ, mệt mỏi chán chường, toát mồ hôi, nhức đầu, buồn nôn, khó tập
trung làm việc, đỏ rân trên mặt - cổ - ngực, và cảm giác nóng ran loan khắp hay máu chạy
rân trong người. Bệnh trạng có thể kéo dài trong 5-10 năm và tạo thêm rắc rối nếu có
những bệnh khác.
Chỉ trong gần đây, người ta đã sử dụng phương pháp thay thế hormone HRT (hormone
replacement therapy) cho người bệnh hot flashes. Tuy nhiên phương pháp này cũng có
thể gây ung thư vú và bệnh tim.
Theo một kết qủa nghiên cứu được thực hiện tại Đại Học Massachsetts năm 2006, thiền
định xoa dịu những căng thẳng và giúp hạ nhiệt những cơn hot flashes, giúp cuộc sống
được thư thái dễ chịu hơn. Trong nghiên cứu này các phụ nữ theo dõi và ghi lại nhật ký
trong suốt qúa trình tập thiền chánh niệm. Chương trình gồm có 8 tuần lễ hành thiền, 2.5
giờ mỗi tuần, và nhận 2 đĩa ghi âm thực tập tại nhà mỗi ngày 45 phút, với các đề mục:
- Quán thân: di chuyển sự chú ý trên thân từ chân lên đầu để nhận thức những cảm giác
của thân trong tư thế nằm ngửa thoải mái.
- N gồi thiền: Lưng thẳng, chú tâm vào dòng hơi thở ra vào, những cảm giác của thân, ý
nghĩ và xúc cảm.
- Vận động nhẹ nhàng: giúp phát triển tỉnh giác trong lúc chuyển động cơ thể.
Kết qủa thí nghiệm cho thấy số lần bị hot flashes hoành hành giảm xuống 39% và cường
độ trầm trọng giảm đi 40%. Triển vọng của nghiên cứu này khuyến khích ứng dụng thiền
chánh niệm để chế ngự các triệu chứng thời mãn kinh, cũng như đặt kỳ vọng vào những
nghiên cứu kế tiếp.
Phương pháp thở sâu theo dõi hơi thở ra vào với nhịp điệu phồng xệp nơi bụng rất hiệu
nghiệm giúp trị liệu các chứng nhức đầu (thay vì tập trung tư tưởng trong đầu thì đem
tâm về đan điền hay vùng dưới rốn) và chứng mất ngủ (sử dụng thiền nằm trước khi ngủ).
Tâm Bệnh
Các bệnh về tâm là những hiện tượng hay triệu chứng tâm lý thường gây nên những hệ
lụy buồn khổ và tàn tật. Trạng thái này làm nhiễu loạn ý nghĩ, cảm giác, khả năng giao
tiếp và những hoạt động hàng ngày. N hững hình thức thông thường gồm có trầm cảm,
mất trí, phát cuồng, bị ám ảnh, hốt hoảng, căng thẳng do chấn thương và điên khùng.
Điều quan trọng là các trạng thái này có thể được hồi phục. N hiều người rất sợ và hiểu
lầm về các chứng tâm thần nên hay có thành kiến và kỳ thị, vì không hiểu rõ vấn đề.
N hưng thật sự các chứng bệnh này rất phổ thông, ví dụ ở Anh quốc cứ trong 4 người thì
14
có một người bất thường như vậy. N ếu được chữa chạy thích đáng, bệnh nhân vẫn có thể
tiếp tục cuộc sống bình thường, tuy rằng y học hiện đại chỉ có thể trị liệu cho một số bệnh
nhân, và không hiệu qủa cho những người khác. Cũng do những khó khăn này mà một số
trung tâm thiền không muốn thu nhận các bệnh nhân tâm thần.
Thiền tứ niệm xứ Vipassana được sử dụng trong các trại tù ở Ấn Độ đã chứng tỏ rất hữu
ích đối với các tù nhân nghiện ngập, bệnh tâm thần và lãnh cảm; với mục đích giúp họ
tâm trí được sáng suốt, định hướng hoàn cảnh của mình và giao tế tốt với người khác.
Sự thành công cũng tương tự tại các trại tù cải tạo ở Canada và Mỹ.
Gần đây vào cuối mùa hè 2008, tại Trung Tâm Tâm Thần và Phòng Chống N ghiện N gập
Toronto-Canada, giáo sư tâm lý học Zindel Segal đã hướng dẫn thực hiện thí nghiệm 8
tuần lễ hành thiền chánh niệm cho 177 bệnh nhân vừa hồi phục qua các loại thuốc an thần
đối với những chứng trầm cảm và lo sợ. Mục đích thí nghiệm là ứng dụng thiền định để
kiểm soát và trị liệu những ý nghĩ và cảm xúc phiền toái, so sánh với phương pháp chữa
trị bằng thuốc, và nhấn mạnh ở điểm có ngăn ngừa được sự tái phát các triệu chứng hay
không.
Thí nghiệm này nằm trong dự án nghiên cứu trị liệu 2,5 triệu đô la do chính phủ tài trợ.
Thiền sinh được hướng dẫn ngồi tĩnh lặng, nhắm mắt, theo dõi hơi thở qua sự phồng xệp
của bụng và những cảm giác của thân tâm. Khi thấy sự chú tâm bị sao lãng liền quay về
với sự tập trung hơi thở của mình. Chỉ làm được như vậy hành giả đã có thể chú tâm vào
một ý tưởng rắc rối nào đó – ví dụ về sự đổ vỡ tỉnh cảm. Cần kiên nhẫn và chấp nhận
những cảm xúc như vậy mà không cố tình làm chúng thay đổi hay biến dạng, chỉ đơn
thuần quan sát một cách khách quan mà thôi. Các bệnh nhân được phân chia thành 3
nhóm: (1) tiếp tục dung thuốc an thần, (2) dùng thuốc giả tưởng (placebo) và (3) hành
thiền trong 8 tuần lễ. Kết qủa đang được kiểm chứng.
Cho đến nay do sự phức tạp của bệnh trạng, chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng thiền
định vào trị liệu các bệnh trạng tâm thần, tuy nhiên vẫn có những quan tâm và cố gắng
thực hiện đang diễn tiến.
Những Loại Bệnb Trạng Có Thể Ứng Dụng Thiền Định
Tổng quát, qua những nghiên cứu trị liệu, thiền định có thể đươc ứng dụng cho những thể
loại bệnh trạng như sau.
- Hệ thần kinh: nhức đầu, phiền muộn, mất ngủ, xơ cứng, đột qụy, động kinh.
- Hệ tiêu hóa: bệnh viêm ruột, đau bụng, ung nhọt, buồn nôn,
- N ghiện ngập: hút thuốc, ma túy, uống rượu.
- Hô hấp: bệnh hen suyễn
- Cơ quan sinh dục: mãn kinh, tiền kinh nguyệt, bất lực.
- Da: mụn, nhiễm trùng.
- Hệ miễn nhiễm: cảm cúm, dị ứng, bệnh AIDS
- Hệ liên-thân (inter-bodily): ung thư.
Hay là
- Tâm: phát triển trí thông minh, gia tăng sáng tạo, nhận thức rộng rãi, cải thiện tri giác,
và trật tự thứ lớp, giảm lo âu phiền muộn, an tâm.
- Thân: hạ huyết áp-nhịp tim, cải thiện sức khỏe, giảm nhu cầu về trị liệu, thư giãn, hồi
xuân, cải thiện hô hấp, an thân.
15
- Thái Độ: tăng hiệu suất làm việc, cư xử tốt, giảm thiểu lạm dụng thuốc, cảm giác thư
thái dễ chịu.
- Xã Hội: cải thiện phNm chất đời sống, giảm tội phạm, giảm bạo hành và xung đột.
TRIỂN VỌNG
Việc tập thiền đang đến dần với nhiều người bởi vì bất cứ cá nhân nào cũng có thể thực
hành một cách an toàn và không tốn kém bao nhiêu. Mỗi người có thể hành thiền một
mình hay cùng với người khác ngay tại nhà. Trong thời buổi cạnh tranh bon chen với
những hoạt động dễ gây căng thẳng và bệnh tật, người ta tìm đến thiền để giải tỏa những
nổi bực dọc lo sợ hay cơn đau hành hạ, nâng cao trí tuệ, làm trẻ trung hóa cơ thể và tăng
tiến cuộc sống.
Tại Thái Lan người ta dùng phương pháp trị bệnh thiên nghiệm (holistic), nhấn mạnh
những yếu tố thiên nhiên ảnh hưởng đến cơ thể con người, sự quan trọng của những tiến
trình tâm thức và hành thiền, sử dụng các thức ăn thiên nhiên như là những biện pháp an
toàn nhằm giảm nhẹ những phiền lụy trong cuộc sống. Đặc biệt qua thiền định, tâm sẽ
xuất sinh những tư tưởng tích cực lạc quan giúp cơ thể khỏe mạnh và sức đề kháng bệnh
tật cao hơn. Thay vì nếu để nảy sinh những tâm tư tiêu cực buồn khổ thì chẳng khác gì
những rỉ sắt xói mòn cơ thể và gây tử vong nhanh hơn.
Theo kết qủa nghiên cứu mới nhất vào cuối năm 2008 của Linda N guyễn và đồng sự tại
Đại Học Toronto-Canada, hầu hết mọi bệnh trạng đều có liên hệ đến phiền muộn, lo âu,
sợ sệt và đau đớn. Bệnh nhân chỉ cần tập thiền chánh niệm trung bình 17 phút mỗi ngày
cũng đủ cảm nhận được thân tâm an lạc và cuộc sống thăng tiến..
Trong cuộc sinh hoạt thường ngày, hành giả không những chỉ thường xuyên tập thiền với
phương pháp thích hợp (ví dụ hiệu qủa của phép thiền giúp cảm thấy thư thái yên lành)
mà cần biết cách sống thiền. N goài sự thích nghi với hoàn cảnh công việc, nên gần gũi
thiên nhiên, tập nếp sống lành mạnh (ngủ giới), theo các phép Nm thực và vận động
dưỡng sinh, gìn giữ thân tâm gắn bó với những tư tưởng và hành động lạc quan, tránh
những căng thẳng bực dọc hay suy tư yếm thế sầu thảm, không lo sợ và biếng nhác.
N gười viết với trải nghiệm bản thân, đã từng cảm nhận những hiệu qủa hữu ích của thiền
đối vài triệu chứng như cảm cúm, tim mạch, tê khớp, cũng như luôn được thân tâm an ổn
và cơ thể lành mạnh. Xin nêu ra đây một câu chuyên thật để kết thúc bài viết dài dòng
này. Trong một thử nghiệm máu, kết qủa cho thấy lượng kích thích tố TSH (thyroid
stimulating hormone) tăng cao và lượng T3, T4 giảm hạ so với mức bình thường nên
người viết đã được gửi đến chuyên khoa để trị chứng hypothyroidism hay bướu cổ nhu
tính. Y học giải thích bệnh trạng này là do tuyến giáp (thyroid gland) ở cổ suy thoái nên
không còn đủ khả năng sản xuất các kích thích tố quan trọng như T3 và T4. Do đó tuyến
yên (pituitary gland) nằm dưới đáy não phải tiết ra kích thích tố TSH nhiều hơn nhằm
kích thích tuyến giáp. Tác động này gây sức ép và tạo ra bướu cổ nhu tính ở tuyến giáp.
Riêng vị bác sĩ chuyên khoa thì cứ 3 tháng bắt thử máu một lần và cứ tăng dần liều thuốc
trong toa lên từ màu trắng, rồi đến xanh, vàng và đỏ. N gười viết thì nhất quyết không bao
giờ uống một viên thuốc nào, cũng như bao nhiêu năm nay không hề đụng đến thuốc tây,
nhưng không cho bác sĩ biết điều này. Tuy vậy luôn tuân thủ đúng những lần thử nghiệm
máu để biết kết quả. Trong lúc đó, tự trị liệu theo phương cách bình dị là ăn gạo lức muối
mè với rong biển và vài món dinh dưỡng khác, tập thiền, khí công, tản bộ hay chạy bộ
16
đều đặn mỗi ngày. Điều lý thú là sau những lần kết qủa thử máu kế tiếp, lượng TSH, T3
và T4 đã trở lại mức bình thường. Vị bác sĩ chuyên khoa hoan hỉ tuyên bố nhờ tác dụng
của thuốc, chứng bệnh đã được ổn định, nhưng phải liên tục mỗi ngày uống đều đặn một
viên Levothyroxine (hormone nhân tạo T4) theo toa cho đến trọn đời.
Đương nhiên cần phải tôn trọng những người có lương tâm và ý thức trách nhiệm, nhưng
thực tế phần lớn nhà bào chế thuốc và giới y dược trước hết nghĩ về lợi nhuận thu nhập
của mình. Bác sĩ khám bệnh viết toa thuốc và dược sĩ bán thuốc theo toa cho thật tốt.
N hững tệ nạn như mánh khóe gian lận, lạm dụng tình trạng trợ cấp an sinh xã hôi và bảo
hiểm y tế càng làm cho giới này thêm sung túc phát đạt. N gười viết đã từng bị các bác sĩ
ép phải thường xuyên đến khám bệnh lấy toa thuốc, dù không cần thiết, xong mua thuốc
ngay ở tiệm dược trước văn phòng qúi ngài.
Các loại thuốc tây thường chỉ có hiệu nghiệm nhất thời với bệnh trạng. N goài những
phản ứng phụ (side effects) khi dùng thuốc, mấy ai có thể lường trước được những hệ lụy
về lâu về dài của thuốc gây tác hại cho cơ thể như thế nào. Lại nữa một loại thuốc có
công năng cho bộ phận này có thể gây nguy hại cho bộ phận khác, nhất là ảnh hưởng
tiềm tàng của những loại thuốc tổng hợp biến chế (synthesized), không thuộc dạng dược
thảo thiên nhiên. Thuốc tây là những hóa chất, nếu bị lạm dụng sẽ tồn đọng lâu dài gây ô
nhiễm trong cơ thể. N hững ảnh hưởng của thuốc có thể làm suy yếu, phá hủy sự quân
bình và phòng vệ tự nhiên của hệ miễn nhiễm, lót đường cho các loại vi khuNn đột nhập
và gây bệnh. Uống thuốc nhiều khi chỉ có tác dụng tâm lý, như các thí nghiệm trên những
bệnh nhân uống thuốc giả tưởng (placebo) cho thấy vẫn có thể lành bệnh.
Trái lại, sử dụng thiền định và những phương pháp dưỡng dinh tự nhiên, vừa giản dị, an
toàn, không mấy tốn kém, giờ giấc uyển chuyển, tiện lợi, vừa đem lại những bổ ích sức
khỏe thiết thực và lâu bền cho thân tâm.
THAM KHẢO
1/ Buddhist Religion, Buddhist Meditation
http://www.buddhist-temples.com/buddhist-religion.html
2/ Psychological mechanism of Meditation - Meditation & Mental Health
http://www.mediomedia.org/shopcontent.asp?type=faqs&template=tmp_content.htm
3/ Therapies: meditation therapy, 9/2008
http://library.thinkquest.org/24206/meditation-therapy.html
4/ Physiological aspects of meditation
http://www.wholefitness.com/meditation.html
5/ Anapanasati: meditation on breathing
http://departments.colgate.edu/greatreligions/pages/buddhanet/meditation/bodhis/anapana
115.tx
6/ Regression of cancer after intensive meditation – Meares Ainslie, 8/1976 Australia
www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/790122
7/ Rheumatoic Arthritis Patients Benefit from Meditation Therapy – 10/2007
http://www.medicalnewstoday.com/articles/84125.php
8/ Meditation as cancer therapy – Dr. Swami Karmananda Sydney- A. Meares
http://www.yogamag.net/archives/1979/isep79/medcan.shtml
9/ Meditation May Cut Heart Disease Death – 2/2005
http://www.webmd.com/balance/news/20050502/meditation-may-cut-heart-disease-death
17
10/ TM lowers blood pressure 3/2008
www.newsmax.com/health/Meditation_Lowers_Blood/2008/03/17/80943.html
11/ Does compassion medition prevent heart disease? 1/ 2008.
http://meditationforthemasses.com/does-compassion-meditation-prevent-heart-disease/
12/ Meditation & Heart Disease: Scientific Evidence & Effects..Dr. Vermon Barnes
http://www.meditation-techniques-for-happiness.com/meditation-and-heart-disease.html
13/ Aid Allergy Treatment Using Meditation
http://ezinearticles.com/?Aid-Allergy-Treatment-Using-Meditation&id=1317836
14/ Meditation is good for your health..09/2003..Kabat-Zinn found MM .. 1979
http://allergyasthma.wordpress.com/category/meditation/
15/ Meditation to cure Insomnia
http://www.project-meditation.org/bom/meditation_to_cure_insomnia.html
16/ Thiền Định – Pháp Lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp (Thiền Xuất Hồn)
http://www.vovi.org/method/meditation.htm#4
17/ Midfulness Meditation slows progression of HIV ..4/2008
http://www.eurekalert.org/pub_releases/2008-07/uoc--mms072408.php
18/ Managing Stress through Mindfulness Meditation, Linda N guyen et al, Faculty of
N ursing, University of Toronto, 12/2008
http://www.library.utoronto.ca/event/healthfair/speaker1-presentation.ppt
19/ Cancer news & information – cancerwise .. 3/ 2005.. Jon KabtZinn
http://www.cancerwise.org/march_2005/display.cfm?id=42F070C2-129A-44E3-
8DAE0A1BA923C864&method=displayFull&color=green
20/ New research meditation changes brain physical structure…Dalai Lama.. 7/2007
http://www.clearharmony.net/articles/200707/40499.html
21/ Meditation for Hypertension
http://www.altmd.com/Articles/Meditation-for-Hypertension
22/ Mindful Meditation helps Rheumatoic Arthritis
http://www.inneridea.com/library/mindful-meditation-helps-rheumatoid-arthritis
23/ Meditation & the art of diabetes management
http://www.diabetesselfmanagement.com/articles/Alternative_Medicine_Complementary_Therapi
es/Meditation_and_the_Art_of_Diabetes_Management
24/ Transcendental Meditation & Asthma Wilson AF- Respiration - 1975
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1118672?dopt=Abstract
25/ Mediation May Cool hot Flashes…9/2006
http://www.webmd.com/menopause/news/20060913/meditation-may-cool-hot-flashes
26/ Meditation may reduce - help hepatitis c flare-ups
http://www.medkb.com/Uwe/Forum.aspx/hepatitis-c/6283/Meditation-may-reduce-hep-c- flare-ups
27/ Mindfulness-Based Art Therapy For Cancer Patients..12/2008
http://www.clinicaltrialssearch.org/mindfulnessbased_art_therapy_for_cancer_patients.html
28/ Arthritis: osteoarthritis, Fibromyalagia & Rheumatoic Arthritis..12/2006
http://www.zimmer-canada.com/z/ctl/op/global/action/1/id/379/template/PC
29/ Meditation Changes the Brain, Richard Davidson ..1/2005
http://meditation-health.suite101.com/article.cfm/meditation_changes_the_brain__
Tác giả bài viết: Minh Phúc, Ph.D.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn